Trực T6

23/03/2022 07:58 |

(LSVN) -

CHIỀU

1. Những quy định mới về tiền lương có lợi cho người lao động

(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định nhiều mức phạt mới đối với các vi phạm liên quan đến tiền lương của người sử dụng lao động (doanh nghiệp). Qua đó, nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của doanh nghiệp, giúp quyền lợi của người lao động được đảm bảo hơn

Ảnh minh họa.

- Doanh nghiệp phải trả cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động nếu cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế mà không trao đổi trước với người lao động hoặc tổ chức đại diện người lao động hoặc không thông báo trước 30 ngày cho UBND cấp tỉnh (theo điểm c khoản 4 Điều 12).

Trước đây, doanh nghiệp chỉ bị phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng mà không phải trả tiền cho người lao động nếu vi phạm trong trường hợp nêu trên.

- Không công khai thang lương, bảng lương, mức lao động, quy chế thưởng tại nơi làm việc trước khi thực hiện, doanh nghiệp bị phạt từ 5 - 10 triệu đồng (điểm a khoản 1 Điều 17). Trước đây, doanh nghiệp chỉ bị phạt từ 2 - 5 triệu đồng.

- Không xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, doanh nghiệp bị phạt từ 5 - 10 trệu đồng (điểm b khoản 1 Điều 17). Trước đây, quy định doanh nghiệp chỉ bị phạt từ 2 - 5 triệu đồng.

- Không thông báo bảng kê trả lương hoặc có thông báo bảng kê trả lương cho người lao động nhưng không đúng quy định, doanh nghiệp bị phạt từ 05 - 10 triệu đồng (điểm d khoản 1 Điều 17). Trước đây quy định không có quy định xử phạt đối với hành vi này.

Quy định xử phạt này được bổ sung nhằm phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 95 của Bộ luật Lao động 2019, trong đó yêu cầu mỗi lần trả lương, doanh nghiệp phải thông báo bảng kê trả lương cho người lao động, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).

- Doanh nghiệp không trả lương bình đẳng hoặc phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau sẽ bị phạt từ 5 - 10 triệu đồng (điểm đ khoản 1 Điều 12). Trước đây quy định không quy định xử phạt đối với hành vi này.

Quy định này cũng được nhấn mạnh tại khoản 3 Điều 90 của Bộ luật Lao động 2019: Doanh nghiệp phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau.

- Trong trường hợp doanh nghiệp không trả hoặc trả không đủ cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền cho người lao động tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định, thì người lao động còn được hưởng thêm một khoản tiền lãi của số tiền đó tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt (điểm b khoản 5 Điều 17).

Trước đây quy định người lao động chỉ được trả đủ khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.

- Không cho lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi nghỉ 60 phút mỗi ngày (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác), ngoài bị xử phạt tiền, doanh nghiệp buộc phải trả tiền lương cho người lao động nữ tương ứng với thời gian mà người lao động không được nghỉ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi (điểm b khoản 3 Điều 28). Trước đây quy định vi phạm quy định này, doanh nghiệp chỉ bị phạt tiền.

HỒNG HẠNH

Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp

2. Quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi

(LSVN) - Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.

Cụ thể, việc lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại Điều 188, Điều 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018.

Trường hợp người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý, Điều tra viên có thể mời thêm người thân trong gia đình, đại diện nhà trường, chuyên gia tâm lý, đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc các tổ chức, cá nhân khác tham gia khi lấy lời khai để phối hợp hỗ trợ ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục. Người được mời tham gia có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Điều tra viên ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục và phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc lấy lời khai.

Hoạt động lấy lời khai người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 183, 186, 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 và quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lấy lời khai, hỏi cung của Điều tra viên; nếu thấy lời khai chưa rõ, còn mâu thuẫn, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung bổ sung; nếu phát hiện có vi phạm trong việc lấy lời khai, hỏi cung thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục ngay. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên. Nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung. Điều tra viên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung theo quy định pháp luật.

Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

TIẾN HƯNG

Thực hiện dự án xử lý rác thải có phải thành lập doanh nghiệp không?

3. Cẩn trọng khi thu thập, sử dụng thông tin cá nhân của người khác

(LSVN) - 

Ảnh minh họa.

Theo quy định của pháp luật thì hành vi thu thập, sử dụng trái phép thông tin cá nhân của người khác có thể sẽ bị xử phạt hành chính, nếu gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu thông tin hình ảnh "nhạy cảm", có tính chất đồi trụy mà lại phát tán trên không gian mạng thì có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền tự do cá nhân, quyền nhân thân của mọi công dân theo đó việc sử dụng thông tin cá nhân của người khác thì phải được người đó đồng ý, nếu sử dụng trái phép gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trường hợp sử dụng thông tin, hình ảnh của người khác mà không được người có thông tin hình ảnh đồng ý thì phải gỡ bỏ, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, nếu bị kiện thì có thể sẽ phải chịu chế tài của pháp luật.

Cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Đây là quy định rất rõ ràng cụ thể về quyền hình ảnh của cá nhân. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo vệ. 

Cá nhân là người có quyền đối với hình ảnh của mình, quyền của cá nhân được thể hiện như: cá nhân được trực tiếp sử dụng hình ảnh, quảng bá hình ảnh của bản thân, được đăng tải, công khai hình ảnh với các mục đích hợp pháp của cá nhân... hoặc cá nhân được quyền cho phép hoặc không cho phép người khác sử dụng hình ảnh của mình. Khi muốn sử dụng hình ảnh của người khác thì phải được người đó đồng ý.

Pháp luật quy định trong một số trường hợp cụ thể thì có thể sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác mà không cần sự cho phép. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: "Việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:

a) Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;

b) Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh."

Như vậy, trường hợp sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng thì không phải xin phép. Ngoài ra hình ảnh có được từ các hoạt động công cộng như hội nghị, hội thảo, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật công khai và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự nhân phẩm uy tín của người có hình ảnh thì mọi người cũng được phép sử dụng. Những hình ảnh mà người khác đã công khai trên mạng xã hội, trước công chúng thì người khác cũng có quyền sử dụng, viện dẫn nhưng không làm tổn hại đến danh dự uy tín của họ. Việc sử dụng hình ảnh của người khác nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm uy tín của người khác hoặc sử dụng vào mục đích trái pháp luật thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Ngoài những trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 32 Bộ luật Dân sự nêu trên thì việc thu thập thông tin, sử dụng hình ảnh của người khác trái phép là hành vi vi phạm pháp luật. Trường hợp phát hiện quên hình ảnh của mình bị xâm phạm thì người có hình ảnh có quyền căn cứ vào khoản 3, Điều 32 Bộ luật Dân sự để bảo vệ quyền của mình. Cụ thể, việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

Khi phát hiện thông tin cá nhân, hình ảnh của mình đang bị sử dụng trái phép thì nạn nhân có quyền tự bảo vệ quyền nhân thân của mình bằng cách thông tin đối với người đang sử dụng trái phép, yêu cầu gỡ bỏ hình ảnh và xin lỗi công khai. Trường hợp người đã thực hiện hành vi sử dụng trái phép hình ảnh không dừng hành vi của mình thì có quyền trình báo sự việc với cơ quan chức năng để được xem xét giải quyết, có thể là cơ quan công an hoặc khởi kiện đến tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.

Quy định về bảo vệ quyền hình ảnh của cá nhân ngày càng chặt chẽ và có những chế tài nghiêm khắc hơn, theo đó từ ngày 27/01/2022, người có hành vi sử dụng trái phép thông tin cá nhân của người khác sẽ bị phạt lên đến 60 triệu đồng, đồng thời có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc hủy bỏ thông tin cá nhân do thực hiện hành vi vi phạm theo Nghị định 14/2022/NĐ-CP.

Cụ thể, khoản 30 Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP sửa đổi mức phạt đối với một số hành vi vi phạm về thu nhập, sử dụng thông tin cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 84 Nghị định 15/2020/NĐ-CP như sau:

"Phạt tiền từ 40 triệu đồng đến 60 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau:

- Sử dụng không đúng mục đích thông tin cá nhân đã thỏa thuận khi thu thập hoặc khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân;

- Cung cấp hoặc chia sẻ hoặc phát tán thông tin cá nhân đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của chủ thông tin cá nhân;

- Thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân của người khác".

Đây là mức phạt mới đã được tăng lên rất nhiều so với quy định trước đây. Mức phạt trước đây theo khoản 2 Điều 84 Nghị định 15/2020/NĐ-CP chỉ từ 20 triệu đến 30 triệu đồng. Ngoài ra, áp dụng mức phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với những hành vi vi phạm về thu nhập, sử dụng thông tin cá nhân khác, bao gồm:

- Thu thập thông tin cá nhân khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi, mục đích của việc thu thập và sử dụng thông tin đó;

- Cung cấp thông tin cá nhân cho bên thứ ba khi chủ thể thông tin cá nhân đã yêu cầu ngừng cung cấp.

Như vậy, từ ngày 27/01/2022, người có hành vi sử dụng trái phép thông tin cá nhân của người khác sẽ bị phạt lên đến 60 triệu đồng, đồng thời có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc hủy bỏ thông tin cá nhân do thực hiện hành vi vi phạm.

Ngoài ra, nếu việc sử dụng thông tin hình ảnh của người khác nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm của người có hình ảnh khiến người đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, tâm lý, sức khỏe thì hành vi vi phạm trong trường hợp này con có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Làm nhục người khác" theo Điều 155 Bộ luật Hình sự. Cụ thể, người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.

Pháp luật quy định quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ quan điểm, thái độ, ý kiến của mình đối với các vấn đề xã hội. Pháp luật cũng cho phép công dân lên án những hành vi vi phạm đạo đức xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên nếu lợi dụng quyền tự do dân chủ mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì đó là hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vậy mọi người cần biết giới hạn của quyền tự do ngôn luận, giới hạn của việc bày tỏ quan điểm thái độ của mình về một vấn đề. Nếu lợi dụng việc bày tỏ quan điểm để xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của người khác thì đây là hành vi vi phạm pháp luật.

Hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức, của cá nhân cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật Hình sự nếu hành vi làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Hành vi truy cập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của người khác để đánh cắp thông tin dữ liệu cũng là hành vi vi phạm pháp luật có thể bị xử lý hình sự theo Điều 288 hoặc Điều 289 Bộ luật Hình sự.

Nếu người nào thu thập trái phép thông tin, hình ảnh, clip có tính chất đồi trụy của người khác rồi phát tán lên không gian mạng. Ví dụ như đăng những clip sex của những nghệ sĩ, những người nổi tiếng hoặc của người khác lên mạng xã hội, mạng internet thì có thể bị truy cứu hình sự trách nhiệm hình sự theo Điều 326 Bộ luật Hình sự.

Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG

Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp

SÁNG

1. Quy định về xử lý tài chính doanh nghiệp tái cơ cấu

(LSVN) - Vừa qua, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 05/2022/TT-BTC hướng dẫn tái cơ cấu doanh nghiệp không đủ điều kiện cổ phần hóa và chuyển nhượng lô cổ phần kèm nợ phải thu của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ. Trong đó, quy định về xử lý tài chính doanh nghiệp tái cơ cấu.

Ảnh minh họa.

Cụ thể, về xử lý tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp tái cơ cấu thực hiện xử lý tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, Nghị định số 140/2020/NĐ-CP và Thông tư số 46/2021/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần (sau đây gọi là Thông tư số 46/2021/TT-BTC) và các văn bản sửa đổi, bổ sung (nếu có).

Xử lý tài chính theo phương án tái cơ cấu

Thông tư quy định rõ nguyên tắc xử lý tài chính:

- Việc xử lý tài chính đối với doanh nghiệp tái cơ cấu phải gắn với phương án tái cơ cấu đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt. Việc giảm trừ nghĩa vụ trả nợ phải gắn liền với việc Công ty Mua bán nợ Việt Nam chuyển nợ, tài sản thành vốn góp tại doanh nghiệp và không làm thay đổi trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đã gây ra tổn thất tài chính trước đây.

- Đảm bảo công khai, minh bạch và chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Trường hợp các tổ chức, cá nhân có liên quan khi thực hiện xử lý tài chính không chấp hành đúng chế độ Quy định, gây thất thoát vốn, tài sản thì tổ chức, cá nhân đó chịu trách nhiệm bồi thường và xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật.

Nội dung xử lý tài chính:

- Tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, căn cứ phương án tái cơ cấu đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt: Công ty Mua bán nợ Việt Nam xem xét, giảm trừ nghĩa vụ trả nợ tối đa bằng số âm vốn chủ sở hữu theo Quyết định của cơ quan đại diện chủ sở hữu về xác định giá trị doanh nghiệp trừ đi phần giảm trừ nghĩa vụ trả nợ của các chủ nợ khác (nếu có) và không vượt quá số chênh lệch giữa giá trị số sách khoản nợ mua và giá vốn mua nợ tính đến thời điểm quyết định giảm trừ nghĩa vụ trả nợ; Các chủ nợ khác quyết định giảm trừ nghĩa vụ trả nợ cho doanh nghiệp tái cơ cấu theo thỏa thuận giữa các bên.

- Từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần, doanh nghiệp tái cơ cấu tiếp tục xử lý tài chính theo quy định. Trong đó:

+ Lợi nhuận phát sinh được phân phối theo quy định hiện hành đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.

+ Doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước theo quy định hiện hành (nếu có).

+ Trường hợp phát sinh lỗ thì cơ quan đại diện chủ sở hữu chỉ đạo doanh nghiệp tái cơ cấu làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan để có biện pháp khắc phục, bồi thường theo quy định, số lỗ còn lại được Công ty Mua bán nợ Việt Nam và các chủ nợ tham gia tái cơ cấu xem xét, thực hiện tiếp việc giảm trừ một phần nghĩa vụ trả nợ nếu còn nguồn chênh lệch giữa giá vốn mua nợ và giá trị sổ sách khoản nợ.

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2022.

DUY ANH

Ban hành Kế hoạch Triển khai thực hiện Điều 55, 56, 57 Luật Thi hành án dân sự

2. Trang phục của người có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi

(LSVN) - Đây là một trong những điểm đáng chú ý tại Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 do Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội liên tịch ban hành quy định về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

Theo đó, tại Điều 25 Thông tư quy định rõ về trang phục của người có thẩm quyền trong quá trình giải quyết các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.

Cụ thể, trong giai đoạn kiểm tra, xác minh tố giác, tin báo về tội phạm và kiến nghị khởi tố, giai đoạn điều tra và giai đoạn truy tố vụ án, nếu có mặt người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi thì người có thẩm quyền tiến hành tố tụng và những người có thẩm quyền khác không nhất thiết phải mặc trang phục của ngành, cơ quan, tổ chức mình, có thể mặc thường phục dân sự nhưng phải bảo đảm gọn gàng, lịch sự.

Trường hợp phiên tòa tổ chức tại phòng xử án và giải quyết các vụ việc thuộc thẩm quyền của Tòa gia đình và người chưa thành niên thì Thẩm phán mặc trang phục theo quy định của Thông tư số 02/2018, những người tiến hành tố tụng khác và những người được triệu tập đến phiên tòa mặc trang phục theo quy định tại khoản 1 Điều này.

Bên cạnh đó, liên quan đến quy định phối hợp thực hiện các hoạt động tương trợ tư pháp hình sự, Thông tư nêu rõ, trường hợp vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi có liên quan đến yếu tố nước ngoài, nếu cần thu thập chứng cứ, lấy lời khai người tham gia tố tụng đang ở nước ngoài thì các cơ quan tiến hành tố tụng chủ động trao đổi phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao để thực hiện các hoạt động ủy thác tư pháp hình sự.

Trường hợp cần phối hợp thực hiện các hoạt động thu thập chứng cứ ở nước ngoài, nhận dạng người hoặc đồ vật bằng hình thức trực tuyến thì cơ quan tiến hành tố tụng phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao trao đổi với cơ quan tư pháp nước có liên quan để phối hợp thực hiện.

Khi nhận được kết quả ủy thác tư pháp của phía nước ngoài, Viện kiểm sát nhân dân tối cao kịp thời chuyển cho cơ quan có thẩm quyền. Trường hợp kết quả ủy thác tư pháp chưa đầy đủ thì cơ quan tiến hành tố tụng lập yêu cầu ủy thác tư pháp phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao tiếp tục đề nghị cơ quan nước ngoài thực hiện ủy thác tư pháp bổ sung.

Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 05/4/2022.

TIẾN HƯNG

Những điểm mới cơ bản của dự thảo Luật Thực hiện dân chủ ở cơ sở

3. Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi


Điều 18. Vi phạm quy định về thời giờ làm việc, thời giờ nghỉ ngơi

1. Phạt tiền từ 2.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Không bảo đảm cho người lao động nghỉ việc riêng hoặc nghỉ không hưởng lương theo quy định của pháp luật;

b) Không thông báo bằng văn bản cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội nơi tổ chức làm thêm giờ và nơi đặt trụ sở chính về việc tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm.

2. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi vi phạm quy định của pháp luật về nghỉ hằng tuần hoặc nghỉ hằng năm hoặc nghỉ lễ, tết.

3. Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 25.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:

a) Thực hiện thời giờ làm việc bình thường quá số giờ làm việc theo quy định của pháp luật;

b) Huy động người lao động làm thêm giờ mà không được sự đồng ý của người lao động, trừ trường hợp theo quy định tại Điều 108 của Bộ luật Lao động.

4. Phạt tiền đối với người sử dụng lao động khi có một trong các hành vi: không đảm bảo cho người lao động nghỉ trong giờ làm việc hoặc nghỉ chuyển ca theo quy định của pháp luật; huy động người lao động làm thêm giờ vượt quá số giờ theo quy định của pháp luật theo một trong các mức sau đây:

a) Từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với vi phạm từ 01 người đến 10 người lao động;

b) Từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với vi phạm từ 11 người đến 50 người lao động;

c) Từ 20.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với vi phạm từ 51 người đến 100 người lao động;

d) Từ 40.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với vi phạm từ 101 người đến 300 người lao động;

đ) Từ 60.000.000 đồng đến 75.000.000 đồng đối với vi phạm từ 301 người lao động trở lên.

HỒNG HẠNH

Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?

5. 

Admin