TRỰC T4

09/03/2022 03:06 |3 năm trước

(LSVN) -

CHIỀU

1. Điều kiện mở ngành đào tạo trình độ thạc sĩ

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT ngày 18/01/2022 do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo, đình chỉ hoạt động của ngành đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ, tiến sĩ.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, Thông tư 02/2022/TT-BGDĐT quy định rõ về điều kiện mở ngành đào tạo trình độ thạc sĩ. Theo đó, cơ sở đào tạo mở ngành đào tạo trình độ thạc sĩ phải đáp ứng các điều kiện chung để mở ngành theo quy định tại Điều 3 Thông tư này và các điều kiện sau đây cho toàn bộ khóa học tại thời điểm nộp hồ sơ đề nghị mở ngành đào tạo:

- Có ít nhất 05 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu (các ngành đào tạo giáo viên tiếng dân tộc thiểu số Việt Nam, ngành đào tạo Ngôn ngữ, văn học và văn hóa Việt Nam, ngành đào tạo Ngôn ngữ, văn học và văn hóa nước ngoài, ngành đào tạo Thể dục, thể thao, ngành đào tạo thuộc lĩnh vực Nghệ thuật, phải có ít nhất 03 tiến sĩ ngành phù hợp là giảng viên cơ hữu), trong đó có một giáo sư hoặc phó giáo sư có kinh nghiệm quản lý đào tạo hoặc giảng dạy đại học tối thiểu từ 03 năm trở lên (không trùng với giảng viên cơ hữu là điều kiện mở ngành đào tạo trình độ thạc sĩ của các ngành khác), chịu trách nhiệm chủ trì xây dựng, tổ chức thực hiện chương trình đào tạo.

- Bảo đảm về số lượng và chất lượng đội ngũ giảng viên để thực hiện chương trình đào tạo, trong đó có giảng viên cơ hữu với chuyên môn phù hợp chủ trì giảng dạy đối với từng môn học, học phần trong chương trình đào tạo.

- Bảo đảm về số lượng và tiêu chuẩn của người hướng dẫn luận văn theo quy định tại quy chế tuyển sinh và đào tạo trình độ thạc sĩ hiện hành của Bộ Giáo dục và Đào tạo.

- Đã đào tạo và cấp bằng trình độ đại học ngành tương ứng, hoặc ngành phù hợp trong trường hợp ngành đào tạo ở trình độ đại học chưa có trong Danh mục thống kê ngành đào tạo.

Cơ sở đào tạo không đáp ứng được điều kiện quy định tại khoản 4 Điều này phải thuyết minh sự đáp ứng vượt trội về các điều kiện khác so với quy định tại Thông tư này và so với các cơ sở đào tạo trong nước, bao gồm: đội ngũ giảng viên (số lượng, trình độ, uy tín chuyên môn); cơ sở vật chất phục vụ đào tạo và nghiên cứu; năng lực và kết quả nghiên cứu khoa học; hợp tác quốc tế; số ngành đào tạo và số người học đã được cấp bằng tốt nghiệp thạc sĩ của cơ sở đào tạo; ngành đào tạo dự kiến mở thuộc lĩnh vực ưu tiên hoặc có nhu cầu cấp thiết đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Bộ Giáo dục và Đào tạo xác minh, kiểm tra thực tế và xem xét, quyết định mở ngành trong trường hợp này.

Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 04/3/2022. Thông tư này thay thế Thông tư số 22/2017/TT-BGDĐT ngày 06/9/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành đào tạo trình độ đại học; Thông tư số 09/2017/TT-BGDĐT ngày 04/4/2017 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo quy định điều kiện, trình tự, thủ tục mở ngành hoặc chuyên ngành đào tạo và đình chỉ tuyển sinh, thu hồi quyết định mở ngành hoặc chuyên ngành đào tạo trình độ thạc sĩ, trình độ tiến sĩ.

MAI HUỆ

Điều kiện mở ngành đào tạo trình độ đại học

SÁNG

1. Quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi

(LSVN) - Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.

Cụ thể, việc lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại Điều 188, Điều 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018.

Trường hợp người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý, Điều tra viên có thể mời thêm người thân trong gia đình, đại diện nhà trường, chuyên gia tâm lý, đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc các tổ chức, cá nhân khác tham gia khi lấy lời khai để phối hợp hỗ trợ ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục. Người được mời tham gia có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Điều tra viên ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục và phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc lấy lời khai.

Hoạt động lấy lời khai người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 183, 186, 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 và quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lấy lời khai, hỏi cung của Điều tra viên; nếu thấy lời khai chưa rõ, còn mâu thuẫn, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung bổ sung; nếu phát hiện có vi phạm trong việc lấy lời khai, hỏi cung thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục ngay. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên. Nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung. Điều tra viên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung theo quy định pháp luật.

Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

TIẾN HƯNG

Thực hiện dự án xử lý rác thải có phải thành lập doanh nghiệp không?

2. Cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định RCEP

(LSVN) - Ngày 18/02/2022, Bộ Công Thương ban hành Thông tư 05/2022/TT-BCT quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (Hiệp định RCEP). Trong đó quy định chung về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo Hiệp định RCEP.

Thông tư này quy định Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định Đối tác Kinh tế toàn diện khu vực (sau đây gọi là Hiệp định RCEP). Điều 19 Thông tư quy định chung về cơ chế chứng nhận xuất xứ hàng hóa.

Theo đó, hàng hóa có xuất xứ của Việt Nam xuất khẩu sang các nước thành viên được xem xét cho hưởng ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ Hiệp định RCEP khi có C/O được cấp theo quy định Thông tư này.

Hàng hóa có xuất xứ của các nước thành viên nhập khẩu vào Việt Nam được xem xét cho hưởng ưu đãi thuế quan trong khuôn khổ Hiệp định RCEP khi nộp một trong các chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa sau:

- C/O được cấp bởi cơ quan, tổ chức cấp C/O theo quy định tại Điều 21 và Điều 22 Thông tư này.

- Chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa do nhà xuất khẩu đủ điều kiện phát hành theo quy định tại Điều 20 và Điều 22 Thông tư này.

Chứng từ tự chứng nhận xuất xứ hàng hóa theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều này:

- Được phát hành dưới dạng văn bản hoặc các hình thức khác bao gồm dạng điện tử.

- Bao gồm các thông tin tối thiểu theo quy định tại Phụ lục II ban hành kèm theo Thông tư này.

- Có hiệu lực trong vòng 01 năm kể từ ngày phát hành.

- Sử dụng ngôn ngữ tiếng Anh, có chữ ký và tên của người tự chứng nhận và thời điểm phát hành.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 04/4/2022.

Cơ quan, tổ chức cấp C/O xem xét cấp C/O mẫu RCEP cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam trước ngày Thông tư này có hiệu lực để được hưởng ưu đãi thuế quan theo quy định của Hiệp định RCEP và của nước thành viên nhập khẩu.

Cơ quan hải quan nước thành viên nhập khẩu chấp nhận chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa được phát hành kể từ ngày 01/01/2022. Thủ tục kiểm tra chứng từ chứng nhận xuất xứ hàng hóa để cho hưởng ưu đãi thuế quan được thực hiện theo quy định của Hiệp định RCEP, các nội dung quy định tại Chương III Thông tư này và các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan.

HỒNG HẠNH

Quy tắc xuất xứ hàng hóa trong Hiệp định RCEP

3. Thủ tục để F0 được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội

(LSVN) - Tôi bị Covid-19 và có tham gia bảo hiểm xã hội (BHXH). Được biết, người lao động tham gia bảo hiểm xã hội sẽ được hưởng đầy đủ các quyền lợi nếu đảm bảo các điều kiện, hồ sơ theo đúng quy định. Vậy thủ tục để F0 được hưởng chế độ bảo hiểm xã hội quy định như thế nào? Bạn đọc H.T. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo quy định, đối với người lao động đóng BHXH nếu bị mắc Covid-19 sẽ được hưởng các khoản tiền sau:

- Chế độ ốm đau: Theo quy định tại Điều 25 Luật BHXH năm 2014, người lao động bị ốm đau hoặc phải nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị ốm đau mà có xác nhận của cơ sở y tế có thẩm quyền sẽ được hưởng chế độ ốm đau. Chế độ này hiện được áp dụng để chi trả cho người lao động bị mắc Covid-19 và nghỉ việc để chăm sóc con dưới 7 tuổi bị mắc Covid-19.

- Chế độ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe: Tại Điều 29 của Luật BHXH năm 2014, sau khi điều trị các bệnh khác hoặc Covid-19, nếu người lao động đã nghỉ việc hưởng chế độ ốm đau đủ thời gian trong một năm theo quy định mà trong vòng 30 ngày trở lại làm việc, sức khỏe của người lao động vẫn chưa hồi phục thì được nghỉ dưỡng sức, phục hồi sức khỏe.

- Tiền lương nếu chưa nghỉ hết phép: Nếu người bị mắc Covid-19 nghỉ việc để điều trị mà vẫn còn phép năm thì thời gian nghỉ việc này có thể được trừ vào ngày nghỉ phép năm. Do đó, người lao động vẫn được hưởng nguyên lương từ người sử dụng lao động.

Theo quy định tại Luật BHXH năm 2014, Bộ trưởng Bộ Y tế quy định mẫu, trình tự, thẩm quyền cấp giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH, giấy ra viện và các giấy tờ khác làm căn cứ hưởng BHXH. Bộ Y tế đã có các Công văn số 1492/KCB-PHCN&GĐ ngày 19/11/2021, Công văn số 238/BYT-KCB ngày 14/01/2022, theo đó, hồ sơ hưởng chế độ ốm đau đối với người lao động bị ốm đau thực hiện theo quy định tại khoản 1, 2 Điều 100 Luật BHXH năm 2014; khoản 1, 2 Điều 21 Thông tư số 56/2017/TT-BYT của Bộ Y tế.

Cụ thể, hồ sơ đề nghị hưởng (đối với người lao động là F0 hoặc chăm con dưới 7 tuổi là F0) gồm giấy tờ sau:

- Đối với người lao động là F0 điều trị nội trú: Giấy ra viện.

- Đối với người lao động là F0 điều trị ngoại trú: Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH hoặc Giấy ra viện có chỉ định của y, bác sĩ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị nội trú.

Về mức hưởng, tại khoản 1 Điều 28 Luật BHXH năm 2014 quy định, trong thời gian nghỉ, người lao động sẽ được hưởng 75% mức tiền lương đóng BHXH của tháng liền kề trước khi nghỉ việc. Để hưởng chế độ ốm đau sau khi điều trị khỏi Covid-19, người lao động cần nộp lại cho đơn vị sử dụng lao động bản sao Giấy ra viện (đối với trường hợp điều trị nội trú); Giấy chứng nhận nghỉ việc hưởng BHXH hoặc Giấy ra viện có chỉ định của y, bác sĩ điều trị cho nghỉ thêm sau thời gian điều trị (đối với trường hợp điều trị ngoại trú) trong vòng 45 ngày kể từ ngày trở lại làm việc để đơn vị hoàn thiện hồ sơ và gửi cơ quan BHXH.

Cơ quan BHXH sẽ giải quyết chế độ cho người lao động trong tối đa 6 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ theo quy định. Người lao động có thể nhận tiền qua tài khoản ngân hàng hoặc đơn vị sử dụng lao động.

TIẾN HƯNG

F0 điều trị tại nhà có được hưởng chế độ ốm đau từ BHXH?

4. Bàn về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt theo Điều 54 BLHS                      

(LSVN) - Quyết định hình phạt là hoạt động tư duy của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân (Hội thẩm quân nhân) ngay sau khi đã xác định tội danh đối với hành vi phạm tội. Nếu định tội là tiền để, là cơ sở cho việc quyết định hình phạt, thì quyết định hình phạt là kết quả cuối cùng của hoạt động xét xử. Quyết định hình phạt chính xác có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động xét xử của Tòa án. Để quyết định hình phạt chính xác, Tòa án còn phải tuân theo những nguyên tắc, những căn cứ về quyết định hình phạt đã được quy định trong Bộ luật Hình sự. Ngoài ra, Tòa án còn phải xem xét, cân nhắc đến tình hình chính trị. kinh tế, xã hội của từng địa phương, yêu cầu của việc đấu tranh phòng ngừa, chống tội phạm và yếu tố khác có liên quan đến việc quyết định hình phạt.

Mục 2 Chương VIII Bộ luật Hình sự quy định về quyết định hình phạt trong các trường hợp cụ thể bao gồm: Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng (Điều 54); quyết định hình phạt trong trường hợp phạm nhiều tội (Điều 55); quyết định hình phạt trong trường hợp chuẩn bị phạm tội, phạm tội chưa đạt (Điều 57); quyết định hình phạt trong trường hợp đồng phạm (Điều 58).

Trong phạm vi bài viết, tác giả tập trung phân tích quy định của Bộ luật Hình sự về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng và thể hiện quan điểm cá nhân về những quy định còn tồn tại quan điểm áp dụng khác nhau; đưa ra kiến nghị hoàn thiện pháp luật. 

1. Quy định của điều luật  

Điều 54 Bộ luật Hình sự về trường hợp quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng thể hiện:

1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này.

2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể.

3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án.

2. Thực tiễn áp dụng

Thứ nhất, về áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS: 

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Khi có đủ căn cứ áp dụng khoản 1 Điều 54 đối với bị cáo, Tòa án quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật . Tuy nhiên, hình phạt áp dụng phải cùng loại với hình phạt bị truy tố ban đầu. Ví dụ: Nguyễn Quốc A phạm tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản theo khoản 2 Điều 174 BLHS có khung hình phạt từ 2 năm đến 07 năm, khi áp dụng khoản 1 Điều 54 thì Tòa án sẽ quyết định hình phạt đối với A theo khoản 1 Điều 174 đó là “1. Người nào bằng thủ đoạn gian dối chiếm đoạt tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

………………………..

Theo quan điểm trên đưa ra, phạm vi áp dụng phải là hình phạt cùng loại, đó là hình phạt tù mà khoản 1 quy định từ 6 tháng đến 3 năm trong khi khoản 1 có cả hình phạt cải tạo không giam giữ.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Vì điều luật không quy định phạm vi áp dụng phải là hình phạt cùng loại nên khi áp dụng khoản 1 Điều 54 BLHS để quyết định hình phạt nhẹ hơn cho bị cáo, không cần áp dụng hình phạt cùng loại với hình phạt bị truy tố ban đầu. 

Qua nghiên cứu, tác giả thấy rằng việc hiểu và áp dụng như quan điểm thứ nhất đưa ra thể hiện nhìn nhận áp dụng pháp luật có phần máy móc và tùy tiện. Áp dụng như quan điểm thứ hai đưa ra là phù hợp với quy định của điều luật trên cả phương diện lý luận và thực tiễn áp dụng. Mặc dù Điều 54 BLHS năm 2015 bổ sung nhiều quy định mới so với Điều 47 BLHS 1999, tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có Nghị quyết hướng dẫn áp dụng nên vẫn có thể áp dụng tinh thần Nghị quyết số 01/2000/NQ-HĐTP ngày 04/8/2000 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định trong phần chung của Bộ luật Hình sự năm 1999. Theo đó, quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng được quy định tại “mục 10. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47)”. Đối với việc quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật và việc áp dụng hình phạt có nhất thiết phải cùng loại hay chỉ cần là hình phạt trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đó đã được Nghị quyết quy định cụ thể, rõ ràng như sau: 

10. Quyết định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự (Điều 47).

Khi quy định hình phạt nhẹ hơn quy định của Bộ luật hình sự cần thực hiện đúng các quy định tại Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 và cần chú ý các điểm sau đây:

a- Quy định "Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà điều luật đã quy định nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật" được áp dụng trong trường hợp điều luật có từ hai khung hình phạt trở lên và người phạm tội bị truy cứu trách nhiệm hình sự không phải theo khung hình phạt nhẹ nhất. Nếu các khung hình phạt của điều luật được sắp xếp theo thứ tự 1, 2, 3... và từ nhẹ nhất đến nặng nhất, thì theo quy định này khi có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, Toà án chỉ có thể quy định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 1, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2; Toà án chỉ có thể quyết định một hình phạt trong khung hình phạt của khoản 2, nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 3...

Ví dụ: Một người phạm tội trộm cắp tài sản và có từ hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 46 Bộ luật hình sự năm 1999 trở lên, việc áp dụng quy định trên đây của Điều 47 Bộ luật hình sự năm 1999 như sau:

- Nếu người phạm tội bị xét xử theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật hình sự năm 1999 thì Toà án có thể quyết định một hình phạt dưới 2 năm tù, nhưng phải trong khung hình phạt của khoản 1; cụ thể là chỉ được phạt tù từ 6 tháng đến dưới 2 năm hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến ba năm…

Hơn nữa, nếu áp dụng như quan điểm thứ nhất sẽ bộc lộ rõ vướng mắc, bất cập gây bất lợi cho người phạm tội, không thể hiện được chính sách nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta, không phù hợp với yêu cầu cải cách tư pháp trong tình hình mới hiện nay về bảo vệ quyền con người. 

Thứ hai, áp dụng khoản 2 Điều 54 BLHS:

Quan điểm thứ nhất: Quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều 54 BLHS là hai trường hợp riêng biệt nên việc áp dụng khoản 2 không phụ thuộc vào việc phải đáp ứng điều kiện có ít nhất 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS như khoản 1 Điều 54 quy định. Theo đó, căn cứ quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS, người phạm tội chỉ cần đáp ứng điều kiện “phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”  thì Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật.

Quan điểm thứ hai: Người phạm tội được áp dụng khoản 2 khi phải thỏa mãn đủ các điều kiện sau: Một là, người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của BLHS; hai là, Người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. Bởi vì, chỉ riêng áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt áp dụng trong khung liền kề nhẹ hơn người phạm tội đã phải có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ tại khoản 1 Điều 51; trong trường hợp này hình phạt họ được áp dụng còn dưới mức thấp nhất của khung hình phạt liền kề nhẹ hơn khung hình phạt được áp dụng hoặc có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn nằm ở khung thứ nhất hoặc thứ hai của khung hình phạt liền kề của khung hình phạt được áp dụng hoặc họ có thể bị xử phạt mức hình phạt tối thiểu của các loại hình phạt.

Nghiên cứu quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS, chúng tôi nhất trí với quan điểm thứ hai đưa ra. Như đã phân tích ở trên, khoản 2 Điều 54 BLHS năm 2015 là một bổ sung mới, trước đây BLHS năm 1999 chưa quy định. Trên cơ sở nguyên tắc “bảo đảm tốt nhất quyền lợi của người phạm tội và để đảm bảo nguyên tắc công bằng khi quyết định hình phạt của Tòa án đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức, có vai trò không đáng kể trong vụ án đồng phạm, nhưng bị truy tố và xét xử ở khung hình phạt nặng cùng với các đồng phạm khác. Mục đích nhà làm luật tách riêng khoản 1, khoản 2 là để cụ thể hóa đối tượng được áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS đó là đối tượng đặc biệt“người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể”. Chỉ người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể mới được áp dụng quy định tại khoản 2 Điều 54 BLHS. Do đó, khi áp dụng quy định này, cần lưu ý đó là người bị kết án vẫn phải đảm bảo nguyên tắc bắt buộc là có từ 02 tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 BLHS.

3. Kiến nghị hoàn thiện pháp luật

Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng là chế định thể hiện sự ưu việt của pháp luật hình sự Việt Nam, đề cao tính nhân văn, nhân đạo đối với người có hành vi phạm tội thông qua việc giảm bớt trách nhiệm hình sự bằng việc áp dụng loại hình phạt khác nhẹ hơn và mức hình phạt bị áp dụng thấp hơn so với việc người bị kết án sẽ bị áp dụng loại hình phạt, mức hình phạt nặng hơn nếu người đó bị Tòa án quyết định hình phạt trong trường hợp thông thường. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho người bị kết án nhận ra lỗi lầm, tích cực cải tạo để trở thành người có ích cho gia đình, xã hội. 

Tuy nhiên, quy định về quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng theo Điều 54 BLHS là quy định mang tính tùy nghi; Tòa án có thể quyết định áp dụng hoặc không áp dụng. Vì là quy định mang tính tùy nghi nên hiệu quả áp dụng quy định này trong một số trường hợp chưa đáp ứng được mục đích đấu tranh, phòng ngừa và chống tội phạm, quyền lợi của người phạm tội chưa được bảo đảm ở mức cao nhất. 

Bên cạnh đó, việc áp dụng quy định này trên thực tiễn vẫn chưa có sự thống nhất giữa các Cơ quan tiến hành tố tụng tại các địa phương khác nhau do chưa có văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể. 

Trong thời gian tới, cơ quan có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn áp dụng cụ thể, khắc phục những vướng mắc còn tồn tại làm cơ sở áp dụng thống nhất trong hệ thống Tòa án. Và để bảo đảm hiệu quả áp dụng quy định này, trong tương lai cần sửa đổi quy định Điều 54 BLHS từ quy định áp dụng tùy nghi sang quy định áp dụng mang tính bắt buộc nếu người phạm tội đáp ứng đủ các điều kiện.

PHÙNG HOÀNG

Tòa án Quân sự Quân khu 1

Giá tính lệ phí trước bạ đối với nhà ở

5. Áo đình chỉ luật bắt buộc tiêm vaccine phòng Covid-19

(LSVN) - Chính phủ Áo cho biết luật bắt buộc tiêm vaccine có hiệu lực từ tháng 2 vừa qua, áp dụng với tất cả người lớn, trừ phụ nữ mang thai và những người được miễn trừ vì lý do y tế.

Ngày 09/3, Chính phủ Áo cho biết nước này đang đình chỉ luật bắt buộc tất cả người trưởng thành phải tiêm vaccine ngừa Covid-19, chỉ một tháng sau khi trở thành quốc gia đầu tiên trong Liên minh châu Âu (EU) áp dụng quy định nghiêm ngặt trên.

Người dân xếp hàng chờ tiêm vaccine phòng Covid-19 tại Vienna, Áo. (Ảnh: THX/TTXVN).

Quốc gia 9 triệu dân này nằm trong số ít các nước trên thế giới yêu cầu bắt buộc người trưởng thành tiêm vaccine phòng Covid-19.

Luật có hiệu lực từ tháng 2 vừa qua, áp dụng với tất cả người lớn, trừ phụ nữ mang thai và những người được miễn trừ vì lý do y tế. Theo đó, từ giữa tháng 3, những người không tiêm vaccine ngừa Covid-19 có thể bị phạt đến 3.600 euro (gần 4.000 USD).

Tuy nhiên, phát biểu tại một cuộc họp báo, Bộ trưởng Y tế Áo Johannes Rauch cho biết nhà chức trách sẽ tiến hành đánh giá thêm về biện pháp này theo các khía cạnh y tế công cộng và luật pháp trong vòng 3 tháng tới.

Ông và Bộ trưởng Hiến pháp Karoline Edtstadler cũng nói rằng Áo có thể ban hành lại luật trên nếu cần thiết.

Cũng tại cuộc họp báo, Bộ trưởng Edtstadler tuyên bố sau khi tham vấn với Bộ Y tế, bộ quyết định theo khuyến cáo của chuyên gia. Bà nêu rõ luật trên “vi phạm các quyền cơ bản” và không thể được biện minh bằng nguy cơ do đại dịch gây ra.

Bà Edtstadler cũng cho biết thêm chính phủ nhận thấy thực sự không cần triển khai tiêm vaccine bắt buộc do biến thể Omicron đang phổ biến tại Áo.

Biến thể lây lan mạnh này được cho là gây bệnh ít nghiêm trọng hơn so với các biến thể trước đó. Đến nay, các bệnh viện tại Áo vẫn có thể đối phó với tình trạng số ca mắc tăng cao.

Ngày càng nhiều người tại Áo kêu gọi chính quyền xem xét lại luật nói trên, đặc biệt khi chính phủ vừa dỡ bỏ gần như tất cả các biện pháp hạn chế để phòng dịch Covid-19 trong những tuần gần đây.

Tính đến hết ngày 08/3, Áo ghi nhận gần 3 triệu ca mắc Covid-19 và hơn 15.000 ca tử vong kể từ đầu dịch./.

TTXVN

Điều kiện mở ngành đào tạo trình độ đại học

6. Hà Nội tăng cường kiểm tra việc bán trang thiết bị y tế theo đúng giá niêm yết

(LSVN) - UBND thành phố Hà Nội vừa có Công văn số 633/UBND-KGVX về việc triển khai thực hiện Công điện số 286/CĐ-BYT ngày 03/3 của Bộ Y tế về bảo đảm cung cấp trang thiết bị y tế phục vụ phòng, chống dịch Covid-19, gửi Sở Y tế; Sở Thông tin và Truyền thông; UBND các quận, huyện, thị xã và Cục Quản lý thị trường Hà Nội.

Theo đó, UBND thành phố Hà Nội đề nghị Cục Quản lý thị trường Hà Nội tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra việc niêm yết giá bán và bán đúng giá niêm yết, đồng thời kiểm tra và ngăn chặn các hành vi lợi dụng tình hình khan hiếm trang thiết bị y tế trên thị trường để đầu cơ, găm hàng, mua gom hàng hóa hoặc lợi dụng dịch bệnh để tăng giá bán các trang thiết bị y tế phòng, chống dịch Covid-19 bất hợp lý; xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm (nếu có). 

UBND thành phố giao Sở Y tế chủ trì, phối hợp các đơn vị liên quan đăng tải giá trúng thầu bộ xét nghiệm SARS-CoV-2, danh sách số lưu hành, giấy phép nhập khẩu trang y tế bị thu hồi trên Cổng thông tin điện tử của thành phố và các cơ quan truyền thông của thành phố.

Đồng thời, Sở Y tế cũng chỉ đạo các bệnh viện, trạm y tế, nhà thuốc, cơ sở bán lẻ thực hiện việc niêm yết giá bộ xét nghiệm SARS-CoV-2 đảm bảo chất lượng cung ứng sản phẩm cho người dân và xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân vi phạm (nếu có).

Đối với UBND các quận, huyện, thị xã, UBND thành phố Hà Nội yêu cầu tăng cường công tác quản lý về y tế nhà nước trên địa bàn, đẩy mạnh tuyên truyền các cơ sở y tế, cơ sở kinh doanh dược và người dân trong việc mua bán, sử dụng kit test xét nghiệm và thuốc điều trị Covid-19. 

UBND các quận, huyện, thị xã chỉ đạo các cơ quan chức năng tăng cường thanh tra, kiểm tra các cơ sở kinh doanh thuốc, việc niêm yết và bán đúng giá niêm yết nhằm phát hiện và kịp thời xử lý nghiêm các tổ chức, cá nhân hoạt động mua, bán kit test xét nghiệm chẩn đoán, thuốc điều trị Covid-19 không rõ nguồn gốc xuất xứ, thuốc giả, nhập lậu, có hành vi đầu cơ, tích trữ, lợi dụng dịch bệnh để tăng giá bán bất hợp lý.

Sở Thông tin và Truyền thông chủ trì, phối hợp với Sở Y tế và các đơn vị liên quan chỉ đạo các cơ quan báo chí thành phố đăng tải giá trúng thầu bộ xét nghiệm SARS-CoV-2, danh sách số lưu hành, giấy phép nhập khẩu trang thiết bị y tế bị thu hồi trên Cổng thông tin điện tử của thành phố và các cơ quan truyền thông của thành phố.

HÀ ANH

Quy trình đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong soạn thảo dự án, dự thảo văn bản

7. 

Admin