SÁNG
Những vướng mắc và kiến nghị hoàn thiện các quy định tại Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 2015
(LSVN) - Điều 139 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định về tội "Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính", đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng, nhằm bảo vệ tốt hơn quyền được bảo đảm an toàn về sức khỏe của con người. Đồng thời tăng cường công tác giáo dục, phòng ngừa, răn đe đối với chủ thể có trách nhiệm trong hoạt động chuyên môn, nghiệp vụ, hành chính có hành vi xâm phạm, gây tổn hại đến sức khỏe, quyền bất khả xâm phạm đến thân thể của người khác được pháp luật bảo hộ; bảo đảm thực hiện các nguyên tắc Hiến định. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật trên thực tiễn, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập và đề xuất, kiến nghị về vấn đề này.
![]()
Ảnh minh họa.
So với Bộ luật Hình sự năm 1999, Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) đã có nhiều quy định tiến bộ hơn. Cụ thể, BLHS đã tách khoản 1 Điều 109 BLHS năm 1999 thành các khoản riêng biệt, điều này nhằm bảo đảm phân hóa hành vi, hậu quả và trách nhiệm hình sự, dễ dàng áp dụng pháp luật. Đồng thời đã bổ sung hình hình phạt tiền và cải tạo không giam giữ là hình phạt chính, bảo đảm tính nhân văn hơn đối với loại tội phạm có lỗi vô ý. Trong phạm vi bài viết, tác giả chỉ đề cập đến các quy định tại Điều 139 BLHS, cụ thể:
"Điều 139. Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính.
1. Người nào vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%, thì bị phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cải tạo không giam giữ từ 02 năm đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người từ 31% đến 60%;
b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.
3. Phạm tội đối với 02 người trở lên mà tỷ lệ tổn thương cơ thể của mỗi người 61% trở lên, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.
4. Người phạm tội còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm."
Khi áp dụng pháp luật, cần chú ý một số nội dung sau:
Một là, về khách thể của tội phạm
- Khách thể chung: Mọi người có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khoẻ, theo quy định tại Điều 20 Hiến pháp năm 2013.
- Khách thể loại: Tội phạm đã xâm phạm quyền được bảo hộ sức khỏe của con người, đồng thời xâm phạm quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính đã ban hành.
- Khách thể trực tiếp: Sức khỏe của đối tượng tác động bị giảm sút từ 31% trở lên do hành vi của chủ thể tác động trực tiếp.
Hai là, về mặt khách quan của tội phạm
Hành vi khách quan của tội phạm thể hiện qua việc vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính. Vi phạm quy tắc nghề nghiệp là vi phạm những quy tắc thuộc phạm vi một ngành, một nghề, một lĩnh vực do Nhà nước, Bộ, ngành quy định, như quy tắc điều trị trong các bệnh viện, quy tắc khai thác gỗ trong rừng, khai thác than dưới hầm mỏ, quy tắc an toàn khi mắc điện v.v… Quy tắc hành chính do Luật Hành chính quy định hoặc các cơ quan hành chính ban hành. Những quy tắc này cũng có thể do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, các ngành ban hành, nhưng cũng có thể do các cơ quan hành chính ở địa phương hoặc một đơn vị sản xuất quy định.
Tội “Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính” là trường hợp tăng nặng của tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khoẻ của người khác nên cần phải làm rõ quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính là gì để có cơ sở kết tội.
Người phạm tội thực hiện các hành vi trực tiếp gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Mức độ thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác phải từ 31% trở lên mới phạm tội. Mức độ thương tật từ 30% trở xuống thì không phạm tội, chỉ bị xử lý hành chính, giải quyết bồi thường dân sự.
Ba là, về chủ thể của tội phạm: Là chủ thể đặc biệt, người từ đủ 16 tuổi trở lên có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và phải là người đang thực hiện công tác theo nghề nghiệp, chuyên môn của mình hoặc các hoạt động hành chính.
Bốn là, về mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý do cẩu thả hoặc vì quá tự tin.
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật còn tồn tại một số vướng mắc và đề xuất, kiến nghị để hoàn thiện các quy định tại Điều 139 BLHS.
Một số vướng mắc
Một là, việc xác định chủ thể có thẩm quyền quy định, ban hành các quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính. Bởi, để bảo đảm đủ yếu tố, dấu hiệu cấu thành tội phạm này cần phải làm rõ quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính để có cơ sở kết tội. Như đã phân tích ở trên, Quy tắc nghề nghiệp là những quy tắc thuộc phạm vi một ngành, một nghề, một lĩnh vực do Nhà nước, Bộ, ngành quy định; Quy tắc hành chính do Luật Hành chính quy định hoặc các cơ quan hành chính ban hành. Những quy tắc này cũng có thể do Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, các Bộ, các ngành ban hành, nhưng cũng có thể do các cơ quan hành chính ở địa phương hoặc một đơn vị sản xuất quy định. Thực trạng hiện nay, cùng một lĩnh vực nhưng rất nhiều chủ thể ban hành các quy tắc nghề nghiệp khác nhau; do đó, để đánh giá có vi phạm quy tắc hay không còn phụ thuộc rất nhiều yếu tố chủ quan của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng. Ví dụ: Tại Công ty A, cho phép các xe nâng xếp các thùng hàng trong kho chứa với độ cao theo quy cách không quá 10 thùng, nhưng tại công ty B, không quy định quy cách về độ cao, hậu quả các thùng hàng ngã, rơi vào người của nhân viên, gây thương tích. Như vậy, quy cách độ cao bảo đảm an toàn là bao nhiêu, có an toàn hay không, thuộc chủ quan đánh giá của từng chủ thể đề ra quy tắc đó.
Hai là, theo quy định của pháp luật, chủ thể của tội phạm này là phải là người trực tiếp có hành vi gây thương tích, gây tổn hại sức khỏe cho người khác do thực hiện trái quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính. Với quy định tại Điều 139 BLHS, kết hợp với các quy định khác tại Chương XI BLHS thì mặc nhiên chúng ta hiểu "Người nào" ở đây là thể nhân có liên quan trực tiếp đến thực hiện công tác chuyên môn, nghiệp vụ theo quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính. Tuy nhiên, hiện nay có trường hợp chủ thể thực hiện công tác chuyên môn phù hợp với quy định của quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính của chủ thể có thẩm quyền ban hành quy tắc ấy, xong vẫn gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác. Tình huống trên đặt ra vấn đề: Quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính của chủ thể có thẩm quyền ban hành là phù hợp, thì cơ quản có thẩm quyền tiến hành tố tụng không thể truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 139 BLHS được mà phải truy tố theo Điều 138 BLHS. Tuy nhiên, Quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính ấy được chủ thể có thẩm quyền ban hành trái với quy tắc chung thì lúc đó sẽ xử lý chủ thể nào. Trong khi đó, tại Chương XI BLHS quy định pháp nhân thương mại chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự đối với 31 tội danh được liệt kê cụ thể tại Điều 76 của BLHS (không có quy định Điều 139 BLHS). Mặc dù thỏa mãn 04 điều kiện để một pháp nhân thương mại phải chịu trách nhiệm hình sự đó là: Hành vi phạm tội được thực hiện nhân danh pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện có sự chỉ đạo, điều hành hoặc chấp thuận của pháp nhân; hành vi phạm tội được thực hiện vì lợi ích của pháp nhân và chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự. Ví dụ: Thẩm mỹ viện A là một pháp nhân thương mại, được Sở Y tế thành phố H cho phép hoạt động trên các lĩnh vực làm đẹp. Quá trình hoạt động, Thẩm mỹ viện A đã đề ra quy tắc bảo đảm an toàn cho các hoạt động, nhưng không quy định khám sàng lọc, chuẩn đoán cho người sử dụng dịch vụ trước khi thực hiện yêu cầu. Quá trình thực hiện hoạt động hút mỡ thừa, nhân viên đã tuân thủ đúng quy trình do Thẩm mỹ viện đề ra nhưng hậu quả gây tổn hại sức khỏe cho người sử dụng dịch vụ. Trong tình huống này, phải truy cứu trách nhiệm hình sự nhân viên hay là Thẩm mỹ viện A. Bởi, Thẩm mỹ viện A là pháp nhân thương mại, hành vi đó không có quy định trong BLHS.
Ba là, có sự tranh chấp về định tội danh trong một số trường hợp cụ thể.
Tình huống: Trong đợt dịch Covid-19 bùng phát trở lại ở Đà Nẵng vào thời điểm tháng 4/2021, ông T tổ chức cuộc họp có trên 30 nhân viên công ty tham gia. Trong khoảng thời gian tổ chức cuộc họp từ 20h30 đến 22h15 ngày 02/5, trước khi vào họp các nhân viên đều mang khẩu trang theo quy định nhưng đến phần "truyền lửa" do mình chủ trì, vì tự tin tất cả nhân viên tham gia đề an toàn với Covid nên ông T đã yêu cầu các nhân viên bỏ khẩu trang, sau đó yêu cầu nhân viên hô to các mục tiêu… Sau cuộc họp này, dịch bệnh Covid-19 bùng phát tại Công ty với 65 người nhiễm. Nhà nước phải chi trả chi phí điều trị, truy vết, cách ly các trường hợp F1 và chi phí vận chuyển các ca bệnh trên với số tiền hơn 7,1 tỉ đồng.
Quan điểm thứ nhất cho rằng: Hành vi của ông T cấu thành tội "Vô ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác do vi phạm quy tắc hành chính". Bởi, quy định của Nhà nước và chính quyền địa phương, phải bảo đảm thực hiện 5K trong các hoạt động, nhưng vì quá tự tin nhân viên không bị nhiễm Covid, ông T đã yêu cầu nhân viên cởi bỏ khẩu trang, hậu quả đã xảy ra. Trường hợp này, nên truy tố ông T theo quy định tại Điều 139 BLHS.
Quan điểm thứ hai cũng đồng quan điểm tác giả: Ông T phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự với tội "Vi phạm quy định về an toàn lao động, vệ sinh lao động, về an toàn ở nơi đông người" quy định tại Điều 295 BLHS. Bởi hành vi của ông T không thỏa mãn các dấu hiệu đã phân tích ở trên của tội ""Vô ý gây tổn hại sức khỏe cho người khác do vi phạm quy tắc hành chính". Mặc dù hành vi của ông T có lỗi vô ý vì quá tự tin, vi phạm quy tắc hành chính, tuy nhiên, hành vi đó là gián tiếp làm lây lan dịch bệnh.
Bốn là, Điều 139 BLHS quy định dấu hiệu tỷ lệ tổn thương cơ thể phải từ 31% trở lên mới đủ yếu tố cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, với hành vi vô ý như trên mà tỷ lệ dưới 31% thì phải bị xử lý hành chính. Nhưng hiện nay, hầu hết các quy phạm pháp luật quy định về xử lý hành chính trong các lĩnh vực, cơ bản với lỗi cố ý, chưa có quy định xử lý hành chính với lỗi vô ý do vi phạm quy tắc nghề nghiệp, quy tắc hành chính. Dẫn đến khó khăn cho việc áp dụng pháp luật của cơ quan có thẩm quyền.
Đề xuất, kiến nghị
Thứ nhất, thời gian tới, HĐTP TAND Tối cao cần có hướng dẫn cụ thể áp dụng điều luật về vấn đề xác định chủ thể có thẩm quyền ban hành các quy tắc, khi có tranh chấp về tính đúng đắn của quy tắc thì cần áp dụng theo các quy tắc chung, chuẩn mực đạo đức xã hội và theo nguyên tắc có lợi cho người thực hiện hành vi.
Thứ hai, cần mở rộng chủ thể của tội phạm, gắn trách nhiệm của pháp nhân thương mại khi có hành vi vi phạm pháp luật.
Thứ ba, đề xuất ban hành các quy định về xử phạt hành chính cụ thể, rõ ràng hơn trên lĩnh vực này, nhằm dễ dàng hơn trong công tác áp dụng pháp luật trên thực tiễn.
VÕ MINH TUẤN
Thư ký Tòa án, Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5
Thời gian tập sự hành nghề Luật sư theo quy định mới
2. Quy định về khiếu nại việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư
(LSVN) - Vừa qua, Bộ Tư pháp đã ban hành Thông tư 10/2021/TT-BTP ngày 10/12/2021 về hướng dẫn tập sự hành nghề Luật sư. Trong đó, quy định về khiếu nại việc kiểm tra kết quả tập sự hành nghề Luật sư.
![]()
Cụ thể, cá nhân, tổ chức có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của Hội đồng kiểm tra, thành viên Hội đồng kiểm tra, Ban giúp việc khi có căn cứ cho rằng quyết định đó xâm phạm quyền, lợi ích hợp pháp của mình. Thời hiệu khiếu nại được thực hiện theo quy định của Luật Khiếu nại.
Chủ tịch Hội đồng kiểm tra có trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày nhận được quyết định của Hội đồng kiểm tra, người tập sự có quyền khiếu nại đối với quyết định, hành vi của thành viên Ban Chấm thi thực hành khi có căn cứ cho rằng hành vi đó làm ảnh hưởng đến kết quả môn kiểm tra thực hành của mình. Chủ tịch Hội đồng kiểm tra có trách nhiệm giải quyết khiếu nại trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại.
Trong trường hợp Hội đồng kiểm tra đã giải thể sau khi hoàn thành nhiệm vụ mà người khiếu nại không đồng ý với quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Hội đồng kiểm tra thì có quyền khiếu nại đến Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam. Thời hạn giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam là 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại; đối với vụ việc phức tạp thì thời hạn giải quyết có thể kéo dài hơn nhưng không quá 45 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại. Quyết định giải quyết khiếu nại của Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam là quyết định cuối cùng.
HỒNG HẠNH
Thủ tục cấp GCN nghỉ việc hưởng BHXH cho F0 còn rườm rà, mất nhiều thời gian
3. Doanh nghiệp không thực hiện thủ tục xác nhận việc đóng BHTN sẽ bị xử lý như thế nào?
(LSVN) - Theo quy định của pháp luật hiện hành, doanh nghiệp không thực hiện thủ tục xác nhận việc đóng bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị xử lý như thế nào? Bạn đọc P.Y. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Căn cứ Nghị định 12/2022/NĐ-CP của Chính phủ xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực lao động, doanh nghiệp không thực hiện thủ tục xác nhận về việc đóng bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động để người lao động làm hồ sơ hưởng bảo hiểm thất nghiệp sẽ bị xử phạt từ 1.000.000 - 3.000.000 triệu đồng khi vi phạm với mỗi người lao động, nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động. Trước đây, theo Nghị định 28/2020/NĐ-CP, mức phạt cố định với hành vi này là từ 500.000 đồng đến 1 triệu đồng.
Ngoài ra, Nghị định 12/2022/NĐ-CP còn quy định phạt tiền từ 500.000 đồng đến 1.000.000 đồng đối với người lao động có hành vi thỏa thuận với người sử dụng lao động không tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp, tham gia không đúng đối tượng hoặc tham gia không đúng mức quy định.
Phạt tiền từ 1.000.000 đồng đến 3.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây:
- Hằng năm, không niêm yết công khai thông tin đóng bảo hiểm xã hội của người lao động do cơ quan bảo hiểm xã hội cung cấp theo quy định tại khoản 7 Điều 23 của Luật Bảo hiểm xã hội;
- Không cung cấp hoặc cung cấp không đầy đủ thông tin về đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động khi người lao động hoặc tổ chức công đoàn yêu cầu.
Phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có hành vi không cung cấp chính xác, đầy đủ, kịp thời thông tin, tài liệu liên quan đến việc đóng, hưởng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan bảo hiểm xã hội.
Phạt tiền từ 12% đến 15% tổng số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động có một trong các hành vi sau đây: Chậm đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp; Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp không đúng mức quy định mà không phải là trốn đóng; Đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp không đủ số người thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp mà không phải là trốn đóng; Chiếm dụng tiền đóng bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp của người lao động.
Phạt tiền từ 18% đến 20% tổng số tiền phải đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp tại thời điểm lập biên bản vi phạm hành chính nhưng tối đa không quá 75.000.000 đồng đối với người sử dụng lao động không đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp cho toàn bộ người lao động thuộc diện tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp nhưng chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự.
Nghị định này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 17/01/2022.
HỒNG HẠNH
Bỏ yêu cầu doanh nghiệp kinh doanh BĐS phải có vốn 20 tỉ đồng
4.
CHIỀU
1. Nguyên tắc phối hợp giải quyết vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi
(LSVN) - Vừa qua, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội liên tịch ban hành Thông tư 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định rõ về nguyên tắc phối hợp giải quyết vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông tư liên tịch này quy định quan hệ phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
Cụ thể, nguyên tắc phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong giải quyết các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi như sau:
- Bảo đảm tuân thủ đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mỗi cơ quan, tổ chức theo quy định của pháp luật.
- Bảo đảm phối hợp thường xuyên, nhanh chóng, kịp thời.
- Tôn trọng, bảo vệ và bảo đảm quyền con người, danh dự, nhân phẩm, các quyền và lợi ích hợp pháp khác của người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị buộc tội, người làm chứng.
- Bảo mật thông tin cá nhân của người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi, người tố giác, báo tin có liên quan đến hành vi xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi.
- Bảo đảm tuân thủ các quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và các văn bản pháp luật có liên quan.
Cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng, cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội các cấp và các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ của mình khi tham gia giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi có trách nhiệm phối hợp chặt chẽ thực hiện các nội dung sau:
- Bảo mật thông tin cá nhân của người dưới 18 tuổi bị xâm hại tình dục; có biện pháp ứng phó kịp thời, loại trừ những nguy cơ dẫn đến người dưới 18 tuổi có thể tiếp tục bị xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, quyền và lợi ích hợp pháp khác;
- Kịp thời thu thập, bảo quản chứng cứ và nhanh chóng thực hiện khám bệnh, chữa bệnh, hỗ trợ ổn định tinh thần cho người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi, bảo đảm việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án nhanh chóng, kịp thời, đúng pháp luật;
- Bảo đảm quyền có người đại diện, người bào chữa, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người dưới 18 tuổi trong hoạt động tố tụng;
- Thực hiện các hoạt động khác trong quá trình giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi theo quy định của pháp luật.
Khi người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị buộc tội, người làm chứng, người bị xâm hại dưới 18 tuổi tham gia tố tụng, cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải phối hợp với các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan bảo vệ và tạo điều kiện để cho họ yên tâm học tập và lao động, đồng thời tham gia tố tụng thuận lợi.
Việc phối hợp cử người giám hộ, người đại diện, người trợ giúp pháp lý, người bào chữa tham gia tố tụng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị buộc tội, người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 8, 9 và 10 Thông tư liên tịch số 06/2018/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BTP-BLĐTBXH ngày 21/12/2018 của Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Tòa án nhân dân tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội về phối hợp thực hiện một số quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về thủ tục tố tụng đối với người dưới 18 tuổi (sau đây viết tắt là Thông tư liên tịch số 06/2018).
Thông tư liên tịch 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH có hiệu lực từ ngày 05/4/2022.
DUY ANH
Hạn chế số lần lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi
2. Quy trình đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 03/2022/TT-BTP ngày 10/02/2022 Bộ trưởng Bộ Tư pháp vừa mới ban hành hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông tư này hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản quy phạm pháp luật và soạn thảo dự án, dự thảo văn bản quy phạm pháp luật.
Trong đó, tại Điều 5 Thông tư quy định rõ về quy trình đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản. Cụ thể, về thời điểm đánh giá tác động, việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính được tiến hành trong quá trình hoàn thiện hồ sơ lập đề nghị xây dựng văn bản và phải hoàn thành trước khi gửi hồ sơ cho cơ quan thẩm định đề nghị xây dựng văn bản.
Cơ quan lập đề nghị thực hiện đánh giá tác động của thủ tục hành chính theo các bước sau:
- Tiến hành đánh giá tác động của thủ tục hành chính
Cơ quan lập đề nghị căn cứ quy định tại Điều 6, 7, 8, 9 và sử dụng Biểu mẫu đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này để đánh giá về sự cần thiết, tính hợp pháp, tính hợp lý và chi phí tuân thủ thủ tục hành chính.
- Hoàn thiện đề xuất quy định thủ tục hành chính
Trong quá trình đánh giá tác động, nếu thủ tục hành chính được xác định là không cần thiết hoặc không đúng thẩm quyền ban hành theo quy định của pháp luật thì cơ quan lập đề nghị không tiến hành việc đánh giá và không đề xuất phương án, giải pháp quy định thủ tục hành chính trong đề nghị xây dựng văn bản.
Nếu thủ tục hành chính được xác định là cần thiết, ban hành đúng thẩm quyền thì tiếp tục đánh giá tác động của thủ tục hành chính và căn cứ kết quả đánh giá, cơ quan lập đề nghị chỉnh lý, hoàn thiện đề xuất phương án, giải pháp quy định thủ tục hành chính.
- Tổng hợp kết quả đánh giá tác động của thủ tục hành chính
Sau khi đánh giá tác động của thủ tục hành chính, cơ quan lập đề nghị tổng hợp kết quả đánh giá thủ tục hành chính vào nội dung Báo cáo đánh giá tác động của chính sách. Biểu mẫu đánh giá tác động của thủ tục hành chính trong lập đề nghị xây dựng văn bản tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này là một phần của Báo cáo đánh giá tác động của chính sách.
Thông tư này có hiệu lực thi hành từ ngày 28/3/2022 và thay thế Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính và rà soát, đánh giá thủ tục hành chính.
Đối với các hồ sơ lập đề nghị xây dựng văn bản và hồ sơ dự án, dự thảo văn bản đã gửi cơ quan thẩm định trước ngày Thông tư này có hiệu lực thì tiếp tục thực hiện theo quy định tại Thông tư số 07/2014/TT-BTP ngày 24/02/2014 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp hướng dẫn việc đánh giá tác động của thủ tục hành chính và rà soát, đánh giá thủ tục hành chính.
HÀ ANH
Hướng dẫn triển khai thí điểm khám chữa bệnh BHYT bằng CCCD gắn chip
3. Sửa Luật Đấu thầu theo hướng thực hiện triệt để đấu thầu qua mạng
(LSVN) - Quy định đơn giản hóa quy trình, thủ tục hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, giảm thời gian, chi phí trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm tính độc lập, khách quan, cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả; quy định rõ thẩm quyền, cá thể hóa trách nhiệm của thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, kế hoạch lựa chọn nhà thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu; thực hiện triệt để đấu thầu qua mạng để giảm thủ tục, hạn chế tiêu cực trong đấu thầu.
![]()
Ảnh minh họa.
Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Nghị quyết số 22/NQ-CP ngày 28/02/2022 phiên họp chuyên đề về xây dựng pháp luật tháng 02/2022.
Theo đó, về Đề nghị xây dựng dự án Luật Đấu thầu (sửa đổi), Chính phủ giao Bộ Kế hoạch và Đầu tư xác định rõ phạm vi điều chỉnh, nguyên tắc áp dụng Luật Đấu thầu, bảo đảm đồng bộ với quy định của pháp luật về đất đai, đầu tư, pháp luật liên quan về đấu giá đất, đấu thầu, lựa chọn nhà đầu tư, quy định áp dụng đối với doanh nghiệp nhà nước, bảo đảm đồng bộ của hệ thống pháp luật và khả thi.
Hoàn thiện các quy định cụ thể hóa chính sách về các hình thức lựa chọn nhà thầu, quy định rõ các trường hợp đấu thầu và chỉ định thầu, lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt... Quy định cụ thể về điều kiện áp dụng, thẩm quyền, trình tự, thủ tục, rõ trách nhiệm của người quyết định chỉ định thầu, hình thức lựa chọn nhà thầu, người phê duyệt hồ sơ mời thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà đầu tư...
Quy định đơn giản hóa quy trình, thủ tục hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà thầu, nhà đầu tư, giảm thời gian, chi phí trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm tính độc lập, khách quan, cạnh tranh, minh bạch, hiệu quả; quy định rõ thẩm quyền, cá thể hóa trách nhiệm của thẩm định, phê duyệt hồ sơ mời thầu, hồ sơ yêu cầu, kế hoạch lựa chọn nhà thầu, phê duyệt kết quả lựa chọn nhà thầu; thực hiện triệt để đấu thầu qua mạng để giảm thủ tục, hạn chế tiêu cực trong đấu thầu.
Rà soát quy định nâng cao hiệu lực, hiệu quả của công tác quản lý nhà nước trong hoạt động đấu thầu, bảo đảm ngăn chặn hiệu quả, triệt để tham nhũng, lãng phí, tiêu cực trong hoạt động đấu thầu, quy định rõ trình tự, thủ tục, trách nhiệm thực hiện gắn với cơ chế thanh tra, kiểm tra, kiểm toán, giám sát.
Hoàn thiện hệ thống chế tài, xử lý nghiêm minh các vi phạm pháp luật đấu thầu; hoàn thiện quy định về công bố thông tin công khai, minh bạch gắn với trách nhiệm giải trình, bao gồm cả thông tin về vi phạm pháp luật đấu thầu của tổ chức, cá nhân.
Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp thu, hoàn thiện hồ sơ Đề nghị xây dựng Dự án Luật theo quy định của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, gửi Bộ Tư pháp để tổng hợp bổ sung dự án Luật vào Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022, trình Quốc hội cho ý kiến tại Kỳ họp thứ 4, tháng 10 năm 2022.
MAI HUỆ
Hướng dẫn triển khai thí điểm khám chữa bệnh BHYT bằng CCCD gắn chip
4. Trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi sẽ tiêm vaccine Pfizer liều 0,2ml
(LSVN) - Ngày 01/3, Thứ trưởng Bộ Y tế Đỗ Xuân Tuyên vừa ký Quyết định số 457/QĐ-BYT sửa đổi Điều 1 Quyết định số 2908/QĐ-BYT phê duyệt có điều kiện vaccine cho nhu cầu cấp bách trong phòng, chống dịch bệnh Covid-19. Văn bản 2908 trước đó được ký ngày 12/6/2021.
![]()
Theo Quyết định 457, vaccine được phê duyệt có tên Comirnaty (Tên khác: Pfizer BioNTech Covid-19 Vaccine).
Về thành phần hoạt chất, nồng độ/hàm lượng, theo Quyết định này:
- Người từ 12 tuổi trở lên được tiêm mỗi liều 0,3 ml chứa 30 mcg vaccine mRNA Covid-19 (được bọc trong các hạt nano lipid).
- Vaccine cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi, mỗi liều 0,2 ml chứa 10 mcg.
Về dạng bào chế, đối với vaccine cho người từ 12 tuổi trở lên là hỗn dịch đậm đặc pha tiêm và Hỗn dịch tiêm. Trong khi với vaccine cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi là Hỗn dịch đậm đặc pha tiêm.
Về quy cách đóng gói:
- Đối với vaccine cho người từ 12 tuổi trở lên, vaccine được đóng gói gồm 1 khay chứa 195 lọ, mỗi lọ chứa 6 liều; 1 hộp chứa 25 lọ, mỗi lọ chứa 6 liều; 1 hộp chứa 10 lọ, mỗi lọ chứa 6 liều.
- Đối với vaccine cho trẻ từ 5 đến dưới 12 tuổi: 1 khay chứa 195 lọ, mỗi lọ chứa 10 liều; 1 hộp chứa 10 lọ, mỗi lọ chứa 10 liều.
Vaccine này do Công ty Pfizer Manufacturing Belgium NV (Bỉ); BioNTech Manufacturing GmbH (Đức); Pharmacia and Upjohn Company LLC (Hoa Kỳ); Hospira Incorporated (Hoa Kỳ) sản xuất.
Quyết định có hiệu lực kể từ ngày 1/3, bãi bỏ Quyết định số 4035/QĐ-BYT ngày 21/8/2021 của Bộ trưởng Bộ Y tế.
DUY ANH
Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp
5. 57 tỉnh, thành phố áp dụng hóa đơn điện tử từ tháng 4/2022
(LSVN) - Bộ Tài chính vừa ban hành Quyết định số 206/QĐ-BTC ngày 24/02/2022 về việc triển khai áp dụng hóa đơn điện tử đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
![]()
Ảnh minh họa.
Quyết định nêu rõ, triển khai áp dụng hóa đơn điện tử đối với doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ kinh doanh, cá nhân kinh doanh trên địa bàn 57 tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương gồm: An Giang, Bà Rịa – Vũng Tàu, Bắc Giang, Bắc Kạn, Bạc Liêu, Bắc Ninh, Bến Tre, Bình Dương, Bình Phước, Bình Thuận, Cà Mau, Cần Thơ, Cao Bằng, Đà Nẵng, Đắk Lắk, Đắk Nông, Điện Biên, Đồng Nai, Đồng Tháp, Gia Lai, Hà Giang, Hà Nam, Hà Tĩnh, Hải Dương, Hậu Giang, Hòa Bình, Hưng Yên, Khánh Hòa, Kiên Giang, Kon Tum, Lai Châu, Lâm Đồng, Lạng Sơn, Lào Cai, Long An, Nam Định, Nghệ An, Ninh Bình, Ninh Thuận, Phú Yên, Quảng Bình, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Quảng Trị, Sóc Trăng, Sơn La, Tây Ninh, Thái Bình, Thái Nguyên, Thanh Hóa, Thừa Thiên Huế, Tiền Giang, Trà Vinh, Tuyên Quang, Vĩnh Long, Vĩnh Phúc, Yên Bái.
Thời gian thực hiện từ tháng 04/2022.
Việc triển khai áp dụng hóa đơn điện tử tại 57 tỉnh, thành phố thực hiện theo quy định về hóa đơn điện tử tại Luật Quản lý thuế, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ và Thông tư số 78/2021/TT-BTC ngày 17/9/2021 của Bộ Tài chính.
Bộ Tài chính yêu cầu Cục Thuế 57 tỉnh, thành phố có trách nhiệm báo cáo Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố thành lập Ban Chỉ đạo triển khai áp dụng hóa đơn điện tử tại địa phương do Lãnh đạo tỉnh, thành phố làm Trưởng Ban và thành viên là đại diện lãnh đạo của Cục Thuế và các sở, ban, ngành có liên quan. Ban Chỉ đạo có Tổ thường trực triển khai do Cục trưởng Cục Thuế làm Tổ trưởng và thành viên là đại diện lãnh đạo, công chức các Chi cục, Phòng thuộc Cục Thuế và đại diện các Sở, ban, ngành và các đơn vị có liên quan trên địa bàn.
Cục Thuế các địa phương chủ động phối hợp với Sở Thông tin và Truyền thông, các báo đài, tổ chức truyền thông tại địa phương để tuyên truyền kịp thời lợi ích của việc thực hiện hóa đơn điện tử và những nội dung mới của hóa đơn điện tử theo quy định tại Luật Quản lý thuế, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP và Thông tư số 78/2021/TT-BTC. Chuẩn bị và cung cấp nội dung tuyên truyền phù hợp từng đối tượng khác nhau và bằng các hình thức tuyên truyền phong phú, đa dạng liên tục trong quá trình tổ chức triển khai thực hiện.
Đồng thời, thực hiện rà soát, phân loại người nộp thuế là doanh nghiệp, tổ chức kinh tế, hộ, cá nhân kinh doanh trên địa bàn là đối tượng sử dụng các loại hoá đơn điện tử theo quy định để thông báo đến từng đơn vị các nội dung ngay từ ngày bắt đầu triển khai thực hiện; chuẩn bị điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin để thực hiện việc lập, chuyển dữ liệu hóa đơn điện tử đến cơ quan thuế, gửi hóa đơn điện tử cho người mua và các nội dung khác về quản lý, sử dụng hóa đơn điện tử.
Phải rà soát và thông báo đến các tổ chức cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử trên địa bàn về việc triển khai hóa đơn điện tử để các tổ chức chuẩn bị cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin đáp ứng được việc cung cấp dịch vụ hóa đơn điện tử cho khách hàng theo quy định tại Luật Quản lý thuế, Nghị định số 123/2020/NĐ-CP và Thông tư số 78/2021/TT-BTC.
TIẾN HƯNG
Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp
6.

