1. Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp
(LSVN) – Bộ Công thương vừa ban hành Thông tư 07/2022/TT-BCT hướng dẫn thực hiện các biện pháp phòng vệ thương mại trong Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực. Trong đó quy định rõ hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp.
![]()
Cụ thể, về nguyên tắc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp Thông tư quy định rõ tại cùng một thời điểm, không áp dụng đồng thời biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và biện pháp tự vệ theo quy định tại Điều 91 Luật Quản lý ngoại thương đối với cùng một hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP.
Biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp không được áp dụng ngoài giai đoạn chuyển tiếp.
Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp
Hồ sơ yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp (trong Chương này gọi là Hồ sơ yêu cầu) gồm Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp và các giấy tờ, tài liệu có liên quan theo quy định tại Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP.
Đơn yêu cầu áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp theo quy định tại khoản 2 Điều 47 Nghị định số 10/2018/NĐ-CP phải đáp ứng các nội dung cụ thể sau đây:
- Tên, địa chỉ và thông tin cần thiết của tổ chức, cá nhân đại diện ngành sản xuất trong nước;
- Thông tin, số liệu, chứng cứ để xác định đại diện ngành sản xuất trong nước, bao gồm danh sách các tổ chức, cá nhân trong nước sản xuất hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp; khối lượng, số lượng hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp mà các tổ chức, cá nhân nêu trên sản xuất;
- Tên, địa chỉ của các tổ chức, cá nhân sản xuất hàng hóa tương tự ủng hộ hoặc phản đối vụ việc;
- Thông tin mô tả về hàng hóa nhập khẩu được hưởng thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Hiệp định RCEP bị yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; thành phần; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam; mã hàng và mức thuế suất thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt theo Biểu thuế nhập khẩu ưu đãi đặc biệt thực hiện Hiệp định RCEP;
- Thông tin mô tả về hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước bao gồm tên khoa học, tên thương mại, tên thường gọi; các đặc tính vật lý, hóa học cơ bản; mục đích sử dụng chính; quy trình sản xuất; tiêu chuẩn, quy chuẩn quốc tế và Việt Nam;
- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa nhập khẩu quy định tại điểm d khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trị giá hải quan hàng hóa nhập khẩu được thực hiện theo quy định tại Hiệp định thực thi Điều VII Hiệp định chung về Thuế quan và Thương mại (GATT 1994);
- Thông tin về khối lượng, số lượng và trị giá hàng hóa tương tự hoặc hàng hóa cạnh tranh trực tiếp của ngành sản xuất trong nước quy định tại điểm đ khoản này trong thời kỳ 03 năm trước khi nộp Hồ sơ yêu cầu và đã bao gồm ít nhất 06 tháng sau khi Hiệp định RCEP có hiệu lực. Trong trường hợp ngành sản xuất trong nước hoạt động ít hơn 03 năm, dữ liệu thu thập là toàn bộ thời gian hoạt động của ngành sản xuất trong nước tính đến thời điểm nộp Hồ sơ yêu cầu;
- Thông tin, số liệu, chứng cứ về thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;
- Thông tin, số liệu, chứng cứ về mối quan hệ nhân quả giữa việc nhập khẩu hàng hóa quy định tại điểm d khoản này và thiệt hại nghiêm trọng hoặc đe dọa gây thiệt hại nghiêm trọng của ngành sản xuất trong nước;
- Yêu cầu cụ thể về việc áp dụng biện pháp tự vệ RCEP chuyển tiếp, thời hạn áp dụng và mức độ áp dụng.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 09/5/2022.
PHƯƠNG HOA
Điều kiện vay vốn với trường mầm non, tiểu học ngoài công lập bị ảnh hưởng Covid-19
2. Bổ sung thu phí giám sát chứng khoán phái sinh từ 01/7/2022
(LSVN) - Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành Thông tư 25/2022/TT-BTC ngày 28/4/2022 quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán. Trong đó, bổ sung thu phí giám sát chứng khoán phái sinh.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông tư quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí quản lý và giám sát hoạt động chứng khoán; lệ phí cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán áp dụng tại Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Thông tư này áp dụng đối với tổ chức, cá nhân nộp phí, lệ phí; tổ chức thu phí, lệ phí; các tổ chức, cá nhân khác liên quan đến thu, nộp phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.
Mức thu phí quản lý và giám sát hoạt động chứng khoán; lệ phí cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán được quy định tại Biểu mức thu phí, lệ phí ban hành kèm theo Thông tư này.
Cụ thể, phí giám sát chứng khoán phái sinh đối với Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam (VSDC): 10% doanh thu giá dịch vụ quản lý vị thế/giá dịch vụ bù trừ và giá dịch vụ quản lý tài sản ký quỹ.
Phí giám sát chứng khoán phái sinh đối với Sở Giao dịch chứng khoán: 10% doanh thu giá dịch vụ giao dịch chứng khoán phái sinh.
Bên cạnh đó, bổ sung thu phí giám sát hoạt động chứng khoán đối với ngân hàng thanh toán như sau:
- Đối với cổ phiếu, chứng chỉ quỹ, chứng quyền có bảo đảm: 0,001% giá trị bù trừ, thanh toán ròng/ngày thanh toán, tối đa 1.000.000 đồng/ngày.
- Đối với trái phiếu doanh nghiệp: 0,0001% giá trị bù trừ, thanh toán ròng/ngày thanh toán, tối đa 100.000 đồng/ngày.
Thông tư 25/2022/TT-BTC có hiệu lực từ ngày 01/7/2022 và thay thế Thông tư 272/2016/TT-BTC ngày 14/11/2016.
MAI HUỆ
Thông báo rút kinh nghiệm vụ án 'Tranh chấp quyền sử dụng đất'
3. Kê khai, thu, nộp phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung tại Thông tư 25/2022/TT-BTC ngày 28/4/2022 do Bộ trưởng Bộ Tài chính ban hành quy định về mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.
![]()
Theo đó, tại Điều 4 Thông tư quy định rõ về kê khai, thu, nộp phí, lệ phí của người nộp. Cụ thể, phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán thu bằng đồng Việt Nam.
Thu, nộp lệ phí: Người nộp lệ phí phải nộp toàn bộ số tiền lệ phí khi được cấp giấy phép, giấy chứng nhận hoạt động trong lĩnh vực chứng khoán cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước.
Thu, nộp phí giám sát hoạt động chứng khoán: Sở Giao dịch chứng khoán Hà Nội và Sở Giao dịch chứng khoán Thành phố Hồ Chí Minh (sau đây gọi tắt là Sở GDCK), Tổng công ty lưu ký và bù trừ chứng khoán Việt Nam (sau đây gọi tắt là VSDC), ngân hàng thanh toán nộp phí giám sát cho Ủy ban Chứng khoán Nhà nước hàng quý, thời gian nộp chậm nhất là ngày cuối cùng của tháng đầu tiên của quý tiếp theo.
Thu, nộp phí quản lý công ty đại chúng chưa niêm yết và chưa đăng ký giao dịch một lần khi được Ủy ban Chứng khoán Nhà nước cấp giấy xác nhận hoàn tất việc đăng ký công ty đại chúng.
Thu, nộp phí quản lý đối với quỹ mở
Trong vòng 30 ngày, kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng ký thành lập quỹ mở, công ty quản lý quỹ phải nộp phí quản lý như sau:
- Trường hợp được cấp giấy chứng nhận từ ngày 01 tháng 01 đến ngày 30 tháng 06 hàng năm, mức phí phải nộp là 10 triệu đồng/quỹ.
- Trường hợp được cấp giấy chứng nhận từ ngày 01 tháng 7 đến ngày 31 tháng 12 hàng năm, mức phí phải nộp là 5 triệu đồng/quỹ.
Các năm tiếp theo, công ty quản lý quỹ phải nộp phí là 10 triệu đồng/quỹ, thời gian nộp từ ngày 01 tháng 12 đến ngày 31 tháng 12 hàng năm.
Về kê khai, nộp phí, lệ phí của tổ chức thu, định kỳ chậm nhất là ngày thứ hai hàng tuần, tổ chức thu phí phải gửi số tiền phí đã thu được trong tuần trước vào tài khoản phí chờ nộp ngân sách mở tại Kho bạc Nhà nước.
Tổ chức thu phí, lệ phí thực hiện kê khai, nộp phí, lệ phí thu được theo tháng, quyết toán năm theo quy định tại Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19 tháng 10 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế. Tổ chức thu thực hiện nộp 30% số tiền phí thu được và 100% số tiền lệ phí thu được vào ngân sách nhà nước theo chương, tiểu mục của Mục lục ngân sách nhà nước.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/7/2022. Thông tư bãi bỏ Thông tư số 272/2016/TT-BTC ngày 14/11/2016 của Bộ trưởng Bộ Tài chính quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí, lệ phí trong lĩnh vực chứng khoán.
DUY ANH
Lưu ý khi giải quyết vụ án về tranh chấp hợp đồng tín dụng
4. Chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị nhiễm Covid-19
(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 29/2022/NĐ-CP quy định chi tiết và biện pháp thi hành Nghị quyết số 12/2021/UBTVQH15 ngày 30/12/2021 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc cho phép thực hiện một số cơ chế, chính sách trong lĩnh vực y tế để phục vụ công tác phòng, chống dịch Covid-19. Trong đó quy định rõ về Chế độ chính sách đối với người được điều động, huy động tham gia phòng, chống dịch Covid-19 bị nhiễm Covid-19.
![]()
Theo đó, đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 đang hưởng lương từ ngân sách nhà nước, từ nguồn thu sự nghiệp của cơ sở y tế công lập:
- Được hưởng tiền lương, tiền công, phụ cấp theo lương và các khoản đóng góp theo quy định của pháp luật trong thời gian điều trị do bị nhiễm Covid-19. Trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi trả trợ cấp ốm đau theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội, ngân sách nhà nước chi trả phần còn lại;
- Được hưởng các chế độ phòng, chống dịch Covid-19 nếu tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trong thời gian điều trị Covid-19.
Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 không hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng có tham gia đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc:
Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 không hưởng lương từ ngân sách nhà nước nhưng không tham gia đóng bảo hiểm xã hội được hưởng các chế độ phòng, chống dịch Covid-19 nếu tham gia thực hiện các nhiệm vụ phòng, chống dịch Covid-19 trong thời gian điều trị Covid-19.
Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 không hưởng lương từ ngân sách nhà nước ngoài các chế độ quy định tại các khoản 2 và 3 Điều này, được ngân sách Nhà nước hỗ trợ một lần với mức như sau:
- Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 từ 15 ngày liên tục trở lên đến dưới 30 ngày mức 1.855.000 đồng/người;
- Đối với người tham gia phòng, chống dịch Covid-19 từ 30 ngày liên tục trở lên mức 3.710.000 đồng/người.
Sở Y tế có trách nhiệm tổng hợp nhu cầu chi hỗ trợ từ nguồn ngân sách nhà nước cho các đối tượng quy định tại khoản 4 Điều này gửi Sở Tài chính tổng hợp và trình Ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương xem xét, bổ sung dự toán để chi trả theo quy định của pháp luật về ngân sách nhà nước.
PHƯƠNG HOA
Chế tài xử lý đối với hành vi vi phạm về phát hành, bán trái phiếu trái quy định
5. Các trường hợp chấm dứt Hợp đồng ủy quyền thu BHXH, BHYT
(LSVN) - Vừa qua, BHXH Việt Nam đã ban hành Quyết định 1155/QĐ-BHXH ngày 12/5/2022 về Quy chế hoạt động của tổ chức dịch vụ thu BHXH, BHYT. Trong đó, quy định rõ các trường hợp chấm dứt Hợp đồng ủy quyền thu BHXH, BHYT.
![]()
Ảnh minh họa.
Quy chế này hướng dẫn về quản lý hoạt động thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế của tổ chức dịch vụ được Bảo hiểm xã hội Việt Nam ủy quyền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế đối với người tham gia bảo hiểm xã hội tự nguyện, người tham gia bảo hiểm y tế được ngân sách nhà nước hỗ trợ mức đóng và bảo hiểm y tế hộ gia đình theo quy định của pháp luật.
Đối tượng áp dụng là tổ chức dịch vụ nhận ủy quyền thu bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế; cơ quan Bảo hiểm xã hội các cấp; tổ chức và cá nhân có liên quan.
Cụ thể, tại Điều 9 Quy chế quy định các trường hợp chấm dứt Hợp đồng ủy quyền thu BHXH, BHYT gồm:
- Hợp đồng hết thời hạn và không được gia hạn.
- Hợp đồng đã được gia hạn một lần.
- Tổ chức dịch vụ không đáp ứng đủ nhân lực hoặc nhân viên không đáp ứng yêu cầu theo quy định tại Điều 4.
- Tổ chức dịch vụ vi phạm các điều khoản trong Hợp đồng đã ký.
- Tổ chức dịch vụ không hoàn thành kế hoạch phát triển người tham gia BHXH tự nguyện, BHYT tự đóng được giao.
- Tổ chức dịch vụ vi phạm pháp luật, bị các cơ quan có thẩm quyền xử lý theo quy định của pháp luật.
- Tổ chức dịch vụ có một trong các hành vi vi phạm sau: Giả mạo hồ sơ, chứng từ tham gia BHXH, BHYT; Sử dụng biên lai thu tiền không đúng quy định; Thu tiền của người tham gia trái quy định; Không nộp tiền hoặc nộp không đúng số tiền đã thu theo quy định; Nộp tiền không đúng thời gian theo quy định; Có hành vi gian lận để lạm dụng quỹ BHXH, BHYT; Không trả sổ BHXH, thẻ BHYT của người tham gia; Lợi dụng danh nghĩa Tổ chức dịch vụ thực hiện các hành vi vi phạm pháp luật, tuyên truyền sai lệch chính sách BHXH, BHYT.
- Thay đổi chủ thể ký Hợp đồng.
- Thay đổi căn cứ pháp lý.
- Đơn phương chấm dứt hợp đồng
+ Cơ quan BHXH có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào, nhưng phải trả thù lao cho Tổ chức dịch vụ tương ứng với công việc mà Tổ chức dịch vụ đã thực hiện và bồi thường thiệt hại (nếu có).
+ Tổ chức dịch vụ có quyền đơn phương chấm dứt thực hiện hợp đồng bất cứ lúc nào và phải bồi thường thiệt hại cho Cơ quan BHXH (nếu có).
- Trường hợp khác do Luật định.
MAI HUỆ
Cần làm gì khi bị quấy rối để trả nợ vay của người khác?
Giám đốc Bệnh viện Quân y 110 đối diện mức án nào?
6. Sở hữu biển số xe đấu giá 'suốt đời' không trái luật!
(LSVN) - Liên quan đến việc Bộ Công an đang lấy ý kiến của người dân với dự thảo Nghị quyết của Quốc hội về thí điểm cấp quyền lựa chọn sử dụng biển số ô tô thông qua đấu giá được đông đảo quần chúng nhân dân quan tâm, đồng tình ủng hộ. Vì vậy, khi dự thảo nghị quyết được công bố thu hút rất nhiều ý kiến tham gia đóng góp nhằm sớm hoàn thiện, trình cơ quan có thẩm quyền ban hành và đi vào thực tế cuộc sống.

Ảnh minh họa.
Điều này đáp ứng nhu cầu, thị hiếu khá lớn của một số bộ phận người dân, tổ chức đối với biển số xe đẹp, ưa thích. Đồng thời, khi triển khai sẽ mang lại một nguồn thu lớn cho ngân sách nhà nước, khi nhiều biển số đẹp được 'sang tay' lên đến hàng tỷ đồng.
Tuy nhiên, vấn đề được dư luận đặc biệt quan tâm và tranh luận khá gay gắt là biển số xe đấu giá có được xác định là "tài sản" hay không. Từ đó, làm cơ sở, căn cứ xác lập quyền của chủ sở biển số xe trong quá trình quản lý, sử dụng sau này. Đặc biệt là có được sở hữu suốt đời hoặc được phép mua bán, tặng cho, thừa kế... đối với biển số xe được thông qua đấu giá hay không? Có nhiều ý kiến khác nhau.
Theo quan điểm cá nhân, tôi cho rằng việc đấu giá biển số xe phải thực hiện theo quy định của pháp luật về đấu giá tài sản, cụ thể là trình tự, thủ tục đấu giá của Luật Đấu giá tài sản và các luật chuyên ngành liên quan. Khi đó, đương nhiên biển số xe sẽ được coi là tài sản, tương tự như đấu giá quyền sử dụng đất đai. Mặc dù, đất đai được coi "tài sản đặc biệt", thuộc sở hữu toàn dân… nhưng vẫn được tổ chức đấu giá, quản lý, sử dụng bình thường.
Tất nhiên, cần bổ sung quy định biển số xe thông qua đấu giá là tài sản phải đăng ký quyền sở hữu để việc triển khai thuận tiện, đúng pháp luật. Do đó, khi mua bán, tặng cho, thừa kế hoặc xe cũ đã hư hỏng muốn giữ lại biển số xe phải đăng ký với cơ quan chức năng để quản lý, theo dõi.
Trên thực tế việc thực hiện quyền của người sử dụng đất thông qua đấu giá như mua bán, thừa kế, tặng cho không có sự vướng mắc, bất cập gì. Do đó, biển số xe được coi là "tài sản đặc biệt" là hoàn toàn hợp lý, không có gì trái luật. Thậm chí, biển số xe qua đấu giá cũng có thể cho phép thế chấp tại các tổ chức tín dụng đều khả thi, phù hợp.
Vì vậy, cơ quan chức năng sớm triển khai việc đấu giá biển số xe bởi những lợi ích thiết thực mà nói mang lại. Điều này còn hạn chế tình trạng do nhu cầu về biển số xe đẹp mà một số người phải bỏ ra số tiền lớn để có được, trong khi ngân sách nhà nước thất thu khá lớn. Trong khi chỉ một số ít người được hưởng lợi từ việc mua bán, sang tay biển số xe đẹp, dẫn đến tiêu cực, lộn xộn trong việc quản lý biển số xe đẹp./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
7. Hồ sơ xét hưởng trợ cấp một lần đối với người được cử làm chuyên gia sang giúp Lào và Campuchia
(LSVN) - Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội vừa ban hành Thông tư số 07/2022/TT-BLĐTBXH ngày 06/5/2022, hướng dẫn về trợ cấp một lần đối với người được cử làm chuyên gia sang giúp Lào và Campuchia.
![]()
Thông tư này hướng dẫn một số nội dung về đối tượng, hồ sơ xét hưởng trợ cấp một lần đối với người được cử làm chuyên gia sang giúp Lào và Campuchia theo yêu cầu của bạn và công nhân viên đi làm nhiệm vụ phục vụ chuyên gia trên đất bạn theo Quyết định số 57/2013/QĐ-TTg ngày 14/10/2013 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều tại Quyết định số 62/2015/QĐ-TTg ngày 04/12/2015 của Thủ tướng Chính phủ về trợ cấp một lần đối với người được cử làm chuyên gia sang giúp Lào và Campuchia.
Theo đó, tại Điều 3 Thông tư quy định rõ về hồ sơ xét hưởng trợ cấp một lần. Cụ thể, hồ sơ xét hưởng trợ cấp một lần được thực hiện theo quy định tại Điều 3 Thông tư liên tịch số 17/2014/TTLT-BLĐTBXH-BTC ngày 01/8/2014 của liên Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, Bộ Tài chính.
Trường hợp chuyên gia không có Quyết định cử đi và Quyết định về nước của cơ quan có thẩm quyền (bản chính hoặc bản sao được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao kèm theo bản chính để đối chiếu) hoặc Giấy xác nhận thời gian làm chuyên gia tại Lào, Campuchia thì phải có bản sao được chứng thực từ bản chính hoặc bản sao (kèm theo bản chính để đối chiếu) lý lịch Đảng viên hoặc lý lịch cán bộ, công chức, viên chức khai trước ngày 01/01/1995, mà trong đó có khai thời gian được cử làm chuyên gia tại Lào và Campuchia.
Trường hợp cơ quan, tổ chức cử đi là đơn vị của cơ quan nhà nước, đã được chuyển đổi, tổ chức lại theo mô hình doanh nghiệp mà hồ sơ của đối tượng không có Quyết định cử đi và Quyết định về nước của cơ quan có thẩm quyền hoặc lý lịch Đảng viên hoặc lý lịch cán bộ, công chức, viên chức theo quy định tại khoản 2 Điều này thì phải có Giấy xác nhận thời gian làm chuyên gia tại Lào, Campuchia của thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước cấp trên của cơ quan, tổ chức cử đi theo mẫu tại Phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này.
Nếu cơ quan có thẩm quyền xác nhận theo quy định tại khoản này không quản lý tài liệu lưu trữ làm cơ sở để xác nhận thì yêu cầu cơ quan quản lý tài liệu lưu trữ theo quy định tại Điều 24 Luật Lưu trữ cung cấp tài liệu lưu trữ hoặc yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp tài liệu theo quy định của pháp luật.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 24/6/2022.
VĂN QUANG
Hướng dẫn làm hồ sơ hưởng trợ cấp thất nghiệp trực tuyến
8. Đề xuất quy trình xử lý tài sản, tài chính khi giải thể đơn vị sự nghiệp công lập
(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến rộng rãi đối với Dự thảo Thông tư Hướng dẫn một số nội dung về cơ chế tự chủ tài chính của đơn vị sự nghiệp công lập; xử lý tài sản, tài chính khi tổ chức lại, giải thể đơn vị sự nghiệp công lập. Đáng chú ý, Dự thảo Thông tư đưa ra quy định việc xử lý về tài sản và tài chính khi tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập dưới hình thức chia, tách, sáp nhập, hợp nhất.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo đó, đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện kiểm kê, phân loại tài sản công và báo cáo cơ quan quản lý cấp trên xem xét, quyết định phương án xử lý tài sản theo một hoặc các phương thức quy định từ Điều 48 đến Điều 53 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP ngày 26/12/2017 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật quản lý, sử dụng tài sản công; Việc quản lý, sử dụng số tiền thu được từ xử lý tài sản công tại đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện theo quy định tại Điều 55 Nghị định số 151/2017/NĐ-CP.
Về xử lý về tài chính, đơn vị sự nghiệp công lập (cũ) bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất có trách nhiệm: Lập báo cáo tài chính, báo cáo quyết toán theo quy định của chế độ kế toán đơn vị sự nghiệp công lập; Báo cáo cơ quan quản lý cấp trên để báo cáo cơ quan tài chính cùng cấp thực hiện quyết toán hoặc kiểm tra, xác định các khoản kinh phí được cấp; Có văn bản đề nghị cơ quan thuế thực hiện quyết toán hoặc kiểm tra, xác định các khoản phải nộp ngân sách nhà nước theo quy định; Kiểm kê số dư bằng bằng tiền của Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ khen thưởng, phúc lợi, Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ đặc thù, Quỹ khác và số dư nguồn cải cách tiền lương.
Cũng theo Dự thảo, đơn vị sự nghiệp công lập (cũ) bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất phải bàn giao đầy dủ, nguyên trạng tài sản, công nợ, quyền sử dụng đất, các hợp đồng kinh tế, các quyền, nghĩa vụ khác cho đơn vị sự nghiệp công lập (mới) kèm theo hồ sơ, chứng từ có liên quan. Đơn vị sự nghiệp công lập (mới) hình thành sau chia, tách, sáp nhập, hợp nhất có trách nhiệm tiếp nhận, kế thừa toàn bộ tài sản (kể cả tài sản hư hỏng, kém, mất phẩm chất, không cần dùng, chờ thanh lý), các khoản công nợ phải thu, phải trả và các nghĩa vụ khác của đơn vị bị chia, tách, sáp nhập, hợp nhất. Sau khi nhận bàn giao, đơn vị sự nghiệp công (mới) có trách nhiệm tiếp tục xử lý các tồn tại về tài chính theo các quy định hiện hành.
Đối với vấn đề xử lý tài về chính của đơn vị sự nghiệp công lập khi giải thể, theo Dự thảo, đơn vị sự nghiệp công lập thực hiện như quy trình xử lý tài chính khi tổ chức lại đơn vị sự nghiệp công lập. Riêng đối với số dư bằng bằng tiền của Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, Quỹ khen thưởng, phúc lợi, Quỹ bổ sung thu nhập, Quỹ đặc thù, Quỹ khác và số dư nguồn cải cách tiền lương, đơn vị thực hiện như sau:
Số dư bằng tiền của Quỹ khen thưởng, Quỹ phúc lợi được sử dụng để bù đắp các khoản đã chi vượt chế độ cho người lao động (nếu có), chi cho người lao động theo chế độ quy định đối với đơn vị sự nghiệp công lập, phần còn lại chia cho người lao động đang làm việc theo số tháng làm việc tại đơn vị sự nghiệp công lập chuyển đổi. Việc chi số dư bằng tiền của các Quỹ cho người lao động được hoàn thành trước thời điểm giải thể đơn vị sự nghiệp công lập;
Số dư bằng tiền của Quỹ bổ sung thu nhập/Quỹ dự phòng ổn định thu nhập được chia cho người lao động đang làm việc theo Quy chế chi tiêu nội bộ của đơn vị sự nghiệp công tối đa không quá 6 tháng lương thực hiện, phần còn lại (nếu có) được nộp vào ngân sách nhà nước; Số dư bằng tiền của Quỹ phát triển hoạt động sự nghiệp, số dư nguồn cải cách tiền lương được nộp vào ngân sách nhà nước; Số dư các Quỹ đặc thù và Quỹ khác theo quy định của pháp luật; Các khoản công nợ (nợ thuế, nợ phải trả khác…) thực hiện theo quy định tại khoản 1 Điều 47 và khoản 1 Điều 48 Luật Kế toán năm 2015 và các văn bản hướng dẫn có liên quan.
TIẾN HƯNG
Giao chỉ tiêu thực hiện bao phủ bảo hiểm y tế cho các tỉnh, thành phố
9. B có phạm tội ‘Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy’?
(LSVN) - B có hành vi sử dụng trái phép chất ma túy bị Công an bắt quả tang. Hành vi của B có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” hay không? Tình huống này hiện có những quan điểm giải quyết khác nhau.
![]()
B là một đối tượng nghiện ma túy lâu năm. Vào ngày 20/10/2021 đối tượng B, sinh năm 1995 đang sử dụng ma tuý tại nhà mình (nhà của B do B đứng tên và quản lý) thì có 04 bạn nghiện đến chơi, thấy B có ma tuý và các dụng cụ sử dụng ma tuý ở đó nên 04 đối tượng này cùng vào sử dụng chung với B. Vì là bạn bè nên B đồng ý cho tất cả cùng sử dụng ma tuý tại nhà mình. Đang trong quá trình sử dụng ma tuý thì các đối tượng này bị lực lượng Công an bắt quả tang, thu giữ các dụng cụ sử dụng ma tuý và các mảnh giấy bạc (theo giám định là có bám dính ma tuý MDMA - không xác định được khối lượng do còn quá ít).
Thực tiễn vụ án trên ta thấy Nguyễn Văn B mua ma tuý về chỉ để sử dụng và không có mục đích khác, lượng ma túy thu giữ không đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép chất ma tuý”, do đó trong trường hợp này chỉ xem xét đến việc hành vi nêu trên của B có phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” theo Điều 256 Bộ luật Hình sự (BLHS) năm 2015 hay không?
Về vụ việc này có một số quan điểm sau đây:
Quan điểm thứ nhất: Hành vi nêu trên của B không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì theo Điều 256 BLHS năm 2015 thì tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” quy định như sau:
“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Mặt khác, đối chiếu với Điều 256 BLHS năm 2015 ta thấy ngôi nhà là của B, do B đứng tên và quản lý. B biết 04 đối tượng là bạn nghiện của mình bị nghiện ma tuý nhưng B vẫn đồng ý (ý thức chủ quan) để họ trực tiếp sử dụng trái phép chất ma túy nhằm thỏa mãn nhu cầu của họ. Hành vi này của B đã đủ yếu tố cấu thành tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Tuy nhiên, theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 24/12/2007 của Bộ Công an, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XVIII “Các tội phạm về ma túy” của Bộ luật hình sự năm 1999 như sau: “b) Người nghiện ma túy cho người nghiện ma túy khác cùng sử dụng trái phép chất ma túy tại địa điểm thuộc quyền sở hữu. chiếm hữu hoặc quản lý của mình thì không phải chịu trách nhiệm hình sự về tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy....”. Tuy nhiên tại Điều 3 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT-BCA-VKSNDTC-TANDTC-BTP ngày 14 tháng 11 năm 2015 đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. “Thông tư liên tịch này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 30 tháng 12 năm 2015. Bãi bỏ các hướng dẫn tại điểm đ tiết 3.7 mục 3 Phần II; điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II, mục 8 Phần II của Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT”.
Đối chiếu theo quy định của điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của B không phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma tuý” vì B là người nghiện ma túy và cùng cho người khác sử dụng ma tuý tại nhà mình nên không phạm tội này. Tuy nhiên, theo Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT nhưng vẫn chưa có hướng dẫn nào thay thế hướng dẫn nên theo nguyên tắc có lợi thì hành vi của B không phạm tội “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Vì vậy, ở quan điểm này hành vi của B không phạm tội “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy”.
Quan điểm thứ hai đây cũng là quan điểm của các tác giả cho rằng: Hành vi nêu trên của B đã phạm tội “Chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Theo phân tích ở quan điểm thứ nhất ta thấy về chủ thể, khách thể, mặt khách quan, chủ quan của B thì đã đủ yếu tố cấu thành tội phạm “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo Điều 256 BLHS năm 2015.
Tuy theo hướng dẫn tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT thì hành vi của B không phạm “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” vì B nghiện ma tuý và cùng cho người khác sử dụng tại nhà mình. Qua thực tiễn xử lý các tội về ma tuý, đặc biệt là tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy thì quy định tại điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT là một bất cập, quy định như vậy rất khó có thể xử lý hình sự các đối tượng tổ chức, chứa chấp sử dụng trái phép chất ma túy vì hầu hết trong số này là người nghiện. Sau khi bị bắt lại được thả khiến các cá nhân vi phạm coi thường pháp luật, dễ tái phạm. Đây cũng là một trong những nguyên nhân gây gia tăng người nghiện ma túy tổng hợp và xuất hiện ngày càng nhiều các trường hợp “ngáo đá”.
Từ thực tiễn trên nên tại Điều 3 Thông tư liên tịch 08/2015/TTLT đã bãi bỏ điểm b tiết 7.3 mục 7 Phần II Thông tư liên tịch số 17/2007/TTLT. Do đó trong trường hợp của B ta chỉ cần đối chiếu với hành vi của B với Điều 256 BLHS năm 2015 quy định:
“1. Người nào cho thuê, cho mượn địa điểm hoặc có bất kỳ hành vi nào khác chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, nếu không thuộc trường hợp quy định tại Điều 255 của Bộ luật này, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm”.
Do vậy, hành vi của B đã thỏa mãn cấu thành tội phạm của tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy, không có văn bản nào hướng dẫn loại trừ trách nhiệm hình sự của B.
Từ những phân tích, lập luận nêu trên, quan điểm của chúng tôi cho rằng hành vi của B đã phạm vào “Tội chứa chấp việc sử dụng trái phép chất ma túy” theo điểm d khoản 2 Điều 256 BLHS 2015.
Xin được trao đổi và mong nhận được nhiều ý kiến tranh luận của đồng nghiệp và bạn đọc./.
NGUYỄN PHI HÙNG
Toà án Quân sự Quân khu 4
TP. HCM triển khai tổ chức tiêm vaccine Covid-19 mũi 4 cho người dân
10. Pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015: Bất cập và định hướng hoàn thiện
(LSVN) - Bộ luật Dân sự năm 2015 được ban hành là một bước tiến bộ lớn của pháp luật dân sự Việt Nam. Trong đó, quy định mới về pháp nhân nói chung góp phần làm cơ sở cho Nhà nước điều chỉnh hành vi của chủ thế này, đặc biệt liên quan đến việc truy cứu trách nhiệm hình sự. Tuy vậy, các quy định về pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015 đã tạo nên sự nhận thức không thống nhất, dẫn đến hiểu sai bản chất của pháp nhân, làm ảnh hưởng tới vấn đề thực thi trên thực tế. Do đó cần có những nghiên cứu nhằm đề xuất định hướng hoàn thiện, góp phần điều chỉnh hiệu quả hành vi của pháp nhân trên thực tế.
![]()
Ảnh minh họa.
1. Những vấn đề lý luận cơ bản về pháp nhân
Khái niệm về pháp nhân
Pháp nhân theo quy định của pháp luật Việt Nam là những tổ chức có tư cách pháp lý độc lập để tham gia các hoạt động pháp lý. Theo Điều 74 Bộ luật Dân sự 2015 quy định một tổ chức được công nhận là có tư cách pháp nhân khi đáp ứng đủ các điều kiện luật định quy định pháp nhân như sau:
“1. Một tổ chức được công nhận là pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây:
a) Được thành lập theo quy định của Bộ luật này, luật khác có liên quan;
b) Có cơ cấu tổ chức theo quy định tại Điều 83 của Bộ luật này;
c) Có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình”
d) Nhân danh mình tham gia quan hệ pháp luật một cách độc lập”.
Qua các văn bản pháp luật đã ban hành và tính chất chủ thể trong các quan hệ dân sự, kinh tế có thể đưa ra khái niệm pháp nhân như sau:
Pháp nhân là một tổ chức thống nhất, độc lập, hợp pháp có tài sản riêng và chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Các điều kiện của pháp nhân theo pháp luật dân sự
Các điều kiện của pháp nhân là các dấu hiệu để công nhận một tổ chức có tư cách là chủ thể của quan hệ dân sự. Các điều kiện của pháp nhân được xác định tại Điều 74 Bộ luật Dân sự (BLDS) năm 2015.
Thứ nhất, được thành lập một cách hợp pháp. Một tổ chức được coi là hợp pháp nếu có mục đích, nhiệm vụ hợp pháp và được thành lập hợp pháp theo trình tự và thủ tục do luật định. Tổ chức hợp pháp được Nhà nước công nhận dưới các dạng: cơ quan nhà nước có thẩm quyền thành lập, cho phép thành lập, đăng ký hoặc công nhận. Nhà nước bằng các quy định về thẩm quyền ra quyết định thành lập, trình tự, thủ tục thành lập, điều kiện thành lập các tổ chức chi phối đến các tổ chức tồn tại trong xã hội.
Thứ hai, có cơ cấu tổ chức chặt chẽ. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ nhằm biến một tập thể người thành một thể thống nhất (một chủ thể) có khả năng thực hiện có hiệu quả nhất nhiệm vụ của tổ chức đó đặt ra khi thành lập. Thống nhất về tổ chức được quy định trong quyết định thành lập, trong điều lệ mẫu, trong các văn bản pháp luật, trong điều lệ của từng loại tổ chức hay từng tổ chức đơn lẻ. Pháp nhân phải là một tổ chức độc lập. Một tổ chức độc lập hoàn toàn theo nghĩa rộng không tồn tại trên thực tế mà bất kì một tổ chức nào cũng bị chi phối theo dạng này hay dạng khác của cá nhân trong tổ chức đó, của các tổ chức khác và của Nhà nước.
Thứ ba, có tài sản độc lập với cá nhân, pháp nhân khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình. Để một tổ chức tham gia vào các quan hệ tài sản với tư cách là chủ thể độc lập thì tổ chức đó phải có tài sản riêng của mình - tài sản độc lập. Tài sản riêng của pháp nhân không chỉ là tài sản thuộc sở hữu của pháp nhân (như đối với các công ty, các hợp tác xã dù nguồn vốn hình thành có thể khác nhau...) mà có thể được Nhà nước giao cho tổ chức được quyền quản lý của pháp nhân đó. Tài sản của pháp nhân độc lập với tài sản của cá nhân - thành viên của pháp nhân, độc lập với cơ quan cấp trên của pháp nhân và các tổ chức khác.
Thứ tư, nhân danh mình tham gia vào các quan hệ pháp luật một cách độc lập, có thể là nguyên đơn, bị đơn trước Tòa án. Với tư cách là một chủ thể độc lập, pháp nhân tham gia vào các quan hệ pháp luật với tư cách riêng, có khả năng hưởng quyền và gánh chịu các nghĩa vụ dân sự do pháp luật quy định phù hợp với điều lệ của pháp nhân.
2. Những bất cập các quy định về pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015
Về khái niệm pháp nhân
Bộ luật Dân sự năm 2015 với tính chất là luật chung nhưng việc định nghĩa về pháp nhân thương mại của BLDS năm 2015 lại chứa đựng nhiều mâu thuẫn. Theo quy định tại khoản 1 Điều 75 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về pháp nhân thương mại như sau: “Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên”. Tương tự, “Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân không có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; nếu có lợi nhuận thì cũng không được phân chia cho các thành viên” theo khoản 1 Điều 76 Bộ luật Dân sự 2015. Pháp nhân thương mại được hiểu là “... pháp nhân có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và lợi nhuận được chia cho các thành viên. Pháp nhân thương mại bao gồm doanh nghiệp và các tổ chức kinh tế khác. Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật Doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”.
Xét quy định này cho thấy, theo cách quy định trên đây của BLDS năm 2015, có thể hiểu pháp nhân thương mại là tổ chức có mục tiêu chính là tìm lợi nhuận và tổ chức này phải có từ hai thành viên trở lên, vì lợi nhuận tìm thấy được chia cho các thành viên. Với quy định này, đã phủ nhận công ty TNHH một thành viên không phải là pháp nhân thương mại. Bởi lẽ, theo quy định của Luật doanh nghiệp năm 2020, “công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên là doanh nghiệp do một tổ chức hoặc một cá nhân làm chủ sở hữu (sau đây gọi là chủ sở hữu công ty)” theo khoản 1 Điều 74 Luật Doanh nghiệp 2020. Chủ sở hữu công ty chịu trách nhiệm về các khoản nợ và nghĩa vụ tài sản khác của công ty trong phạm vi số vốn điều lệ của công ty. Quy định này chưa thực sự chính xác, dẫn đến bỏ sót một pháp nhân thương mại phổ biến trên thực tế, bất cập này xuất phát từ những lý do sau:
Một là, công ty TNHH một thành viên là một pháp nhân. Trước hết, để trở thành một pháp nhân thương mại thì tổ chức đó phải là một pháp nhân và công ty TNHH là một pháp nhân, bởi lẽ nó thỏa mãn các điều theo quy định khi nó là một tổ chức kinh tế, được thành lập theo quy định của pháp luật, có cơ cấu tổ chức và điều quan trọng là có sự tách bạch giữa tài sản của công ty với tài sản của chủ sở hữu. Hai là, công ty TNHH một thành viên có mục tiêu là tìm kiếm lợi nhuận, thỏa mãn điều kiện trở thành một pháp nhân thương mại. Nghiên cứu so sánh cho thấy, để nhận biết một pháp nhân thương mại thì cần biết mục tiêu chính của pháp nhân đó có tìm kiếm lợi nhuận không và điều này được nhiều nước theo các truyền thống pháp luật khác nhau trên thế giới áp dụng. Thực tế, ở Việt Nam, BLDS năm 2015 cũng đã dựa vào mục tiêu chính là vì lợi nhuận hay không vì lợi nhuận (thương mại hay phi thương mại) để xác định pháp nhân thương mại. Do đó, xét về khía cạnh cơ cấu tổ chức, sự độc lập về tài sản, về mục tiêu hoạt động và thực tiễn tồn tại, cho phép khẳng định công ty TNHH một thành viên là một pháp nhân thương mại.
Về phân loại pháp nhân
Thay đổi về phân loại pháp nhân cho thấy sự tiến bộ hơn của BLDS 2015 so với BLDS hiện hành thể hiện ở việc không còn liệt kê các dạng pháp nhân, phù hợp với pháp luật về pháp nhân của một số quốc gia trên thế giới.
Tuy nhiên, phân loại pháp nhân của BLDS 2015 theo tiêu chí “mục đích chính là tìm kiếm lợi nhuận” của pháp nhân thương mại và “không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận, không phân chia lợi nhuận cho các thành viên” của pháp nhân phi thương mại là chưa phù hợp:
Một là, quy định “không phân chia lợi nhuận cho các thành viên” sẽ trở thành rào cản lớn cho các pháp nhân phi thương mại khi hoạt động phát sinh có lợi, khiến cho mục tiêu xã hội hóa các hoạt động công ích ngày càng trở nên khó khăn trong xu hướng phát triển các hoạt động công ích theo hướng diện chi ngân sách nhà nước đang dần được thu hẹp, hệ thống doanh nghiệp hoạt động công ích với nguồn vốn xã hội hóa ngày càng tăng.
Hai là, Điều 76 BLDS 2015 quy định: “Pháp nhân phi thương mại là pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và không phân chia lợi nhuận cho các thành viên”. Điều 76 không bao quát được những pháp nhân hoạt động để tìm kiếm lợi nhuận nhưng sử dụng lợi nhuận đó vì những mục tiêu, lợi ích chung hay lợi ích công, quy định này đồng nhất việc tìm kiếm lợi nhuận với mục tiêu hoạt động của pháp nhân trong khi việc tìm kiếm lợi nhuận và việc sử dụng lợi nhuận tìm kiếm được là hai vấn đề hoàn toàn khác.
Hiện nay ở Việt Nam còn có rất nhiều quỹ có tư cách pháp nhân hoạt động không vì mục đích lợi nhuận và để phục vụ các lợi ích công cộng như “quỹ tài chính công ngoài ngân sách nhà nước”. Ví dụ: Quỹ Bảo trì đường bộ, Quỹ Trợ giúp pháp lý Việt Nam, Quỹ Dịch vụ viễn thông công ích Việt Nam, Quỹ Phát triển khoa học và công nghệ quốc gia, Quỹ Đổi mới công nghệ quốc gia, Quỹ Bảo vệ môi trường Việt Nam, Quỹ Phòng chống thiên tai, Quỹ Phòng chống tội phạm,… Các quỹ này hoạt động phải bảo toàn vốn điều lệ và tự bù đắp chi phí quản lý, vì vậy nhiều quỹ được cho phép sử dụng nguồn vốn để đầu tư sinh lợi nhằm đáp ứng những yêu cầu đó. Như vậy, với quy định Điều 76 BLDS 2015, các quỹ tài chính công ngoài ngân sách nhà nước có được coi là các pháp nhân phi thương mại hay không vẫn còn chưa rõ ràng. Mặc dù khoản 2 Điều 76 BLDS 2015 có liệt kê một số pháp nhân phi thương mại bao gồm cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị xã hội - nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, quỹ xã hội, quỹ từ thiện, doanh nghiệp xã hội và các tổ chức phi thương mại khác. Việc đưa ra khái niệm không rõ ràng sẽ rất khó khăn trong việc xác định các pháp nhân phi thương mại khác ngoài quy định liệt kê của khoản 2 Điều 76 Bộ luật dân sự 2015
Việc phân chia pháp nhân nên theo tiêu chí phân mục đích hoạt động chính sẽ hợp lý hơn. Theo đó “Pháp nhân phi thương mại hoạt động với mục đích chính là hoạt động công ích, tự chịu trách nhiệm bằng tài sản của mình hoặc do mình quản lý”, “Pháp nhân thương mại là pháp nhân có mục đích lợi nhuận”, pháp nhân vừa có mục đích hoạt động công ích, vừa có mục đích lợi nhuận thì phần kinh doanh có lợi nhuận sẽ được áp dụng các quy định như pháp nhân thương mại để tránh trường hợp một số doanh nghiệp công ích lợi dụng các ưu đãi của Nhà nước để thực hiện các hoạt động kinh doanh có lợi nhuận nhưng lại được hưởng các quy chế tài chính, thuế như loại hình kinh doanh phi lợi nhuận.
Về đại diện pháp nhân
BLDS 2015 quy định đại diện pháp nhân có thể là cá nhân, pháp nhân. So với Bộ luật dân sự hiện hành, BLDS 2015 đã mở rộng phạm vi người đại diện cho pháp nhân không còn đơn thuần chỉ là cá nhân, mà còn bao gồm cả pháp nhân, đây là một điểm mới đáng ghi nhận. Theo Điều 85 BLDS 2015 “Đại diện của pháp nhân có thể là đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền. Người đại diện của pháp nhân phải tuân theo quy định về đại diện tại Chương IX Phần này”.
Ngoài ra, theo khoản 2 Điều 137 BLDS 2015: “Một pháp nhân có thể có nhiều người đại diện theo pháp luật và mỗi người đại diện có quyền đại diện cho pháp nhân theo quy định tại Điều 140 và Điều 141 của Bộ luật này”, quy định này phù hợp Luật Doanh nghiệp 2020 (Điều 12) quy định đại diện các mô hình công ty có thể nhiều hơn một người.
Về phạm vi và giới hạn quyền đại diện
Khoản 2 điều 141 BLDS 2015 quy định: “Trường hợp không xác định được cụ thể phạm vi đại diện theo quy định tại khoản 1 Điều này thì người đại diện theo pháp luật có quyền xác lập, thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Quy định này nên được bổ sung thêm từ “hợp pháp” để phù hợp và đồng bộ với các quy định có liên quan, cụ thể là “thực hiện mọi giao dịch dân sự vì lợi ích hợp pháp của người được đại diện, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”.
Tiếp đó, Khoản 3 Điều 141 BLDS 2015 nên được điều chỉnh lại để bao quát các trường hợp đại diện và không trùng lặp từ. Cụ thể là: “Cá nhân, pháp nhân có thể đại diện cho nhiều cá nhân, pháp nhân khác nhau nhưng không được nhân danh bên được đại diện để xác lập, thực hiện giao dịch dân sự với chính mình hoặc với bên thứ ba mà mình cũng là đại diện của bên đó”.
Về vấn đề không có quyền đại diện và hậu quả pháp lý của giao dịch dân sự do bên không có quyền đại diện xác lập, thực hiện
Điều 142 BLDS 2015 quy định về hậu quả của giao dịch dân sự do người không có quyền đại diện xác lập, thực hiện. Về điểm b khoản 1 Điều 142 BLDS 2015, “Người được đại diện biết mà không phản đối trong một thời hạn hợp lý” quy định trong thời gian hợp lý là khoảng thời gian không xác định rõ sẽ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau khi áp dụng.
Về thành lập, vận hành và tổ chức lại pháp nhân
Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của BLDS năm 2015 với tư cách là đạo luật chung và Luật Doanh nghiệp với tư cách là luật điều chỉnh các quan hệ đặc thù và thực hiện theo các quy định khác của pháp luật có liên quan. Quy định này cho phép chúng ta hiểu, để điều chỉnh hành vi của pháp nhân thương mại thì những quan hệ đặc thù như thành lập, tổ chức hoạt động, hành vi tìm kiếm lợi..., sẽ thuộc sự điều chỉnh của luật chuyên ngành, những vấn đề không được quy định hoặc không thuộc đối tượng điều chỉnh thì áp dụng BLDS năm 2015 để xác định. Cách quy định này hoàn toàn phù hợp với xu hướng phổ biến của các nước trên thế giới. Để diễn đạt nội hàm của quy định tại khoản 3 Điều 75 thì các nhà lập pháp đã quy định: “Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này, Luật doanh nghiệp và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Ngược lại, chúng ta chỉ cần quy định: “Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”, như vậy người đọc sẽ hiểu là những vấn đề đặc thù liên quan đến thành lập, hoạt động chấm dứt của pháp nhân thương mại sẽ được điều chỉnh bởi các văn bản chuyên ngành và đương nhiên trong đó có Luật doanh nghiệp, ngược lại những vấn đề không được các văn bản này điều chỉnh thì áp dụng BLDS năm 2015.
Về tổ chức lại pháp nhân, các điều luật từ Điều 88 đến Điều 91 của BLDS 2015 chỉ giải quyết mối quan hệ giữa pháp nhân cũ và pháp nhân mới khi hợp nhất, sáp nhập, chia tách và chuyển đổi mà chưa đề cập đến giải quyết mối quan hệ giữa pháp nhân cũ và pháp nhân mới đối với quyền và lợi ích đã được xác định trước thời điểm trên giữa các pháp nhân này đối với bên thứ ba. Mặt khác, các quy định liên quan đến tổ chức lại pháp nhân của BLDS 2015 cũng chưa đưa ra khái niệm về tổ chức lại cũng như khái niệm về khi hợp nhất, sáp nhập, chia tách và chuyển đổi pháp nhân. Điều này là hết sức quan trọng vì sẽ đảm bảo tính ổn định và mang tính chất điều chỉnh chung của pháp luật dân sự.
3. Định hướng hoàn thiện các quy định về pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015
Thứ nhất, đáp ứng được việc phân loại pháp nhân dựa vào mục tiêu tìm kiếm hay không tìm kiếm lợi nhuận theo tinh thần của Bộ luật Dân sự năm 2015. Như vậy, theo giải pháp đề xuất thì để xác định pháp nhân thương mại, chúng ta chỉ cần xác định hai tiêu chí: (i) Chuyên tiến hành các hành vi thương mại (hành vi có tính chất thương mại - lợi nhuận, bao gồm hợp đồng và hành vi pháp lý đơn phương); (ii) Và có mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận.
Thứ hai, giúp loại bỏ cách quy định mang tính liệt kê không cần thiết tại khoản 2 Điều 75 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bởi lẽ, với đề xuất này, cho phép chúng ta khi xác định pháp nhân thương mại chỉ cần căn cứ vào khoản 1 Điều 75 để làm rõ hai tiêu chí là: (i) Chuyên tiến hành các hành vi thương mại, và (ii) Mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận. Với cách quy định như vậy, một pháp nhân nào đó hội tụ hai tiêu chí nêu trên, cho phép kết luận đó là pháp nhân thương mại, thay vì quy định liệt kê không cần thiết như hiện nay.
Thứ ba, đề xuất sửa đổi theo hướng chỉ cần khoản 2 Điều 75 quy định: “Việc thành lập, hoạt động và chấm dứt pháp nhân thương mại được thực hiện theo quy định của Bộ luật này và quy định khác của pháp luật có liên quan”. Đề xuất này đã loại bỏ cụm từ “Luật Doanh nghiệp”, cách quy định này giúp chủ thể thực thi hoàn toàn hiểu được ý đồ của nhà làm luật, cũng như vai trò của Bộ luật Dân sự năm 2015 và các văn bản pháp luật khác có liên quan khi điều chỉnh hành vi của pháp nhân thương mại. Hơn nữa, làm cho câu từ trở nên súc tích, dễ hiểu, phù hợp với nguyên tắc của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 2015.
Thứ tư, mở rộng được nội dung điều chỉnh của quy phạm đối với loại hình công ty TNHH một thành viên, khắc phục được những thiếu sót tại khoản 1 Điều 75 của Bộ luật Dân sự năm 2015. Bởi lẽ, thì để xác định pháp nhân thương mại, chỉ cần dựa vào hai tiêu chí: (i) Chuyên tiến hành các hành vi thương mại để tìm kiếm lợi nhuận, và (ii) Lấy hoạt động tìm kiếm lợi nhuận làm chính. Dựa vào hai tiêu chí này cho phép chúng ta khẳng định, loại hình công ty TNHH một thành viên là pháp nhân thương mại. Ngược lại, doanh nghiệp xã hội là pháp nhân phi thương mại vì không chuyên tiến hành các hành vi thương mại để làm nghề nghiệp chính của mình mà mục tiêu chính là thực hiện các hoạt động nhằm giải quyết những vấn đề về môi trường, xã hội vì mục đích cộng đồng. Hơn nữa, pháp nhân thương mại phải “là pháp nhân đảm bảo điều kiện theo quy định tại Điều 74 của Bộ luật Dân sự”, do đó doanh nghiệp tư nhân không phải là pháp nhân vì không đáp ứng được các điều kiện của một pháp nhân. Giải pháp này giúp hiểu thống nhất quy định giữa Điều 74 và Điều 75 của Bộ luật Dân sự năm 2015, đồng thời không làm thay đổi bản chất của pháp nhân, nhưng lại cho phép Nhà nước có những điều chỉnh phù hợp đối với hành vi của chủ thể vì mục đích lợi nhuận trong đó có loại hình công ty TNHH một thành viên theo tinh thần của Bộ luật hình sự năm 2015.
Tài liệu tham khảo: 1. Bộ luật Dân sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017; 2. Luật Doanh nghiệp 2020; 3. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam tập II, NXB Công an Nhân dân, 2015. 4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Lý luận chung về Nhà nước và pháp luật, NXB Tư pháp, 2016. |
NGUYỄN PHI HÙNG
Toà án Quân sự Quân khu 4
Thực trạng tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn
11. Điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư
(LSVN) -
Theo quy định tại khoản 6 Điều 3 Luật Nhà ở 2014, nhà ở để phục vụ tái định cư là nhà ở để bố trí cho các hộ gia đình, cá nhân thuộc diện được tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất ở, bị giải tỏa nhà ở theo quy định của pháp luật.
Căn cứ theo khoản 2 Điều 30 Nghị định 99/2015/NĐ-CP, có 03 đối tượng thuộc diện được thuê, thuê mua, mua nhà ở để phục vụ tái định cư bao gồm:
- Hộ gia đình, cá nhân có nhà ở hợp pháp thuộc diện bị giải tỏa khi Nhà nước thu hồi đất để thực hiện dự án vì mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng theo quy hoạch đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt;
- Hộ gia đình, cá nhân bị Nhà nước thu hồi đất ở gắn với nhà ở và phải di chuyển chỗ ở nhưng không đủ điều kiện được bồi thường về đất ở theo quy định của pháp luật về đất đai và không có chỗ ở nào khác;
- Hộ gia đình, cá nhân là chủ sở hữu nhà chung cư thuộc diện phải phá dỡ để cải tạo, xây dựng lại theo quy định tại Điều 110 của Luật Nhà ở 2014.
Về điều kiện mua nhà ở để phục vụ tái định cư quy định tại khoản 2 Điều 30 Nghị định 99/2015/NĐ-CP như sau:
- Trường hợp đối tượng thuộc (1) và (2) mục 2,có nhu cầu mua nhà ở thương mại hoặc thuê, thuê mua, mua nhà ở phục vụ tái định cư do Nhà nước đầu tư thì phải có tên trong danh sách được bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt và có đơn đề nghị bố trí nhà ở tái định cư theo mẫu do Bộ Xây dựng ban hành;
- Trường hợp đối tượng quy định thuộc (1), (2) có nhu cầu thuê, thuê mua, mua nhà ở xã hội thì phải có tên trong danh sách được bố trí tái định cư theo phương án bồi thường, hỗ trợ, tái định cư đã được cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, có đơn đề nghị bố trí nhà ở tái định cư bằng nhà ở xã hội theo mẫu do Bộ Xây dựng ban hành và phải thuộc diện chưa được Nhà nước bồi thường bằng nhà ở, đất ở;
- Trường hợp thuộc đối tượng (3) thì được bố trí nhà ở tái định cư theo quy định tại Điều 115, Điều 116 của Luật Nhà ở 2014 và pháp luật về cải tạo, xây dựng lại nhà chung cư.
Như vậy để mua nhà ở phục vụ tái định cư thì hộ gia đình, cá nhân phải thuộc điều kiện nêu trên.
TIẾN HƯNG
Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa
12. Cần xử lý nghiêm hành vi ly hôn giả để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ dân sự
(LSVN) – Đối với những vụ ly hôn giả mạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi hoàn tài sản cho nhà nước, nhằm tẩu tán tài sản do phạm tội mà có thì cơ quan chức năng cần làm rõ và có thể hủy bỏ quyết định, bản án ly hôn trái pháp luật, thu hồi tài sản do phạm tội mà có để xử lý theo quy định của pháp luật.
![]()
Ảnh minh họa.
Ly hôn là một trong những quyền cơ bản của công dân, thể hiện quyền tự do trong hôn nhân. Khi ly hôn thường sẽ giải quyết các vấn đề như: việc nuôi con sau khi ly hôn, chia tài sản chung vợ chồng, nghĩa vụ trả nợ chung,... Tuy nhiên, hiện nay có rất nhiều những cuộc ly hôn "đầy toan tính" như hành vi ly hôn để kết thúc một thủ tục kết hôn giả trước đó (kết hôn để nhập quốc tịch) hoặc ly hôn giả để trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự khi trong cuộc hôn nhân đó có người lâm vào tình trạng vỡ nợ, phá sản hoặc sắp bị xử lý hình sự.
Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam về một số vấn đề pháp lý liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, Luật Hôn nhân và gia đình hiện hành quy định: Ly hôn là việc chấm dứt quan hệ vợ chồng theo bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật của Tòa án.
Luật Hôn nhân và gia đình cũng quy định hành vi ly hôn giả tạo. Theo đó, ly hôn giả tạo là việc lợi dụng ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách, pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân. Điều 5 Luật Hôn nhân gia đình 2014 cũng quy định rõ cấm hành vi kết hôn giả tạo, ly hôn giả tạo.
Như vậy, hành vi ly hôn để trốn tránh nghĩa vụ tài sản, vi phạm chính sách pháp luật về dân số hoặc để đạt được mục đích mà không nhằm mục đích chấm dứt hôn nhân là những hành vi bị cấm theo Luật Hôn nhân và gia đình. Kết quả ly hôn giả tạo này sẽ bị Tòa án xem xét hủy bỏ, phục hồi lại các quyền lợi của các bên, người trốn tránh nghĩa vụ sẽ không còn lý do để trốn tránh theo bản án, quyết định ly hôn.
Thời gian gần đây cơ quan chức năng liên tục phát hiện xử lý nhiều cán bộ vi phạm pháp luật về tham nhũng và chức vụ, nhiều người đã bị khởi tố, bị kết án và phải bồi hoàn cho nhà nước số tiền rất lớn. Tuy nhiên, điều mà dư luận không khỏi băn khoăn là trước khi bị khởi tố, không ít cán bộ đã ly hôn, chuyển hết tài sản cho vợ, cho chồng của mình và "tay trắng" vào tù khiến cơ quan chức năng sẽ gặp những khó khăn trong việc thi hành án đối với phần dân sự trong vụ án hình sự.
Thông thường đối với những người có chức vụ quyền hạn bị xử lý hình sự về các tội “Lợi dụng chức vụ quyền hạn trong khi thi hành công vụ”; tội “Vi phạm quy định về quản lý sử dụng tài sản nhà nước gây thất thoát lãng phí”; tội “Vi phạm quy định về quản lý đất đai”; tội “Vi phạm quy định về đấu thầu gây hậu quả nghiêm trọng”; tội “Thiếu trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng”,... và các tội danh khác thuộc nhóm tội về tham nhũng, chức vụ thì người phạm tội ngoài việc phải chịu chế tài hình sự còn phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả, bị tịch thu tài sản, thu giữ tài sản do phạm tội mà có... Bởi vậy, nhiều bị can trước khi bị khởi tố thường tìm cách tẩu tán tài sản, che giấu tài sản do phạm tội mà có bằng nhiều cách khác nhau.
Những người thực hiện hành vi tham ô tài sản, hưởng lợi từ các hành vi vi phạm pháp luật khi thi hành công vụ thường tìm cách giấu giếm tài sản, nhờ người khác đứng tên tài sản để che giấu hành vi phạm tội và tránh việc phát hiện xử lý của cơ quan chức năng. Đối với những tài sản họ trực tiếp đứng tên thì khi bị thanh tra kiểm tra, bị xác minh mà có nguy cơ bị xử lý hình sự, nguy cơ bị phát hiện, thu giữ thì họ cũng tìm cách sang tên, tẩu tán bằng nhiều cách khác nhau, trong đó có cách ly hôn để chia tài sản.
Luật Hôn nhân và gia đình quy định vợ chồng có thể tự nguyện thỏa thuận về việc chia tài sản chung khi ly hôn, nếu không thỏa thuận được thì có thể nhờ Tòa án giải quyết. Trong trường hợp hai bên thỏa thuận được về việc phân chia tài sản khi ly hôn cũng có thể yêu cầu Tòa án công nhận sự tự nguyện thỏa thuận đó. Lợi dụng quy định này mà nhiều người vi phạm pháp luật, chưa bị xử lý đã tìm cách ly hôn giả để sang tên toàn bộ tài sản cho vợ hoặc cho chồng của mình nhằm trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm với nhà nước. Thủ tục ly hôn như vậy là trái pháp luật, nếu phát hiện thì Tòa án sẽ không công nhận thuận tình ly hôn, sẽ không cho ly hôn và không đồng ý giải quyết chia tài sản khi ly hôn. Tuy nhiên, nếu người giải quyết ly hôn thiếu thận trọng hoặc không khách quan thì có thể tiếp tay cho hành vi trốn tránh nghĩa vụ dân sự, sẽ xuất hiện trường hợp ly hôn giả.
Rất nhiều trường hợp người phạm tội tham nhũng và chức vụ khi bị kết án thì họ không còn đứng tên tài sản nào cả bởi trước đó đã có các giao dịch bán, chuyển nhượng, chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn khiến họ trở thành "vô sản" khi là bị can, bị cáo. Nếu cơ quan chức năng tin vào các giao dịch đó mà không xác minh, không làm rõ để xử lý thì bản án về phần dân sự sẽ không có khả năng thi hành, nhà nước sẽ không thu hồi được tài sản do phạm tội mà có, không thể thực hiện được phần dân sự trong vụ án hình sự khi bản án có tiền về bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả hoặc phạt tiền.
Tuy nhiên, pháp luật cũng có quy định là các giao dịch dân sự về chuyển quyền sở hữu tài sản mà trái pháp luật, đạo đức xã hội, nhằm trốn tránh nghĩa vụ, trách nhiệm dân sự thì giao dịch đó sẽ vô hiệu. Vì vậy, trong trường hợp các giao dịch về dân sự để chuyển quyền sở hữu tài sản của bị can, bị cáo được thực hiện trước khi khởi tố có dấu hiệu tẩu tán tài sản thì cơ quan chức năng cũng có quyền đề nghị Tòa án xem xét tuyên bố hủy bỏ các giao dịch dân sự đó để trả lại tài sản cho bị can, bị cáo nhằm đảm bảo cho việc thực hiện trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự.
Đối với những vụ ly hôn giả mạo nhằm trốn tránh nghĩa vụ trả nợ, nghĩa vụ bồi hoàn tài sản cho nhà nước, nhằm tẩu tán tài sản do phạm tội mà có thì cơ quan chức năng cần làm rõ và có thể hủy bỏ quyết định, bản án ly hôn trái pháp luật, thu hồi tài sản do phạm tội mà có để xử lý theo quy định của pháp luật. Trong trường hợp phát hiện ra người vợ, người chồng của bị can giúp sức cho bị can trong việc tẩu tán tài sản do phạm tội mà có hoặc sử dụng tài sản vào mục đích khác để hợp thức hóa nguồn gốc tài sản thì người này còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội “Che giấu tội phạm” và tội “Rửa tiền” theo quy định của Bộ luật Hình sự.
Trường hợp quá trình điều tra vụ án hình sự mà bị can có nghĩa vụ trả tiền cho tổ chức, cá nhân phải bồi thường thiệt hại do hành vi trái pháp luật gây ra nhưng trước đó đã thực hiện các hành vi tẩu tán tài sản bằng các hợp đồng, giao dịch hoặc ly hôn giả thì cơ quan chức năng cũng có thể kiến nghị với Tòa án xem xét hủy bỏ các giao dịch, thủ tục đó theo quy định của pháp luật.
Vấn đề thu hồi tài sản do phạm tội mà có vẫn là vấn đề nan giải của nhiều năm nay. Theo thống kê từ các bản án trong các vụ án thuộc nhóm tội phạm về tham nhũng và chức vụ thì tỷ lệ thu hồi tài sản do phạm tội mà có rất thấp trong đó có nhiều nguyên nhân khác nhau, trong đó có nguyên nhân là người phạm tội không còn tài sản. Vì vậy đối với những vụ án gây thiệt hại đến tài sản của nhà nước hoặc chiếm đoạt tài sản, tham ô tài sản thì cơ quan chức năng cần làm rõ những tài sản mà bị can bị cáo đứng tên trước đó, làm rõ các giao dịch chuyển nhượng, tặng cho, phân chia tài sản chung vợ chồng và các giao dịch khác để chuyển dịch quyền sở hữu tài sản có vi phạm điều cấm của pháp luật không, có dấu hiệu tẩu tán tài sản hay không để hủy bỏ các giao dịch này, thu hồi tài sản cho nhà nước.
Ngoài ra với những người thân thích của bị can, bị cáo mà lại đứng tên các tài sản lớn nhưng không chứng minh được thu nhập nguồn gốc thì cũng có thể xác minh làm rõ để xử lý theo quy định của pháp luật, trong đó có thể tịch thu phải xử lý về hành vi rửa tiền, che giấu tội phạm nếu hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành của các tội danh này.
DUY ANH
Giám đốc Bệnh viện Quân y 110 đối diện mức án nào?
13. Công an TP. Hà Nội cảnh báo thủ đoạn mạo danh nhân viên y tế gọi điện lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(LSVN) - Công an TP. Hà Nội khuyến cáo người dân cần cảnh giác, tuyên truyền đến người thân, bạn bè về thủ đoạn lợi dụng dịch bệnh mạo danh nhân viên y tế, cơ quan Công an để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Người dân tuyệt đối không cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng, mã OTP và chuyển tiền cho các đối tượng.
![]()
Ảnh minh họa.
Thời gian qua, địa bàn TP. Hà Nội xảy ra nhiều vụ việc các đối tượng tội phạm mạo danh người của các cơ quan thực thi pháp luật như Công an, Viện Kiểm sát... và nhân viên y tế gọi điện lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người dân.
Trước thực trạng đó, cơ quan Công an đã có cảnh báo về thủ đoạn này, nhưng nhiều người vẫn “sập bẫy”, bị các đối tượng lừa đảo chiếm đoạt hàng trăm, thậm chí cả tỉ đồng. Hầu hết những bị hại là người nhẹ dạ, cả tin và ít cập nhật thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng.
Điển hình như, ngày 20/5, Công an TP. Hà Nội cho biết, Công an quận Hà Đông đang phối hợp với các cơ quan chức năng liên quan xác minh, điều tra vụ lừa đảo chiếm đoạt tài sản với số tiền hơn 250 triệu đồng với thủ đoạn giả danh cán bộ y tế gọi điện thông báo kết quả xét nghiệm Covid-19.
Cụ thể, ngày 12/5, chị N. (sinh năm 1990, trú tại quận Hà Đông, TP. Hà Nội) nhận được điện thoại từ một đối tượng tự xưng là cán bộ y tế thông báo chị N. có đi xét nghiệm Covid-19 nhưng không lấy kết quả. Đối tượng nói chị N. bị lộ thông tin cá nhân và cần liên hệ Công an TP. Hà Nội để được giải quyết. Sau đó, đối tượng chuyển cuộc gọi cho một đối tượng khác tự xưng là cán bộ Công an và thông báo chị N. có liên quan đến đường dây rửa tiền, buôn bán ma túy và đã có lệnh bắt giữ. Các đối tượng yêu cầu chị cung cấp tài khoản ngân hàng và mật khẩu để xác minh. Chị N. đã làm theo hướng dẫn của đối tượng và sau đó phát hiện tài khoản ngân hàng của mình bị mất hơn 250 triệu đồng. Lúc này, chị N. mới biết mình bị lừa và đến cơ quan Công an trình báo.
Trước chiêu trò lừa đảo của các đối tượng, Công an TP. Hà Nội khuyến cáo người dân cần cảnh giác, tuyên truyền đến người thân, bạn bè về thủ đoạn lợi dụng dịch bệnh mạo danh nhân viên y tế, cơ quan Công an để lừa đảo, chiếm đoạt tài sản. Người dân tuyệt đối không cung cấp thông tin tài khoản ngân hàng, mã OTP và chuyển tiền cho các đối tượng. Khi phát hiện các trường hợp có dấu hiệu lừa đảo như trên, người dân cần báo ngay cho cơ quan Công an nơi gần nhất, hoặc gọi điện đến Tổng đài 113, hotline 069.219.4053 để được giải quyết.
DUY ANH
Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không có lãi
14. VKSND Tối cao thông báo rút kinh nghiệm giải quyết các vụ án dân sự
(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm đối với vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là cụ ông Trần Tấn L. và cụ bà Trần Thị T. với bị đơn là bà Trần Thị H. xảy ra tại huyện ĐD, tỉnh CM. VKSND Tối cao (Vụ 9) thấy cần thông báo rút kinh nghiệm về những thiếu sót, vi phạm trong quá trình giải quyết vụ án.
![]()
Ảnh minh họa.
Nội dung vụ án
Nguyên đơn (cụ L., cụ T.) có văn bản ủy quyền cho bà Trần Thị Bích P. là con gái tham gia tố tụng tại Tòa án khởi kiện, cho rằng: Nguồn gốc diện tích đất tranh chấp đo đạc thực tế là 9.894,6m2 nằm trong tổng diện tích 18.160m2 đất tọa lạc tại ấp ND, xã QPB, huyện ĐD, tỉnh CM là của nguyên đơn do Nhà nước cấp cho hai cụ vào năm 1961, hai cụ sản xuất đến năm 1984, 1985 thì giao cho con gái là bà Trần Thị H. và chồng là ông Cao Văn Đ., đồng thời nói cho luôn bà H. ½ diện tích (9.120m2) 1/ 2 diện tích đất còn lại 9.120m2 (đo thực tế là 9.894,6m2) chỉ giao cho vợ chồng bà H. quản lý, sản xuất, sau khi thu hoạch trừ chi phí sản xuất số còn lại để nuôi các em bà H. ăn học.
Năm 1994, vợ chồng ông Đ., bà H. tự kê khai và được cấp quyền sử dụng đất với diện tích 20.760m2 đứng tên ông Đ., trong đó có 2 phần: Thửa số 0115, diện tích 2.600m2 là phần đất riêng của ông Đ. bà H. và 02 thửa số 0159 và số 0327 có tổng diện tích 18.160m2 là phần đất có nguồn gốc của cụ L., cụ T. được cấp nêu trên.
Năm 2000, cụ L., cụ T. về sống chung cùng bà H., năm 2001 hai cụ sử dụng 2 diện tích đất 9.120m2 (đo thực tế là 9.894,6m2) và đã cất nhà ở riêng cùng con gái là Trần Thị Bích P., còn bà H. sử dụng 1/2 trong tổng diện tích đất trên.
Năm 2009, hai cụ họp gia đình phân chia đất làm hai phần, mỗi phần 24m x 380m cho bà H. và bà P., bà H. có ký tên xác nhận.
Nay nguyên đơn khởi kiện, yêu cầu bị đơn trả lại diện tích đất hiện nguyên đơn đang ở có diện tích 9.120m2 (đo thực tế là 9.894,6m2) và cho bị đơn 1/2 diện tích còn lại như đã thỏa thuận. Yêu cầu hủy giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Đ.
Phía bị đơn bà Trần Thị H. không thừa nhận nội dung trình bày của nguyên đơn và cho rằng, năm 1976, vợ chồng bà đến làm ăn trên đất này, năm 1980 đất đưa vào Tập đoàn sản xuất, sau đó Tập đoàn giải thể, vợ chồng bà được giao diện tích 20.760m2 và được cấp quyền sử dụng đất vào năm 1994, bà không nhất trí yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Hiện nay, diện tích đất tranh chấp đo đạc thực tế là 9.894,6m2 trong tổng số diện tích 20.760m2 do ông Cao Văn Đ. (đã chết năm 1994) là chồng của bà Trần Thị H. (bị đơn) đứng tên trên giấy chứng nhận quyền sử dụng đất. Hiện cụ L., cụ T. (nguyên đơn) và con gái là bà Trần Thị Bích P. (người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan) đã cất nhà ở và trực tiếp quản lý, sử dụng.
Tài liệu có trong hồ sơ vụ án thể hiện:
- Tại Công văn số 447/UBND-VP ngày 22/2/2017 của UBND huyện ĐD xác định: Phần đất còn lại thửa đất số 159 và 327, diện tích đất 18.160m2 là phần đất của cụ L., cụ T. quản lý, canh tác từ năm 1961, sau đó cụ L., cụ T. cho bà H., diện tích đất..., việc ông Đ. viết đơn xin đăng ký sử dụng đất ở thửa số 159 và thửa số 327, với tổng diện tích 18.160m2 mà không thông qua cụ L., cụ T. để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất là không tuân thủ theo đúng quy định.
- Tại Biên bản họp gia đình ngày 04/11/2009, bà H. đã thừa nhận ký tên có nội dung: Năm 1961 cụ L. được cấp phần đất chiều ngang 48m, dài 380m, năm 1975 cụ L. không trực tiếp canh tác đất này nên giao lại cho bà H., ông Đ. quản lý, canh tác. Trong phần đất này, cụ L. cho bà H. và ông Đ 1/2 diện tích đất, phần đất còn lại cụ L. cho bà H., ông Đ. mướn trả lúa hàng năm.
- Quá trình giải quyết vụ án, tại phiên tòa phúc thẩm bà H. xuất trình “Giấy xác nhận” ngày 24/9/2018 của ông Huỳnh Văn Th. và “Giấy xác nhận” ngày 20/9/2018 của ông Nguyễn Hy V., nội dung của các văn bản này đều thể hiện: Năm 1982, ông Đ., bà H. được Tập đoàn 7, ấp ND giao quản lý, sử dụng diện tích đất 18.160m2, đến năm 1984, khi Tập đoàn giải thể thì hộ bà H. vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994.
Sau khi nhận được đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm của cụ L., cụ T., VKSND Tối cao đã tiến hành xác minh tại UBND xã QPB và UBND huyện ĐD, tỉnh CM, lấy lời khai của đương sự, người làm chứng đã xác định được như sau:
- Tại Báo cáo số 1368/BC-UBND, ngày 27/10/2020 của UBND huyện ĐD có nội dung xác định: “Đất có nguồn gốc của ông Trần Tấn L. và bà Trần Thị T. cấp cho con rể (ông Cao Văn Đ.) là chưa phù hợp”.
- UBND xã QPB có Văn bản ngày 26/10/2020, kèm theo Văn bản ngày 10/02/2020 của ông Nguyễn Quốc V. và một số cá nhân khác là cán bộ xã thời điểm đó xác định: “Có việc thành lập Tập đoàn sản xuất nông nghiệp, nhưng không phải là Tập đoàn số 7. Tập đoàn chỉ hoạt động trong một thời gian ngắn (khoảng 1 năm) thì giải thể vì vấp phải sự phản ứng của bà con nên dừng, không điều chỉnh cho ai khác. Do vậy, những người làm chứng cho bà H. không đúng sự thật”.
2. Quá trình giải quyết vụ án
Tại Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 5/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh CM quyết định:
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn. Công nhận phần đất diện tích đất đo đạc thực tế là 9.894,6m2 cho ông L., bà T. được quyền quản lý, sử dụng phần đất có vị trí, ranh giới cụ thể (kèm trích đo thửa đất). Ông L., bà T. được quyền liên hệ cơ quan có thẩm quyền để làm thủ tục cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất.
- Hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số C159607 UBND huyện ĐD cấp ngày 01/11/1994 cho ông Đ.
- Không chấp nhận toàn bộ yêu cầu phản tố của bà H. Giữ nguyên phần đất tranh chấp 9.120m2 (đo đạc thực tế 9.894,6m2) cho ông L., bà T. tiếp tục quản lý, sử dụng.
Ngoài ra, bản án còn quyết định về án phí, chi phí thẩm định tại chỗ. Ngày 19/3/2018, bà H. có đơn kháng cáo đối với bản án sơ thẩm nêu trên đề nghị xét xử lại theo thủ tục phúc thẩm.
Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 357/2019/DS-PT ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố H quyết định:
Chấp nhận kháng cáo của bà H, sửa bản án sơ thẩm.
- Bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông L., bà T. đòi công nhận diện tích đất 9.894,6m2.
- Bác yêu cầu khởi kiện của ông L., bà T. về đòi hủy một phần giấy chứng nhận quyền sử dụng đất ngày 01/11/1994 cho ông Đ.
- Đình chỉ giải quyết yêu cầu phản tố của bà H. việc đòi bà T. trả lại diện tích đất 9.120m2 (đo đạc thực tế 9.894,6m2).
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí dân sự.
Ngày 20/2/2020, cụ L., cụ T. có đơn đề nghị xem xét Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên theo thủ tục giám đốc thẩm.
Ngày 07/7/2021, Viện trưởng VKSND Tối cao ban hành Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐKNGĐT-VKS-DS đối với Bản án dân sự phúc thẩm số 357/2019/DS-PT ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố H đề nghị Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao xét xử giám đốc thẩm theo hướng hủy Bản án dân sự phúc thẩm nêu trên.
Tại Quyết định giám đốc thẩm số 30/2021/DS-GĐT ngày 17/9/2021 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao quyết định: Chấp nhận Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 06/QĐKNGĐT-VKS-DS ngày 07/7/2021 của Viện trưởng VKSND Tối cao; Hủy Bản án dân sự phúc thẩm số 357/2019/DS-PT ngày 21/8/2019 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại Thành phố H và hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 06/2018/DS-ST ngày 05/3/2018 của Tòa án nhân dân tỉnh CM; giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh CM xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm, đúng quy định của pháp luật.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
- Về tố tụng: Tại “Giấy ủy quyền” ngày 01/3/2017, cụ L., cụ T. ủy quyền cho bà Trần Thị Bích P. tham gia tố tụng tại Tòa án để giải quyết tranh chấp với bà Trần Thị H., giấy ủy quyền có chữ ký của bên ủy quyền và bên được ủy quyền, có xác nhận của UBND xã QPB, nhưng không đề ngày, tháng, năm xác nhận. Tòa án cấp sơ thẩm, Tòa án cấp phúc thẩm chưa thu thập, làm rõ giấy ủy quyền được UBND xã QPB xác nhận ngày nào? Khi xác nhận có trực tiếp chứng kiến việc ký vào giấy ủy quyền của các bên hay không mà đã xác định bà P là người đại diện theo ủy quyền của hai cụ là có thiếu sót.
- Về nội dung:
Tòa án cấp phúc thẩm căn cứ vào “Giấy xác nhận” ngày 24/9/2018 của ông Huỳnh Văn Th. và “Giấy xác nhận” ngày 20/9/2018 của ông Nguyễn Hy V., thể hiện cùng nội dung “Năm 1982, ông Đ., bà H. được Tập đoàn 7, ấp ND giao quản lý, sử dụng diện tích đất 18.160m2, đến năm 1984, khi Tập đoàn giải thể thì hộ bà H. vẫn tiếp tục quản lý, sử dụng và được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất vào năm 1994” do bà H. cung cấp trong quá trình giải quyết theo thủ tục phúc thẩm để xác định nguồn gốc đất tranh chấp là của Tập đoàn 7 giao cho vợ chồng bà H., ông Đ., không triệu tập người làm chứng đến Tòa án để giải thích quyền, nghĩa vụ và lấy lời khai, đồng thời thu thập thêm tài liệu chứng cứ làm rõ nội dung theo xác nhận của ông Th. và ông V. có đúng hay không mà đã quyết định “Sửa án sơ thẩm, bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn" là không đúng quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 99 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 và chưa đủ căn cứ.
Trên cơ sở kết quả xác minh của VKSND Tối cao cho thấy: Tòa án cấp phúc thẩm chỉ dựa vào “Giấy xác nhận” của ông Th. và ông V. mà không xác minh, làm rõ để làm căn cứ giải quyết vụ án là chưa đủ căn cứ. Kết quả xác minh, thu thập chứng cứ của VKSND Tối cao có đủ căn cứ xác định nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của nguyên đơn. Đồng thời, xác định nội dung nêu tại “Giấy xác nhận” của ông Th. và ông V. là không đúng, nên không có căn cứ chấp nhận lời khai của bị đơn.
Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn là có căn cứ, đúng pháp luật. Tuy nhiên, do có thiếu sót về tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án như đã nêu trên nên cần thiết phải hủy bản án dân sự sơ thẩm và hủy bản án dân sự phúc thẩm, giao hồ sơ vụ án cho Tòa án nhân dân tỉnh CM để xét xử lại theo thủ tục sơ thẩm nhằm đảm bảo việc giải quyết vụ án được toàn diện, khách quan, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
PV
VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự
15. Xây dựng quy định áp thuế tiêu thụ đặc biệt với nước ngọt
(LSVN) - Xây dựng quy định về hạn chế quảng cáo, khuyến mại, tài trợ của các nhãn hàng đối với thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, đặc biệt đối với trẻ em, áp thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có đường

Ảnh minh họa.
Đây là một trong những nội dung đáng chủ ý tại Quyết định 1294/QĐ-BYT ngày 19/5/2022 về Kế hoạch hành động thực hiện Chiến lược Quốc gia về dinh dưỡng đến năm 2025 do Bộ Y tế ban hành.
Theo đó, một trong những giải pháp, nhiệm vụ được Bộ Y tế đưa ra là xây dựng các chính sách liên quan đến dinh dưỡng nhằm đáp ứng các vấn đề dinh dưỡng mới nổi và cấp thiết. Cụ thể:
- Xây dựng chính sách bảo hiểm y tế chi trả cho dịch vụ tư vấn và điều trị phục hồi cho trẻ bị suy dinh dưỡng cấp tính nặng tại cộng đồng và bệnh viện; chi trả cho sữa mẹ thanh trùng cho trẻ sơ sinh, sinh non và bệnh lý chưa được tiếp cận với sữa mẹ đẻ; các sản phẩm dinh dưỡng cho trẻ mắc các bệnh rối loạn chuyển hóa.
- Xây dựng chính sách để đưa các can thiệp dinh dưỡng thiết yếu vào bao phủ chăm sóc sức khỏe toàn dân, bảo đảm nguồn tài chính chi trả.
- Xây dựng hướng dẫn kỹ thuật về tăng cường vi chất dinh dưỡng vào thực phẩm.
- Xây dựng quy định về hạn chế quảng cáo, khuyến mại, tài trợ của các nhãn hàng đối với thực phẩm không có lợi cho sức khỏe, đặc biệt đối với trẻ em, áp thuế tiêu thụ đặc biệt với đồ uống có đường.
- Xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật bữa ăn học đường, các quy định về dinh dưỡng hợp lý và hoạt động thể lực trong trường học, quy định về hoạt động của căng tin trong trường học để bảo đảm cung cấp thực phẩm, đồ uống có lợi cho sức khỏe của học sinh, sinh viên.
- Xây dựng hướng dẫn quốc gia về dinh dưỡng hợp lý và hoạt động thể lực phù hợp với các nhóm đối tượng để phòng chống thừa cân béo phì và bệnh không lây nhiễm cho người dân.
- Xây dựng các khuyến nghị về bữa ăn của người lao động phù hợp với ngành nghề để phổ biến và áp dụng trong các cơ sở sản xuất, kinh doanh, khu công nghiệp.
- Xây dựng hướng dẫn về tư vấn dinh dưỡng, hỗ trợ nuôi con bằng sữa mẹ cho người lao động không có hợp đồng lao động.
- Xây dựng hướng dẫn và triển khai hiệu quả chế độ dinh dưỡng hợp lý cho các lực lượng đặc thù trong quân đội.
- Xây dựng hướng dẫn hỗ trợ dinh dưỡng cho người bệnh trong bệnh viện.
- Xây dựng hướng dẫn hỗ trợ dinh dưỡng trong ứng phó khẩn cấp về dinh dưỡng. Xây dựng kế hoạch ứng phó khẩn cấp về dinh dưỡng cấp trung ương và cấp tỉnh, thành phố.
MAI HUỆ
Không yêu cầu xét nghiệm Covid-19 trước khi vào bệnh viện
16.

