TRỰC THỨ 3

10/05/2022 02:17 |

(LSVN) -

CHIỀU

1. Căn cứ để tạm giam và thay đổi biện pháp ngăn chặn với bị can

(LSVN) - Liên quan đến vụ đại án về kinh tế, tham nhũng xảy ra ra tại Tổng công ty sản xuất - xuất nhập khẩu Bình Dương (Tổng công ty Bình Dương) và một số đơn vị liên quan, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao vừa có quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn đối với bị can Phạm Văn Cành, cựu Phó Bí thư thường trực Tỉnh ủy Bình Dương từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú. Vậy, căn cứ để tạm giam và thay đổi biện pháp ngăn chặn với bị can được pháp luật quy định như thế nào?

Dưới góc độ pháp lý, theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, việc cơ quan tố tụng quyết định thay đổi biện pháp ngăn chặn với ông Cành là thể hiện chính sách nhân đạo theo quy định của pháp luật.

Theo thông tin từ phía cơ quan điều tra, ông Phạm Văn Cành (64 tuổi) cùng với ông Trần Văn Nam, cựu Bí thư Tỉnh ủy Bình Dương, Trần Thanh Liêm, cựu Chủ tịch UBND tỉnh Bình Dương, được xác định là đồng phạm, tiếp tay cho bị can Nguyễn Văn Minh, cựu Chủ tịch HĐTV kiêm Tổng giám đốc Tổng công ty Bình Dương gây thất thoát cho Nhà nước số tiền hơn 6.600 tỉ đồng.

Trước đó, ngày 29/6/2021, ông Cành bị cơ quan Cảnh sát điều tra Bộ Công an bắt tạm giam để điều tra về tội danh “Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí”.

Tội "Vi phạm quy định về quản lý, sử dụng tài sản Nhà nước gây thất thoát, lãng phí" được quy định tại Điều 219, Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017. Theo quy định này thì đây là tội đặc biệt nghiêm trọng với hình phạt cao nhất lên tới 20 năm tù. 

Điều 119 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định rõ về tạm giam. Theo đó, tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội đặc biệt nghiêm trọng, tội rất nghiêm trọng.

Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội nghiêm trọng, tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù trên 02 năm khi có căn cứ xác định người đó thuộc một trong các trường hợp: Đã bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng vi phạm; Không có nơi cư trú rõ ràng hoặc không xác định được lý lịch của bị can; Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã hoặc có dấu hiệu bỏ trốn; Tiếp tục phạm tội hoặc có dấu hiệu tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Tạm giam có thể áp dụng đối với bị can, bị cáo về tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật Hình sự quy định hình phạt tù đến 02 năm nếu họ tiếp tục phạm tội hoặc bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã.

Đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà có nơi cư trú và lý lịch rõ ràng thì không tạm giam mà áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, trừ các trường hợp: Bỏ trốn và bị bắt theo quyết định truy nã; Tiếp tục phạm tội; Có hành vi mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm hoặc người thân thích của những người này; Bị can, bị cáo về tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ xác định nếu không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.

Bộ luật Tố tụng hình sự cũng quy định về việc thay đổi biện pháp ngăn chặn trong đó có thủ tục "bảo lĩnh", như sau: Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh.

Bị can, bị cáo được bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan thực hiện các nghĩa vụ: Có mặt theo giấy triệu tập, trừ trường hợp vì lý do bất khả kháng hoặc do trở ngại khách quan; Không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; Không mua chuộc, cưỡng ép, xúi giục người khác khai báo gian dối, cung cấp tài liệu sai sự thật; không tiêu hủy, giả mạo chứng cứ, tài liệu, đồ vật của vụ án, tẩu tán tài sản liên quan đến vụ án; không đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại, người tố giác tội phạm và người thân thích của những người này.

Trường hợp bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan quy định tại khoản này thì bị tạm giam.

Như vậy, theo quy định của pháp luật thì ông Cành bị tạm giam do bị khởi tố về tội đặc biệt nghiêm trọng. Với tội đặc biệt nghiêm trọng thì đương nhiên cơ quan tiến hành tố tụng sẽ áp dụng biện pháp tạm giam sau khi khởi tố bị can, trừ một số trường hợp như người già yếu, phụ nữ có thai. Tuy nhiên, trong quá trình điều tra vụ án nếu bị can được đánh giá là thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tích cực giúp đỡ cơ quan điều tra trong việc phát hiện, xử lý tội phạm và thuộc trường hợp có nơi cư trú rõ ràng.

Là người cao tuổi như ông Cành, có người thân có đơn xin bảo lĩnh thì việc cơ quan điều tra thay đổi biện pháp ngăn chặn từ tạm giam sang cấm đi khỏi nơi cư trú là phù hợp với quy định của pháp luật, thể hiện chính sách nhân đạo trong việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự.

TIẾN HƯNG

Giám đốc Bệnh viện Quân y 110 đối diện mức án nào?

2. Phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng: Khó khả thi!

(LSVN) - Việc phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng di động là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân về các vi phạm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý các hành vi vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay chưa phát huy hiệu quả.

Ảnh minh họa.

Ngày 06/5 tại Hà Nội, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá, Cục Quản lý Khám, chữa bệnh (Bộ Y tế) tổ chức Hội thảo triển khai dự án “Tăng cường thực thi Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá thông qua thí điểm mô hình huy động sự tham gia của cộng đồng ở cấp quận và nhân rộng trên toàn quốc”. Với mong muốn góp phần thực hiện hiệu quả hơn nữa các quy định về môi trường không khói thuốc, Quỹ Phòng, chống tác hại thuốc lá xây dựng ứng dụng phần mềm VN0khoithuoc trên điện thoại di động, nhắm phát huy vai trò của người dân và tận dụng sức mạnh cộng đồng để phát hiện các trường hợp vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc. Phần mềm được triển khai thí điểm tại 2 quận Hoàn Kiếm và Tây Hồ (Hà Nội) trong năm 2022.

Mặc dù, mới là áp dụng thí điểm nhưng dư luận lo ngại về tính khả thi của việc xử lý hành vi vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc qua ứng dụng phần mềm VN0khoithuoc trên điện thoại di động (gọi tắt là qua ứng dụng) vì những lý do sau:

Thứ nhất, hiện nay tình trạng hút thuốc lá tại nơi công cộng nơi có quy định cấm hút thuốc lá như cơ quan, bệnh viện, trường học,…xảy ra phổ biến nhưng việc xử lý các hành vi vi phạm này là rất hạn chế. Nhiều người vẫn vô tư hút thuốc lá tại các địa điểm có quy định cấm mà không sợ bị xử lý. Việc kiểm tra, nhắc nhở và xử lý của các cơ quan chức năng đối với người vi phạm chưa được thường xuyên, kịp thời. Chính vì vậy, việc triển khai ứng dụng để xử lý hành vi vi phạm quy định về địa điểm cấm hút thuốc sẽ càng khó khăn hơn.

Thứ hai, hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng xảy ra nhanh chóng, đối tượng vi phạm chủ yếu là người vãn lai. Sau khi hút thuốc xong, người vi phạm sẽ di chuyển đi nơi khác nên không thể có các thông tin như tên, địa chỉ người vi phạm; đồng thời, hành vi vi phạm này cần phải bắt quả tang, lập biên bản tại chỗ và xử lý mới đảm bảo tính khả thi. Do đó, việc người dân quay video hoặc chụp ảnh các hành vi vi phạm và gửi về cơ quan chức năng sẽ rất khó xử lý do thiếu thông tin của đối tượng vi phạm.

Thứ ba, về quy trình xử lý, thông tin phản ánh của người dân sẽ được tiếp nhận và xử lý bởi Ủy ban nhân dân cấp quận và chuyển xuống cấp xã, phường nơi có cơ sở vi phạm. Cơ quan chức năng tiếp nhận, xử lý, đồng thời chuyển lại kết quả để người dân theo dõi, giám sát quá trình xử lý. Quy trình này phải tốn rất nhiều thời gian, nguồn nhân lực và phải đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ cho việc tiếp nhận và xử lý thông tin. Mặt khác, một số thông tin phản ánh của người dân không có nghĩa là đã đầy đủ, chính xác, rõ ràng mà phải thông qua việc kiểm tra, xác minh, nhiều trường hợp việc xác minh, kiểm tra sẽ không có kết quả nên không thể xử lý hành vi vi phạm. Việc này có thể làm cho người dân đã phản ánh thông tin sẽ nản lòng và không tiếp tục phản ánh nữa.

Thiết nghĩ, việc phản ánh hút thuốc lá nơi công cộng qua ứng dụng di động là cần thiết để nâng cao nhận thức của người dân về các vi phạm trong phòng, chống tác hại của thuốc lá. Tuy nhiên, trên thực tế, việc xử lý các hành vi vi phạm hút thuốc lá nơi công cộng hiện nay chưa phát huy hiệu quả. Việc phản ánh của người dân về hành vi hút thuốc lá tại nơi công cộng qua ứng ựng chỉ có thể giúp chính quyền cơ sở và cơ quan, đơn vị, quản lý các địa điểm công cộng nơi cấm hút thuốc lá tăng cường các biện pháp quản lý như kiểm tra, nhắc nhở và xử lý hành vi vi phạm, chứ không thể giúp lực lượng chức năng kiểm tra, xử lý các hành vi hút thuốc lá nơi công cộng đã xảy ra và được người dân quay video hoặc chụp ảnh cung cấp.

ĐỖ VĂN NHÂN

Các quy định người đi thuê nhà cần biết

3. Bổ sung thời gian cấp giấy phép, giám định đối với văn hóa phẩm là phim

(LSVN) - Trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp phép phải cấp giấy phép.

Đây là một trong những điểm mới đáng chú ý tại Nghị định số 22/2022/NĐ-CP ngày 25/3/3022 do Chính phủ ban hành sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 32/2012/NĐ-CP ngày 12/4/2012 của Chính phủ về quản lý xuất khẩu, nhập khẩu văn hóa phẩm không nhằm mục đích kinh doanh. Nghị định này sẽ chính thức có hiệu lực từ ngày hôm nay (10/5/2022).

Cụ thể, Nghị định sửa đổi, bổ sung khoản 2 Điều 10 về giấy phép nhập khẩu văn hóa phẩm. Theo đó, trong thời hạn 2 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp phép phải cấp giấy phép.

Đối với văn hóa phẩm là phim, trong thời hạn 3 ngày làm việc, kể từ ngày nhận đủ hồ sơ hợp lệ, cơ quan có thẩm quyền cấp phép phải cấp giấy phép.

Bên cạnh đó, Nghị định cũng sửa đổi, bổ sung khoản 5 Điều 10. Theo đó, thời gian giám định văn hóa phẩm nhập khẩu tối đa không quá 12 ngày làm việc. Đối với văn hóa phẩm là phim, thời gian giám định phim không quá 12 ngày làm việc, kể từ ngày tổ chức cung cấp bản phim.

Nghị định bổ sung quy định, cá nhân nhập khẩu phim chỉ để sử dụng cho mục đích cá nhân cam kết không vi phạm quy định cấm tại Luật Điện ảnh và sử dụng phim đúng với quy định của pháp luật.

VĂN QUANG

Cả nước chỉ còn 10 xã, phường vùng đỏ

3.  Các điều kiện cho người bị kết án phạt tù được hưởng án treo từ 10/5/2022

(LSVN) - Vừa qua, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao Nguyễn Hòa Bình đã ký ban hành Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP ngày 15/4/2022 sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng Điều 65 của Bộ luật Hình sự về án treo.

Trong đó, Nghị quyết số 01/2022/NQ-HĐTP đã sửa đổi, bổ sung Điều 2 Nghị quyết số 02/2018/NQ-HĐTP. Cụ thể, người bị xử phạt tù có thể được xem xét cho hưởng án treo khi có đủ các điều kiện sau đây:

Thứ nhất, bị xử phạt tù không quá 03 năm.

Thứ hai, bị xử phạt tù có nhân thân là ngoài lần phạm tội này, người phạm tội chấp hành chính sách, pháp luật và thực hiện đầy đủ các nghĩa vụ của công dân ở nơi cư trú, nơi làm việc.

- Đối với người đã bị kết án nhưng thuộc trường hợp được coi là không có án tích, người bị kết án nhưng đã được xóa án tích, người đã bị xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị xử lý kỷ luật mà tính đến ngày phạm tội lần này đã quá thời hạn được coi là chưa bị xử phạt vi phạm hành chính, chưa bị xử lý kỷ luật theo quy định của pháp luật nếu xét thấy tính chất, mức độ của tội phạm mới được thực hiện thuộc trường hợp ít nghiêm trọng hoặc người phạm tội là đồng phạm có vai trò không đáng kể trong vụ án và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;

- Đối với người bị kết án mà khi định tội đã sử dụng tình tiết “đã bị xử lý kỷ luật” hoặc “đã bị xử phạt vi phạm hành chính” hoặc “đã bị kết án” và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo;

- Đối với người bị kết án mà vụ án được tách ra để giải quyết trong các giai đoạn khác nhau (tách thành nhiều vụ án) và có đủ các điều kiện khác thì cũng có thể cho hưởng án treo

Thứ ba, có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự và không có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 52 của Bộ luật Hình sự.

Trường hợp có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự thì số tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự phải nhiều hơn số tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự từ 02 tình tiết trở lên, trong đó có ít nhất 01 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật Hình sự.

Thứ tư, có nơi cư trú rõ ràng hoặc nơi làm việc ổn định để cơ quan, tổ chức có thẩm quyền giám sát, giáo dục.

Nơi cư trú rõ ràng là nơi tạm trú hoặc thường trú có địa chỉ được xác định cụ thể theo quy định của Luật Cư trú mà người được hưởng án treo về cư trú, sinh sống thường xuyên sau khi được hưởng án treo.

Nơi làm việc ổn định là nơi người phạm tội làm việc có thời hạn từ 01 năm trở lên theo hợp đồng lao động hoặc theo quyết định của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền.

Thứ năm, xét thấy không cần phải bắt chấp hành hình phạt tù nếu người phạm tội có khả năng tự cải tạo và việc cho họ hưởng án treo không gây nguy hiểm cho xã hội; không ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội.

Thứ sáu, khi xem xét, quyết định cho bị cáo hưởng án treo Tòa án phải xem xét thận trọng, chặt chẽ các điều kiện để bảo đảm việc cho hưởng án treo đúng quy định của pháp luật, đặc biệt là đối với các trường hợp hướng dẫn tại khoản 2, khoản 4 và khoản 5 Điều 3 Nghị quyết này. Đây là điều kiện mới được Nghị quyết bổ sung để được hưởng án treo.

Nghị quyết này đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao thông qua ngày 23/3/2022 và có hiệu lực thi hành kể từ ngày 10/5/2022.

HỒNG HẠNH

Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng

4. Hàn Quốc bắt giữ đối tượng đe dọa đánh bom lễ nhậm chức của Tổng thống

(LSVN) - Cảnh sát Hàn Quốc cho biết nghi phạm đe dọa đánh bom lễ nhậm chức của Tổng thống Yoon Suk-yeol đang bị giam giữ tại một địa điểm không xác định và sẽ được di lý về Seoul để điều tra thêm.

Tân Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol.

Ngày 10/5, Cảnh sát Hàn Quốc cho biết một người đàn ông gần 30 tuổi đã bị bắt giữ do bị cáo buộc đăng tải bài viết trên trang mạng xã hội Bobaedream tối ngày 09/5 đe dọa đánh bom tại lễ nhậm chức của Tổng thống Hàn Quốc Yoon Suk-yeol.

Cơ quan Cảnh sát Quốc gia cho biết thêm nghi phạm trên được giữ kín danh tính, hiện đang bị giam giữ tại một địa điểm không xác định ở tỉnh Bắc Chungcheong và đang được di lý về Seoul để điều tra thêm.

Theo cảnh sát, bài đăng với hơn 60 bình luận đã bị xóa.

Vụ việc đã được giao cho Sở cảnh sát quận Seocho, Seoul để điều tra chính thức.

TTXVN

Nhiều địa phương vẫn chậm ban hành chương trình phát triển nhà ở

SÁNG THỨ 5

1. Vừa đi làm tại khu công nghiệp, có được Nhà nước hỗ trợ tiền thuê nhà trọ?

(LSVN) - Tôi vừa mới vào làm việc tại doanh nghiệp từ đầu tháng 4/2022 tại khu công nghiệp ở Bình Dương. Vậy tôi có được hỗ trợ tiền thuê nhà trọ? Nếu được thì thủ tục thực hiện như thế nào?

Theo Quyết định 08/2022/QĐ-TTg có hiệu lực từ ngày 28/3/2022, người lao động đáp ứng đủ điều kiện sẽ được hỗ trợ tiền thuê nhà. Theo đó có hai nhóm đối tượng lao động được nhận hỗ trợ gồm: Hỗ trợ người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp và Hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường lao động.

Do bạn làm việc từ tháng 4/2022 nên bạn thuộc nhóm hỗ trợ người lao động quay trở lại thị trường lao động. Hồ sơ, thủ tục nhận hỗ trợ được hướng dẫn như sau:

Đối tượng: Người lao động đang làm việc trong doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh có đăng ký kinh doanh tại khu công nghiệp, khu chế xuất hoặc khu vực kinh tế trọng điểm.

Điều kiện hỗ trợ: Gồm 3 điều kiện:

- Ở thuê, ở trọ trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2022 đến ngày 30/6/2022.

- Có hợp đồng lao động không xác định thời hạn hoặc hợp đồng lao động xác định thời hạn từ 1 tháng trở lên được giao kết và thực hiện trong khoảng thời gian từ ngày 01/4/2022 đến ngày 30/6/2022, trừ hợp đồng lao động giao kết tiếp nối của hợp đồng lao động đã giao kết và thực hiện trước đó.

- Đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc (có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội) tại tháng liền kề trước thời điểm người sử dụng lao động lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

Trường hợp người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc theo quy định tại khoản 4 Điều 2 Nghị định số 115/2015/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2015 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Bảo hiểm xã hội về bảo hiểm xã hội bắt buộc, người lao động mới tuyển dụng và có giao kết hợp đồng lao động nhưng chưa có tên trong danh sách tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của cơ quan bảo hiểm xã hội thì phải có tên trong danh sách trả lương của người sử dụng lao động của tháng liền kề trước thời điểm người sử dụng lao động lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

Mức hỗ trợ là 1 triệu đồng/tháng, tối đa 3 tháng. Phương thức chi trả hàng tháng.

Hồ sơ đề nghị: Danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà có xác nhận của cơ quan bảo hiểm xã hội theo mẫu. Trường hợp trong danh sách có người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì hồ sơ đề nghị cần có thêm bản sao danh sách trả lương của tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp, hợp tác xã, hộ kinh doanh lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.

PHƯƠNG HOA

Hỗ trợ vay vốn mua thiết bị học trực tuyến 10 triệu đồng/học sinh

2. Căn cứ điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Nghị định số 29/2022/NĐ-CP Chính phủ vừa ban hành quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19.

Nghị định này quy định về điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19; kinh phí chi thường xuyên của cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 công lập và hoàn trả chi phí phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19; thanh toán chi phí khám bệnh, chữa bệnh đối với người bệnh Covid-19; một số cơ chế đặc thù liên quan đến thuốc, nguyên liệu làm thuốc có chỉ định sử dụng phòng, điều trị Covid-19; chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị mắc Covid-19; người phải cách ly y tế sau thời gian làm việc tại cơ sở thu dung, điều trị Covid-19.

Trong đó, Điều 2 Nghị định quy định rõ về các căn cứ điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19. Cụ thể gồm:

- Đề nghị của Chủ tịch Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương, Giám đốc Sở Y tế, Chủ tịch Ủy ban nhân dân các quận, huyện, thành phố trực thuộc tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có nhu cầu hỗ trợ nhân lực tham gia phòng, chống dịch Covid-19 theo mẫu quy định tại Phụ lục I ban hành kèm theo Nghị định này;

- Đề nghị của Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở thu dung, điều trị Covid-19 và cơ sở y tế dự phòng có nhu cầu hỗ trợ nhân lực tham gia phòng, chống dịch Covid-19;

- Điều động của Bộ trưởng Bộ Y tế bổ sung nhân lực hỗ trợ đối với các địa phương, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng để tăng cường lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19;

- Điều động của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng và Bộ trưởng Bộ Công an đối với cán bộ, chiến sĩ thuộc phạm vi quản lý bổ sung nhân lực hỗ trợ đối với các địa phương, cơ sở khám bệnh, chữa bệnh và cơ sở y tế dự phòng để tăng cường lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19.

Thẩm quyền điều động, huy động người tham gia xét nghiệm, tiêm chủng, khám bệnh, chữa bệnh Covid-19 (sau đây gọi chung là điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19):

- Bộ trưởng Bộ Y tế điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trong phạm vi toàn quốc, trừ lực lượng do Bộ Quốc phòng, Bộ Công an quản lý;

- Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Công an điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trong phạm vi quản lý;

- Chủ tịch Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương hoặc đơn vị được Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương ủy quyền điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn quản lý;

- Thủ trưởng cơ sở khám bệnh, chữa bệnh, cơ sở thu dung, điều trị Covid-19, cơ sở y tế dự phòng, cơ sở đào tạo khối ngành sức khỏe điều động, huy động lực lượng tham gia phòng, chống dịch Covid-19 thuộc phạm vi quản lý.

NGUYẾN DŨNG

Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng

3. Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp

(LSVN) –Bộ Công Thương vừa ban hành Thông tư 07/2022/TT-BCT hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực. Trong đó quy định rõ hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp.

Cụ thể, về nguyên tắc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp Thông tư quy định rõ tại cùng một thời điểm, không áp dụng đồng thời biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và biện pháp tự vệ theo quy định tại Điều 91 Luật Quản lý ngoại thương đối với cùng một hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP.

Biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp không được áp dụng ngoài giai đoạn chuyển tiếp.

Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp

Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp (trong Chương này gọi là Hồ sơ yêu cầu) gồm Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và các giấy tờ, tài liệu có liên quan theo quy định tại Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.

Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP phải đáp ứng các nội dung cụ thể sau đây:

- Tên, địa chỉ và thông tin cần thiết của tổ chức, cá nhân đại diện ngành sản xuất trong nước;

- Thông tin, số liệu, chứng cứ để xác định đại diện ngành sản xuất trong nước, bao gồm danh sách các tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp; khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp mà các tổ chức, cá nhân nêu trên sản xuất;

- Tên, địa chỉ của các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa tương tự ủng hộ hoặc phản đối vụ việc;

- Thông tin mô tả về hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP bị yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; thành phần; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam; mã hàng và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định RCEP;

- Thông tin mô tả về hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam;

- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa nhập khẩu quy định tại điểm d khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trị giá hải quan hàng hóa nhập khẩu được thực hiện theo quy định tại Hiệp định thực thi Điều VII Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994);

- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước quy định tại điểm đ khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước hoạt động ít hơn 03 năm, dữ liệu thu thập là toàn bộ thời gian hoạt động của ngành sản xuất trong nước tính đến thời điểm nộp Hồ sơ yêu cầu;

- Thông tin, số liệu, chứng cứ về thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;

- Thông tin, số liệu, chứng cứ về mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa quy định tại điểm d khoản này và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;

- Yêu cầu cụ thể về việc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, thời hạn áp dụng và mức độ áp dụng.

Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/5/2022.

PHƯƠNG HOA

Điều kiện vay vốn với trường mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng Covid-19

4. Bàn về tội ‘Vi phạm chế độ một vợ, một chồng’ quy định tại Điều 182 BLHS năm 2015

(LSVN) - Điều 182 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 quy định về tội "Vi phạm chế độ một vợ, một chồng", đây là quy định có ý nghĩa rất quan trọng, bảo đảm tốt nguyên tắc cơ bản: “Hôn nhân tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng bình đẳng” được pháp luật thừa nhận và bảo vệ; phù hợp với các chuẩn mực đạo đức xã hội, nhằm bảo vệ và phát huy hiệu quả của hôn nhân và gia đình Việt Nam bền vững, đáp ứng yêu cầu đấu tranh phòng, chống hành vi vi phạm pháp luật trong giai đoạn mới. Tuy nhiên, quá trình nghiên cứu và áp dụng pháp luật trên thực tiễn, tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc và kiến nghị về vấn đề này.

Ảnh minh họa.

So với BLHS năm 1999, BLHS năm 2015 đã có nhiều quy định tiến bộ hơn, đã cụ thể hóa tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng” quy định tại Điều 147 BLHS năm 1999 thành các hậu quả như “làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn”, “làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát”, cụ thể:

Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác hoặc người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

a) Làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn;

b) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này mà còn vi phạm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:

a) Làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát;

b) Đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó.

Tội phạm được cấu thành khi thỏa mãn hai điều kiện sau:

Một là, chủ thể thực hiện hành vi phạm tội phải đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp mà kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng với người khác (người đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp hoặc đang độc thân); hoặc chủ thể đang trong tình trạng độc thân nhưng biết rõ và cố ý thực hiện hành vi kết hôn hoặc chung sống với người đang tồn tại quan hệ hôn nhân hợp pháp.

Hai là, hành vi nêu trên đã được cơ quan có thẩm quyền xử lý vi phạm hành chính; đã có quyết định của Tòa án hủy việc kết hôn hoặc buộc phải chấm dứt việc chung sống như vợ chồng trái với chế độ một vợ, một chồng mà vẫn duy trì quan hệ đó hoặc đã có hậu quả nghiêm trọng xảy ra (làm cho quan hệ hôn nhân của một hoặc hai bên dẫn đến ly hôn; làm cho vợ, chồng hoặc con của một trong hai bên tự sát).

Vướng mắc, bất cập 

Qua nghiên cứu các quy định và thực tiễn áp dụng pháp luật tác giả nhận thấy còn tồn tại một số vướng mắc, bất cập trong quy định của Điều luật, cụ thể:

Một là, về mặt kỹ thuật lập pháp ở phần quy định về hành vi của điều luật sử dụng thuật ngữ “kết hôn” là chưa chính xác, bởi, khoản 5 Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 quy định: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”.

Như vậy, để xác lập một quan hệ hôn nhân phải tuân thủ các điều kiện về kết hôn và đăng ký kết hôn theo quy định của pháp luật, một chủ thể đang có vợ, có chồng (có nghĩa đang tồn tại một quan hệ hôn nhân hợp pháp) thì không thể kết hôn với người khác. Nếu không tuân thủ điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn sẽ dẫn đến hậu quả “kết hôn trái pháp luật”. Bên cạnh đó, tùy theo tính chất, mức độ hành vi của cơ quan có thẩm quyền công nhận và xác lập quan hệ vợ chồng nói trên sẽ bị xử lý về tội “Đăng ký hộ tịch trái pháp luật” quy định tại Điều 336 BLHS năm 2015.

Hai là, một số hành vi có tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội tương xứng hoặc cao hơn như kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng được quy định cụ thể tại điểm d khoản 1 Điều 59 Nghị định 82/2020/NĐ-CP ngày 15/7/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bổ trợ tư pháp; hành chính tư pháp; hôn nhân và gia đình; thi hành án dân sự; phá sản doanh nghiệp, hợp tác xã lại không được quy định trong BLHS năm 2015. Nếu một trong những hành vi như đã nêu trên xảy ra trên thực tế thì chỉ dừng lại ở mức độ xử lý vi phạm hành chính chứ chưa thể xử lý hình sự, điều này sẽ dẫn đến việc bỏ lọt một số tội phạm. 

Ba là, như đã phân tích ở phần trên, tội phạm hoàn thành khi thỏa mãn hai điều kiện, nhưng trên thực tế chủ thể tội phạm thường dùng nhiều thủ đoạn khác nhau để lừa dối, che dấu hành vi của mình, dẫn đến rất khó khăn trong việc chứng minh để xử phạt vi phạm hành chính, làm tiền đề để xử lý trách nhiệm hình sự.

Ví dụ như: Nguyễn Văn A đã có vợ, con tại tỉnh D, sau đó A vào thành phố H làm việc, A thuê nhà trọ và sống chung như vợ chồng với B trong thời gian dài. Hành vi này đã được vợ A biết và đề nghị cơ quan có thẩm quyền can thiệp. Tuy nhiên, A chỉ khai nhận mối quan hệ với B chỉ là bạn cùng công ty, thuê trọ ở ghép để tiết kiệm chi tiêu, những người ở cùng dãy trọ với A cũng không biết mối quan hệ giữa A và B như thế nào. Từ đó dẫn đến rất khó cho cơ quan có thẩm quyền chứng minh hành vi vi phạm để xử lý vi phạm hành chính và làm căn cứ xử lý hình sự đối với hành vi của A.

Đề xuất, kiến nghị

Trên cơ sở một số vướng mắc, bất cập, tác giả đề xuất, kiến nghị như sau:

Một là, thời gian tới, cần đề xuất sửa đổi điều luật theo hướng bổ sung cụm từ “trái pháp luật” vào sau cụm từ “kết hôn” và bổ sung hành vi “kết hôn hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng” vào phần quy định hành vi của điều luật. Cụ thể:

"Điều 182. Tội vi phạm chế độ một vợ, một chồng

1. Người nào đang có vợ, có chồng mà kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ chồng với người khác; người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ chồng với người mà mình biết rõ là đang có chồng, có vợ; kết hôn trái pháp luật hoặc chung sống như vợ chồng giữa người đã từng là cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt cảnh cáo, phạt cải tạo không giam giữ đến 01 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 01 năm:

...”

Hai là, cần thiết đề xuất ban hành các quy định về xử phạt hành chính cụ thể, rõ ràng hơn trên lĩnh vực này, nhằm dễ dàng hơn trong công tác áp dụng pháp luật để xử lý vi phạm hành chính trên thực tiễn./.

VÕ MINH TUẤN 

Thư ký Tòa án quân sự Khu vực 1 Quân khu 5

Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng

5. Sở hữu biển số xe đấu giá 'suốt đời' không trái luật!

(LSVN) - Liên quan đến việc Bộ Công an đang lấy ý kiến của người dân với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá được đông đảo quần chúng nhân dân quan tâm, đồng tình ủng hộ. Vì vậy, khi dự thảo nghị quyết được công bố thu hút rất nhiều ý kiến tham gia đóng góp nhằm sớm hoàn thiện, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và đi vào thực tế cuộc sống.

Ảnh minh họa.

Điều này đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khá lớn của một số bộ phận người dân, tổ chức đối với biển số xe đẹp, ưa thích. Đồng thời, khi triển khai sẽ mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, khi nhiều biển số đẹp được 'sang tay' lên đến hàng tỷ đồng.

Tuy nhiên, vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm và tranh luận khá gay gắt là biển số xe đấu giá có được xác định là "tài sản" hay không. Từ đó, làm cơ sở, căn cứ xác lập quyền của chủ sở biển số xe trong quá trình quản lý, sử dụng sau này. Đặc biệt là có được sở hữu suốt đời hoặc được phép mua bán, tặng cho, thừa kế... đối với biển số xe được thông qua đấu giá hay không? Có nhiều ý kiến khác nhau.

Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng việc đấu giá biển số xe phải thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản, cụ thể là trình tự, thủ tục đấu giá của Luật Đấu giá tài sản và các luật chuyên ngành liên quan. Khi đó, đương nhiên biển số xe sẽ được coi là tài sản, tương tự như đấu giá quyền sử dụng đất đai. Mặc dù, đất đai được coi "tài sản đặc biệt", thuộc sở hữu toàn dân… nhưng vẫn được tổ chức đấu giá, quản lý, sử dụng bình thường.  

Tất nhiên, cần bổ sung quy định biển số xe thông qua đấu giá là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu để việc triển khai thuận tiện, đúng pháp luật. Do đó, khi mua bán, tặng cho, thừa kế hoặc xe cũ đã hư hỏng muốn giữ lại biển số xe phải đăng ký với cơ quan chức năng để quản lý, theo dõi.

Trên thực tế việc thực hiện quyền của người sử dụng đất thông qua đấu giá như mua bán, thừa kế, tặng cho không có sự vướng mắc, bất cập gì. Do đó, biển số xe được coi là "tài sản đặc biệt" là hoàn toàn hợp lý, không có gì trái luật. Thậm chí, biển số xe qua đấu giá cũng có thể cho phép thế chấp tại các tổ chức tín dụng đều khả thi, phù hợp.

Vì vậy, cơ quan chức năng sớm triển khai việc đấu giá biển số xe bởi những lợi ích thiết thực mà nói mang lại. Điều này còn hạn chế tình trạng do nhu cầu về biển số xe đẹp mà một số người phải bỏ ra số tiền lớn để có được, trong khi ngân sách nhà nước thất thu khá lớn. Trong khi chỉ một số ít người được hưởng lợi từ việc mua bán, sang tay biển số xe đẹp, dẫn đến tiêu cực, lộn xộn trong việc quản lý biển số xe đẹp./.

Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG

Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum

Suy nghĩ về dạy Sử và học Sử

5. 

3. Đối tượng, chức danh luân chuyển cán bộ theo quy định mới nhất

(LSVN) - Công tác luân chuyển cán bộ là một nội dung trong công tác cán bộ đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, trực tiếp là các cấp uỷ, tổ chức đảng; bảo đảm nguyên tắc tập trung dân chủ, nêu cao trách nhiệm của tập thể lãnh đạo và người đứng đầu. Vừa qua, thay mặt Bộ Chính trị, Thường trực Ban Bí thư Võ Văn Thưởng đã ký Quy định số 65-QĐ/TW ngày 28/4/2022 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ.

Trong đó, tại Điều 4 Quy định nêu rõ về phạm vi, đối tượng, chức danh luân chuyển. Cụ thể, về phạm vi, luân chuyển từ cấp trên xuống cấp dưới, từ cấp dưới lên cấp trên, từ địa phương này sang địa phương khác; giữa các cơ quan, tổ chức cùng cấp trong hệ thống chính trị.

Đối tượng luân chuyển gồm:

- Cán bộ được quy hoạch chức danh lãnh đạo, quản lý các cấp.

- Cán bộ được luân chuyển để thực hiện chủ trương bố trí cán bộ lãnh đạo chủ chốt cấp tỉnh, cấp huyện không là người địa phương và cán bộ không giữ chức vụ cấp trưởng quá hai nhiệm kỳ liên tiếp ở một địa phương, cơ quan, đơn vị, gồm: Bí thư cấp uỷ, chủ tịch Uỷ ban nhân dân, chánh án toà án nhân dân, viện trưởng viện kiểm sát nhân dân và cấp trưởng các ngành công an, thanh tra, tài chính, thuế, hải quan cấp tỉnh, cấp huyện.

- Trường hợp khác do cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.

Nguyên tắc bố trí chức danh khi luân chuyển

Cơ bản thực hiện theo nguyên tắc bố trí giữ chức vụ tương đương với chức vụ đang đảm nhiệm. Trường hợp cần thiết, cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định bố trí chức vụ cao hơn chức vụ đang đảm nhiệm đối với cán bộ có phẩm chất, năng lực nổi trội, có khả năng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của chức vụ dự kiến phân công, bố trí.

Quy định này có hiệu lực từ ngày 28/4/2022 và thay thế Quy định số 98-QĐ/TW, ngày 07/10/2017 của Bộ Chính trị về luân chuyển cán bộ.

HỒNG HẠNH

Thẩm quyền luân chuyển cán bộ theo quy định mới nhất

6. Khai mạc Phiên họp thứ 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội

(LSVN) - Theo Tổng Thư ký Quốc hội Bùi Văn Cường, Phiên họp thứ 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ khai mạc vào sáng nay (11/5) tại Nhà Quốc hội dưới sự chủ trì của Chủ tịch Quốc hội Vương Đình Huệ và các Phó Chủ tịch Quốc hội điều hành từng nội dung cụ thể.

Phiên họp thứ 10 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (Ảnh minh họa).

Theo dự kiến chương trình Phiên họp, tại Phiên họp thứ 11, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về báo cáo đánh giá bổ sung kết quả thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước năm 2021; tình hình triển khai thực hiện kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước những tháng đầu năm 2022.  

Cho ý kiến về báo cáo kết quả giám sát việc giải quyết, trả lời kiến nghị của cử tri gửi đến kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV; xem xét báo cáo công tác dân nguyện của Quốc hội tháng 4/2022. Cho ý kiến về dự thảo báo cáo tổng hợp ý kiến, kiến nghị của cử tri và nhân dân gửi đến kỳ họp thứ 3, Quốc hội khóa XV. Cho ý kiến về dự thảo Nghị quyết ban hành Nội quy kỳ họp Quốc hội (sửa đổi).  

Cũng tại Phiên họp này, Thường vụ Quốc hội sẽ thảo luận, cho ý kiến về việc chuẩn bị kỳ họp thứ 3 của Quốc hội.  Tiếp đó, Thường vụ Quốc hội sẽ cho ý kiến về việc trình Quốc hội xem xét, quyết định Chủ trương đầu tư các dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Châu Đốc - Cần Thơ - Sóc Trăng (giai đoạn 1); Khánh Hòa - Buôn Ma Thuột (giai đoạn 1); Biên Hòa - Vũng Tàu (giai đoạn 1) (nếu đủ điều kiện).  

Ủy ban Thường vụ Quốc hội cũng sẽ xem xét việc dự kiến phương án phân bổ vốn ngân sách trung ương giai đoạn 2021 - 2025 và năm 2022 cho các bộ, cơ quan trung ương và địa phương thực hiện 3 chương trình mục tiêu quốc gia; Xem xét việc bổ sung kế hoạch ngân sách trung ương năm 2022 trong nước phân bổ cho các bộ, ngành, địa phương; Cho ý kiến về việc trình Quốc hội xem xét, quyết định chủ trương đầu tư Dự án Vành đai 4 vùng Thủ đô Hà Nội; Dự án Vành đai 3 Thành phố  Hồ Chí Minh.    

Cũng tại Phiên họp này, Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ xem xét, quyết định việc thành lập thị trấn Phương Sơn thuộc huyện Lục Nam và thành lập thị trấn Bắc Lý thuộc huyện Hiệp Hòa, tỉnh Bắc Giang; Xem xét, quyết định chủ trương chuyển mục đích sử dụng rừng, đất rừng và đất trồng lúa từ hai vụ trở lên của Dự án xây dựng công trình đường bộ cao tốc Bắc - Nam phía Đông giai đoạn 2021-2025 (nếu đủ điều kiện).  

Được biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến bằng văn bản đối với 3 nội dung: Tiếp tục cho ý kiến về báo cáo quyết toán ngân sách nhà nước năm 2020; Cho ý kiến về Báo cáo kiểm toán việc sử dụng các nguồn lực trong thực hiện nhiệm vụ phòng, chống dịch bệnh của Kiểm toán nhà nước; Xem xét đề nghị điều chỉnh Chương trình xây dựng luật, pháp lệnh năm 2022. Phiên họp thứ 11 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội sẽ kết thúc vào ngày 20/5.

HÀ ANH

Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật

7. 

Admin