7. Sửa đổi, bổ sung nhiệm vụ của cơ sở đào tạo lái xe
(LSVN) - Vừa qua, Bộ Giao thông Vận tải đã ban hành Thông tư 04/2022/TT-BGTVT sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT ngày 15/4/2017 quy định về đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe cơ giới đường bộ. Một trong những điểm mới của Thông tư 04/2022/TT-BGTVT là sửa đổi, bổ sung quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ sở đào tạo lái xe tại Điều 5 Thông tư số 12/2017/TT-BGTVT.
![]()
Cụ thể, Thông tư 04/2022/TT-BGTVT yêu cầu cơ sở đào tạo lái xe phải ứng dụng công nghệ trong công tác quản lý đào tạo để nhận dạng và theo dõi thời gian học lý thuyết môn học pháp luật giao thông đường bộ đối với học viên học lái xe ô tô (trừ hạng B1); bảo đảm cơ sở vật chất, trang thiết bị phục vụ giảng dạy, học tập để nâng cao chất lượng đào tạo lái xe; sử dụng phần mềm mô phỏng các tình huống giao thông để đào tạo lái xe.
Cơ sở đào tạo lái xe ô tô trang bị và duy trì ca bin học lái xe ô tô, thiết bị giám sát thời gian và quãng đường học lái xe trên đường của học viên theo quy chuẩn kỹ thuật quốc gia do Bộ Giao thông vận tải ban hành. Đồng thời, cung cấp giấy xác nhận được in trên ca bin học lái xe ô tô thông tin học viên đã học đủ thời gian và nội dung học thực hành lái xe trên ca bin học lái xe ô tô cho cơ quan quản lý đào tạo, sát hạch, cấp giấy phép lái xe.
Ngoài ra, Thông tư 04/2022/TT-BGTVT cũng bổ sung một số nhiệm vụ của cơ sở đào tạo lái xe như: Truyền dữ liệu quản lý DAT (Thiết bị giám sát thời gian và quãng đường thực hành lái xe) và chịu trách nhiệm về tính chính xác, đầy đủ, trung thực dữ liệu DAT và dữ liệu quản lý DAT; bảo đảm an toàn dữ liệu, bảo mật cho hệ thống thông tin DAT; bảo mật tên đăng nhập và mật khẩu truy cập phần mềm hệ thống thông tin DAT của Tổng cục Đường bộ Việt Nam; cung cấp kịp thời, chính xác các thông tin, dữ liệu DAT cho cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền khi có yêu cầu.
Theo dõi, khai thác dữ liệu trên phần mềm hệ thống thông tin DAT để phục vụ công tác quản lý đào tạo lái xe; kiểm tra tính chính xác các thông tin về giáo viên, xe tập lái.
Thông tư 04/2022/TT-BGTVT có hiệu lực thi hành từ ngày 15/6/2022.
TIẾN HƯNG
Tăng thời gian học thực hành lái xe ô tô trên đường
6. Các cửa khẩu quốc tế cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử
(LSVN) - Phó Thủ tướng Thường trực Phạm Bình Minh vừa ký ban hành Nghị quyết số 60/NQ-CP bổ sung danh sách các cửa khẩu quốc tế cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo đó, Chính phủ quyết nghị bổ sung cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Vân Đồn vào danh sách các cửa khẩu quốc tế đường không cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử được nêu tại mục I Điều 2 Nghị quyết số 79/NQ-CP ngày 25/5/2020 của Chính phủ về danh sách các nước có công dân được cấp thị thực điện tử; danh sách các cửa khẩu quốc tế cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử.
Theo Nghị quyết số 79/NQ-CP ngày 25/5/2020, có 8 cửa khẩu hàng không cho phép người nước ngoài nhập cảnh, xuất cảnh bằng thị thực điện tử gồm:
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Nội Bài;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Tân Sơn Nhất;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Cam Ranh;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Đà Nẵng;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Cát Bi;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Cần Thơ;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Phú Quốc;
- Cửa khẩu Cảng hàng không quốc tế Phú Bài.
MINH HIỀN
Tăng thời gian học thực hành lái xe ô tô trên đường
4. Xảy ra hơn 1.000 vụ tai nạn giao thông trong tháng 4
(LSVN) - Theo báo cáo của Văn phòng Ủy ban An toàn giao thông Quốc gia, trong tháng 4, cả nước xảy ra 1.046 vụ tai nạn giao thông, làm chết 600 người và làm bị thương 690 người.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, trên đường bộ xảy ra 1.036 vụ tai nạn giao thông, làm chết 592 người, bị thương 689 người; so với cùng kỳ năm trước giảm 35 vụ, tăng 71 người chết và giảm 62 người bị thương.
Đường sắt xảy ra 7 vụ làm chết 5 người, bị thương 1 người; so với cùng kỳ năm trước tăng 3 vụ, tăng 1 người chết và tăng 1 người bị thương.
Đường thủy xảy ra 2 vụ làm chết 2 người; so với cùng kỳ năm trước giảm 1 vụ, tăng 1 người chết và giảm 1 người bị thương.
Hàng hải xảy ra 1 vụ làm chết 1 người; so với cùng kỳ năm trước tăng 1 vụ, tăng 1 người chết.
Về tình hình tai nạn giao thông 4 tháng đầu năm 2022 (tính từ ngày 15/12/2021 đến 14/4/2022), toàn quốc xảy ra 3.808 vụ tai nạn giao thông, làm chết 2.276 người, bị thương 2.431 người; so với 4 tháng đầu năm 2021, số vụ tai nạn giao thông giảm 694 vụ; tăng 7 người người chết và giảm 801 người bị thương.
Một số địa phương có số người chết do tai nạn giao thông trong tháng 4/2022 giảm sâu so với cùng kỳ như Bắc Kạn, Lâm Đồng (cùng giảm 3 người, tương đương 75%), An Giang (giảm 3 người, tương đương 50%). Một số địa phương có số người chết do tai nạn giao thông trong tháng 4/2022 tăng cao so với cùng kỳ như Bình Thuận (tăng 10 người, tương đương 125%).
Trong 4 tháng đầu năm 2022, có 26 địa phương có số người chết giảm trên 5% so với cùng kỳ. Một số địa phương có số người chết do tai nạn giao thông giảm sâu cả về số lượng và tỷ lệ so với cùng kỳ 4 tháng đầu năm 2021 gồm: Quảng Bình (giảm 30 người, tương đương -60%), Sơn La (giảm 6 người, tương đương 46.2%), Thái Nguyên (giảm 8 người, tương đương 42.1%).
VĂN QUANG
Tăng thời gian học thực hành lái xe ô tô trên đường
1. Tích cực làm từ thiện có được giảm nhẹ trách nhiệm hình sự không?
(LSVN) - Vừa qua, Công an tỉnh Bình Dương ra quyết định khởi tố vụ án “Lợi dụng các quyền tự do dân chủ xâm phạm lợi ích nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân” liên quan bà Nguyễn Phương Hằng (Tổng Giám đốc Công ty cổ phần Đại Nam). Vậy theo quy định của pháp luật, liệu bà Nguyễn Phương Hằng có được xem xét giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trong quá trình điều tra, tố tụng khi đã làm từ thiện rất nhiều trong những năm qua hay không?
![]()
Liên quan đến vấn đề này, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, theo quy định của pháp luật thì có nhiều tình tiết được quy định để có thể giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự cho bị can, bị cáo trong đó có thể kể đến như: thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải; phạm tội lần đầu, thuộc trường hợp ít nghiêm trọng; tự nguyện bồi thường, khắc phục hậu quả; có thành tích suất sắc trong học tập, lao động, công tác,...
Cụ thể các trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự được quy định tại Điều 51 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Theo đó, các tình tiết sau đây là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự:
- Người phạm tội đã ngăn chặn hoặc làm giảm bớt tác hại của tội phạm;
- Người phạm tội tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá yêu cầu của tình thế cấp thiết;
- Phạm tội trong trường hợp vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;
- Phạm tội trong trường hợp bị kích động về tinh thần do hành vi trái pháp luật của nạn nhân gây ra;
- Phạm tội vì hoàn cảnh đặc biệt khó khăn mà không phải do mình tự gây ra;
- Phạm tội nhưng chưa gây thiệt hại hoặc gây thiệt hại không lớn;
- Phạm tội lần đầu và thuộc trường hợp ít nghiêm trọng;
- Phạm tội vì bị người khác đe dọa hoặc cưỡng bức;
- Phạm tội trong trường hợp bị hạn chế khả năng nhận thức mà không phải do lỗi của mình gây ra;
- Phạm tội do lạc hậu;
- Người phạm tội là phụ nữ có thai;
- Người phạm tội là người đủ 70 tuổi trở lên;
- Người phạm tội là người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng;
- Người phạm tội là người có bệnh bị hạn chế khả năng nhận thức hoặc khả năng điều khiển hành vi của mình;
- Người phạm tội tự thú;
- Người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải;
- Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án;
- Người phạm tội đã lập công chuộc tội;
- Người phạm tội là người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác;
- Người phạm tội là người có công với cách mạng hoặc là cha, mẹ, vợ, chồng, con của liệt sĩ.
Bộ luật Hình sự cũng quy định khi quyết định hình phạt, Tòa án có thể coi đầu thú hoặc tình tiết khác là tình tiết giảm nhẹ, nhưng phải ghi rõ lý do giảm nhẹ trong bản án. Các tình tiết giảm nhẹ đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung thì không được coi là tình tiết giảm nhẹ trong khi quyết định hình phạt.
Như vậy, theo quy định của pháp luật thì người phạm tội có thành tích suất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác thì được coi là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Theo hướng dẫn của Hội đồng Thẩm phán trước đây thì được coi là thành tích suất sắc như sau: "Người có thành tích xuất sắc trong sản xuất, chiến đấu, học tập hoặc công tác là người được tặng thưởng huân chương, huy chương, bằng khen, bằng lao động sáng tạo hoặc có sáng chế phát minh có giá trị lớn hoặc nhiều năm được công nhận là chiến sỹ thi đua…“.
Theo quy định của pháp luật thì khi quyết định hình phạt Tòa án sẽ căn cứ vào các quy định của Bộ luật Hình sự, căn cứ vào tính chất, mức độ của hành vi phạm tội, căn cứ vào nhân thân của người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Điều 50. Căn cứ quyết định hình phạt 1. Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách nhiệm hình sự. 2. Khi quyết định áp dụng hình phạt tiền, ngoài căn cứ quy định tại khoản 1 Điều này, Tòa án căn cứ vào tình hình tài sản, khả năng thi hành của người phạm tội. |
Vì vây, nếu bị can có một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự nhưng lại có tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự hoặc xét thấy tính chất mức độ của hành vi vi phạm là đặc biệt nghiêm trọng thì bị can, bị cáo vẫn phải chịu mức chế tài nghiêm khắc của pháp luật.
"Trong trường hợp bà Hằng bị kết tội nhưng trong quá trình giải quyết vụ án, có căn cứ cho thấy trước đây bà Hằng đã thực hiện các hoạt động từ thiện được nhiều cơ quan tặng thưởng giấy khen thì có thể được coi là tình tiết giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự. Ngoài ra trường hợp bị cáo được xác định là người thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải, tự nguyện bồi thường khắc phục hậu quả cho nạn nhân thì cũng được xem xét là các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Việc quyết định hình phạt cụ thể sẽ căn cứ vào nhiều yếu tố trong đó các tình tiết giảm nhẹ chỉ là một trong các yếu tố quyết định đến loại hình phạt và mức hình phạt", Luật sư Cường phân tích rõ.
TIẾN HƯNG
Giải quyết tranh chấp hợp đồng vay tài sản có kỳ hạn và không có lãi
02 trường hợp được hoàn trả tiền mua vé xổ số điện toán từ hôm nay
(LSVN) - Thông tư 18/2022/TT-BTC ngày 15/3/2022 của Bộ Tài chính sửa đổi Thông tư 36/2019/TT-BTC hướng dẫn hoạt động kinh doanh xổ số tự chọn số điện toán sẽ chính thức có hiệu lực từ hôm nay (28/4/2022). Theo đó, Công ty xổ số điện toán phải hoàn trả tiền mua vé xổ số tự chọn số điện toán cho tất cả người tham gia dự thưởng trong 2 trường hợp.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, Thông tư bổ sung khoản 6 Điều 29 Thông tư số 36/2019/TT-BTC ngày 17/6/2019 của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động kinh doanh xổ số tự chọn số điện toán. Theo đó, công ty xổ số điện toán phải hoàn trả tiền mua vé xổ số tự chọn số điện toán cho tất cả người tham gia dự thưởng trong các trường hợp sau:
- Lịch quay số mở thưởng được thông báo là bị hủy bỏ do sự cố kỹ thuật hoặc trường hợp bất khả kháng xảy ra do thiên tai, dịch bệnh, hỏa hoạn nhưng chưa có lịch quay số mở thưởng tổ chức lại; hoặc có lịch quay số mở thưởng lại nhưng thời gian quay số mở thưởng chậm hơn 72 giờ so với lịch ban đầu;
- Kết quả quay số mở thưởng đã công bố bị hủy bỏ theo kết luận của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền (Bộ Tài chính, cơ quan công an, cơ quan thanh tra, kiểm tra).
Công ty xổ số điện toán phải quy định cụ thể thời hạn hoàn trả tiền mua vé xổ số tự chọn số điện toán tại Thể lệ tham gia dự thưởng nhưng tối đa không quá 60 ngày kể từ ngày quay số mở thưởng theo lịch ban đầu hoặc ngày công bố hủy bỏ kết quả quay số mở thưởng của cơ quan có thẩm quyền.
Vé xổ số tự chọn được đề nghị hoàn trả tiền mua vé phải đáp ứng đủ điều kiện như vé xổ số lĩnh thưởng quy định tại khoản 2 Điều 29 Thông tư 36/2019/TT-BTC.
Ngoài ra, Thông tư 18/2022/TT-BTC còn sửa đổi, bổ sung khoản 1 Điều 17 quy định về địa điểm quay số mở thưởng. Theo đó, việc quay số mở thưởng xổ số tự chọn số điện toán được thực hiện tại trụ sở chính của công ty xổ số điện toán hoặc tại các địa điểm khác nhưng phải nằm trong phạm vi địa giới hành chính của tỉnh, thành phố nơi công ty xổ số điện toán đặt trụ sở chính hoặc nơi công ty xổ số điện toán có Chi nhánh. So với hiện hành bổ sung địa điểm quay số mở thưởng là nơi công ty xổ số điện toán có Chi nhánh.
PHƯƠNG HOA
Người lao động có thể nộp trực tuyến hồ sơ hỗ trợ tiền thuê nhà
5.Sẽ nghiên cứu về quyền của người trúng đấu giá biển số xe đẹp
(LSVN) - Theo Phó Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, dưới góc độ pháp luật, việc chuyển nhượng biển số xe đang "vướng" ở chỗ Điều 8 Luật Giao thông đường bộ quy định cấm mua bán, chuyển nhượng biển số xe. Vì thế, Bộ Công an phải xây dựng nghị quyết, trong đó sẽ giải quyết vấn đề quyền của người trúng đấu giá biển số xe.
![]()
Ảnh minh họa.
Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại họp báo, thông tin về một số kết quả công tác tư pháp quý 1 và nhiệm vụ trọng tâm quý 2/2022 chiều 27/4 của Bộ Tư pháp tổ chức.
Tại cuộc họp báo, đại diện các đơn vị thuộc Bộ đã trả lời nhiều vấn đề mà báo chí quan tâm. Trong đó, liên quan đến đề xuất đấu giá biển số xe đẹp vừa được Bộ Công an đưa ra lấy ý kiến rộng rãi, bà Nguyễn Thị Mai, Phó Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp (Bộ Tư pháp) khẳng định theo quy định của pháp luật, việc đấu giá biển số xe đẹp không có vướng mắc gì.
Khoản 1 Điều 4 Luật Đấu giá tài sản đã quy định rõ các loại tài sản được đưa ra đấu giá. Nếu coi biển số xe là một loại tài sản và theo quy định của pháp luật chuyên ngành phải bán dưới hình thức đấu giá, thay cho việc bốc ngẫu nhiên như hiện nay, thì sẽ thực hiện theo trình tự thủ tục của Luật Đấu giá tài sản.
Về việc người trúng đấu giá biển số xe đẹp có được phép mua bán, chuyển nhượng hay không, bà Nguyễn Thị Mai cho biết Bộ Công an đang chủ trì xây dựng dự thảo nghị quyết về đấu giá biển số xe, trong đó sẽ nghiên cứu về quyền của người trúng đấu giá. Vấn đề này đang được Bộ Công an lấy ý kiến của các bộ, ban, ngành.
Theo Phó Cục trưởng Cục Bổ trợ tư pháp, dưới góc độ pháp luật, việc chuyển nhượng biển số xe đang "vướng" ở chỗ Điều 8 Luật Giao thông đường bộ quy định cấm mua bán, chuyển nhượng biển số xe. Vì thế, Bộ Công an phải xây dựng nghị quyết, trong đó sẽ giải quyết vấn đề quyền của người trúng đấu giá biển số xe.
Bà Nguyễn Thị Mai nhấn mạnh biển số xe là một loại tài sản đặc biệt, có tính đặc thù, bởi ngoài chức năng tài sản thì đây còn là công cụ để quản lý giao thông đường bộ. Vì vậy, quyền sở hữu đối với biển số xe bị hạn chế bởi Luật Giao thông đường bộ năm 2008, bằng việc nghiêm cấm mua bán.
Hiện nay, Bộ Giao thông Vận tải và Bộ Công an đang xây dựng hai dự án luật là Luật Giao thông đường bộ (sửa đổi) và Luật Trật tự an toàn giao thông đường bộ. Các cơ quan có thể sẽ tính toán việc sửa đổi quy định về quyền định đoạt đối với biển số xe cho phù hợp.
HÀ ANH
Cần lưu ý về mặt pháp lý khi tổ chức đấu giá biển số xe
SÁNG
1. Thực hiện kê khai, nộp thuế cho văn phòng đại diện như thế nào?
(LSVN) - Công ty tôi có trụ sở chính tại tỉnh Hưng Yên, văn phòng đại diện tại TP. Hà Nội. Văn phòng đại diện chỉ là địa điểm cho nhân viên ngồi làm việc, không có chức năng kinh doanh, không bổ nhiệm bất kỳ chức danh gì liên quan, các khoản trích theo lương của nhân viên tại đây vẫn nộp về BHXH Hưng Yên. Vậy, thuế thu nhập cá nhân (TNCN) của nhân viên làm việc tại văn phòng đại diện sẽ nộp về cơ quan thuế Hà Nội hay Hưng Yên? Bạn đọc T.P. hỏi.
![]()
Liên quan đến vấn đề này, theo Tổng cục Thuế, Bộ Tài chính căn cứ quy định tại Điều 19 Thông tư số 80/2021/TT-BTC ngày 29/9/2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và Nghị định số 126/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Quản lý thuế, thì trường hợp doanh nghiệp có thành lập chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh tại tỉnh khác với nơi người nộp thuế đóng trụ sở chính và doanh nghiệp chi trả tập trung cho người lao động làm việc tại chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm kinh doanh này thì doanh nghiệp phải:
- Khấu trừ thuế và kê khai thuế TNCN từ tiền lương, tiền công tập trung tại trụ sở chính;
- Phải lập bảng phân bổ thuế cho các địa phương nơi người lao động làm việc;
- Nộp hồ sơ khai thuế, bảng phân bổ cho cơ quan thuế quản lý trực tiếp trụ sở chính.
Như vậy, doanh nghiệp chi trả thuế TNCN cho người lao động làm việc tại văn phòng đại diện tại Hà Nội thì doanh nghiệp nộp hồ sơ khai thuế cho cơ quan thuế Hưng Yên là cơ quan thuế quản lý trực tiếp doanh nghiệp và phân bổ thuế, nộp tiền vào ngân sách Nhà nước cho TP. Hà Nội nơi có người lao động làm việc tại văn phòng đại diện tại Hà Nội.
HỒNG HẠNH
Không nên bỏ thanh tra cấp huyện
Về khởi tố vụ án theo yêu cầu của bị hại
(LSVN) - Với những cơ sở đã phân tích, tác giả bài viết kiến nghị nên bỏ Điều 155 (Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại) và điều chỉnh một số nội dung có liên quan tại Điều 248 (Đình chỉ vụ án), Điều 157 (Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cho phù hợp với lý luận và thực tiễn đặt ra.
![]()
Ảnh minh họa.
Về mặt học thuật, Bộ luật Hình sự được xem là luật nội dung, Bộ luật Tố tụng hình sự là luật hình thức. Giữa luật hình sự và luật tố tụng hình sự có mối quan hệ phụ thuộc, trong đó quan hệ pháp luật hình sự quyết định quan hệ pháp luật tố tụng hình sự, nghĩa là: những quy định trong Bộ luật Tố tụng hình sự phải phù hợp với nội dung quy phạm của Bộ luật Hình sự.
Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định: Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các Điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155, 156 và 226 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết. Trường hợp người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu thì vụ án phải được đình chỉ, trừ trường hợp có căn cứ xác định người đã yêu cầu rút yêu cầu khởi tố trái với ý muốn của họ do bị ép buộc, cưỡng bức thì tuy người đã yêu cầu khởi tố rút yêu cầu, cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án vẫn tiếp tục tiến hành tố tụng đối với vụ án.
Nghiên cứu nội dung Phần thứ nhất trong Bộ luật Hình sự năm 2015, ta thấy quy định tại Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 trái với Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015, đồng thời không sát thực tiễn.
Tại khoản 3 Điều 29 Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: Người thực hiện tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng gây thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm hoặc tài sản của người khác, đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại hoặc khắc phục hậu quả và được người bị hại hoặc người đại diện hợp pháp của người bị hại tự nguyện hòa giải và đề nghị miễn trách nhiệm hình sự, thì có thể được miễn trách nhiệm hình sự.
Theo nội dung nêu trên, người thực hiện hành vi pham tội chỉ có thể được miễn trách nhiệm hình sự khi xác định được tội phạm nghiêm trọng do vô ý hoặc tội phạm ít nghiêm trọng… sau khi có kết quả điều tra.
Xét trên phương diện lý luận, khởi tố vụ án, khởi tố bị can là biện pháp tố tụng pháp lý ban đầu không thể bỏ qua khi hành vi nguy hiểm có dấu hiệu tội phạm đã xảy ra, bởi lẽ: tội phạm là hành vi nguy cho xã hội, để làm rõ nguyên nhân, động cơ phạm tội; tính chất, mức độ và hậu quả thiệt hại của tội phạm, bắt buộc phải thông qua quy trình điều tra mới có đủ căn cứ kết luận tội phạm thuộc trường hợp ít nghiệm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng hay đặc biệt nghiêm trọng; tội phạm do vô ý hoặc cố ý… Nếu không khởi tố điều tra thì không có căn cứ để xác định tính chất, mức độ tội phạm để quyết định khởi tố theo yêu cầu người bị hại.
Về mặt thực tiễn, khởi tố điều tra có những ý nghĩa sau đây:
Thứ nhất: Mục đích của điều tra không chỉ nhằm để trừng trị kẻ phạm tội, mà còn để tìm ra nguồn gốc xuất phát của tội phạm, nguyên nhân, những bất hợp lý, sơ hở trong quá trình lãnh đạo, quản lý xã hội của chính quyền để chấn chỉnh nhằm tăng cường công tác phòng ngừa tội phạm tốt hơn. Không tiến hành khởi tố điều tra thì không thể tìm ra những vấn đề nêu trên, do đó tất cả những hành vi nguy hiểm có dấu hiệu tội phạm bắt buộc phải khởi tố điều tra là yêu cầu mang tính khách quan.
Thứ hai: Việc khởi tố điều tra còn là một biện pháp răn đe đối với người có hành vi vi phạm pháp luật hình sự, có ý nghĩa tác động trực tiếp đến tâm lý người bị điều tra, ngăn ngừa họ tái phạm sau này và cũng để răn đe mọi người…
Với những cơ sở như đã phân tích nêu trên, thiết nghĩ, nên bỏ Điều 155 (Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại) và điều chỉnh một số nội dung có liên quan tại Điều 248 (Đình chỉ vụ án), Điều 157 (Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự) của Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015 cho phù hợp với lý luận và thực tiễn đặt ra.
Luật sư ĐOÀN CÔNG THIỆN
Đoàn Luật sư tỉnh Kiên Giang
Hỏi cung bị can theo quy định của pháp luật tố tụng hiện hành
3. Xây dựng quy trình ‘chuẩn’ trong đấu thầu mua sắm tài sản công
(LSVN) - Có thể nói, việc đấu thầu mua sắm tài sản công và quản lý, sử dụng tài sản công thời gian vừa qua có nhiều yếu kém, bất cập dẫn đến nhiều vụ vi phạm pháp luật xảy ra trong lĩnh vực này. Nhiều vụ việc sai phạm rất nghiêm trọng gây thất thoát, lãng phí lớn cho ngân sách nhà nước, nhất là việc đấu thầu mua sắm tài sản công.
![]()
Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng này, nguyên nhân chủ quan là do sự thoái hóa biến chất của một số cán bộ, công chức, người được giao quyền thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản công dẫn đến thất thoát, tham nhũng. Tuy nhiên, cũng có nguyên nhân khách quan, đó là một số quy định pháp luật trong lĩnh vực này chưa chặt chẽ, rõ ràng, chồng chéo, bất cập gây khó khăn rất lớn trong việc đấu thầu mua sắm tài sản công. Đặc biệt là các gói thầu mua sắm lớn, gồm nhiều mặt hàng, trang thiết bị phục vụ công tác chuyên môn, nghiệp vụ của các cơ quan, đơn vị, nhất là liên quan đến trang thiết bị y tế, giáo dục...
Minh chứng là nhiều vụ việc được xác định không có bất cứ hành vi tham nhũng, tiêu cực hay lợi ích nhóm, vụ lợi cá nhân nào nhưng vẫn xảy ra thiếu sót, sai phạm. Thậm chí, nhiều cơ quan, tổ chức đã được phân bổ kinh phí nhưng không dám mua sắm trang thiết bị phục vụ công tác vì sợ sai phạm, do pháp luật chưa rõ ràng, cụ thể, thiếu quy định, hướng dẫn chi tiết.
Hiện nay, nhiều cơ quan, đơn vị mua sắm tài sản công có cùng chủng loại, mặt hàng như nhau nhưng mỗi nơi áp dụng, thực hiện quy trình mua sắm mỗi kiểu, nhất là việc khảo sát giá, áp giá, cách tính chi phí thực tế,... khác nhau. Hay tình trạng một địa phương đã làm rồi thì các địa phương khác "bắt chước" làm theo đồng loạt. Vì thế, nếu xảy ra sai phạm thường xảy ra hàng loạt, nhiều cán bộ liên quan bị xử lý, dù nhiều người không phải thực hiện hành vi tham nhũng, vụ lợi nên rất đau lòng!
Do đó, để giải quyết triệt để tình trạng thất thoát, tham nhũng, tiêu cực cũng như hạn chế bất cập, chồng chéo do quy định pháp luật gây ra trong hoạt động này, các cơ quan có thẩm quyền cần sớm ban hành quy trình thống nhất về đấu thầu mua sắm tài sản công cụ thể, rõ ràng để triển khai trên toàn quốc. Theo đó, các ngành, lĩnh vực tương đồng về chức năng, nhiệm vụ sẽ có bộ quy chuẩn để mua sắm tài sản, trang thiết bị phục vụ cho công tác, hoạt động trong lĩnh vực của mình. Các đơn vị liên quan cứ theo quy trình đó áp dụng một cách đồng bộ, thống nhất từ trung ương đến các địa phương.
Ngoài ra, cần sớm triển khai việc mua sắm tập trung, công khai, minh bạch đối với tất cả các loại hàng hóa, sản phẩm có nguồn kinh phí từ ngân sách nhà nước, chương trình, dự án được viện trợ từ nước ngoài. Theo đó, cơ quan có thẩm quyền quản lý, kiểm soát tài sản công phải định kỳ ban hành quy trình cụ thể để hướng dẫn việc thực hiện đấu thầu mua sắm tài sản công. Từ việc thông báo giá hàng tháng, thậm chí hàng tuần một cách chính xác, kịp thời cho đến việc lập dự toán, lập hồ sơ mời thầu, khảo sát giá, áp giá và việc thanh, quyết toán… Tuyệt đối không nên để các địa phương, đơn vị tự "mày mò" rồi triển khai không thống nhất, mỗi nơi một kiểu, tùy tiện, sai quy định dẫn đến hành vi sai phạm gây thất thoát, lãng phí...
Có như vậy, mới ngăn chặn, hạn chế, xử lý triệt để tình trạng sai phạm trong đấu thầu mua sắm tài sản công hiện nay. Đặc biệt chỉ vì thiếu quy định chi tiết, quy trình chặt chẽ, cụ thể, khoa học mà đã gây khó khăn cho các địa phương, đơn vị khi đấu thầu mua sắm tài sản công, nhất là nhiều trường hợp "dính" sai phạm dù họ không cố ý làm sai hay vụ lợi gì./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Hạn chế tối đa việc giao cho bộ, ngành hướng dẫn luật
4. Hướng dẫn thực hiện quy định về tăng giờ làm thêm
(LSVN) - Vừa qua, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã ban hành Công văn 1312/LĐTBXH-ATLĐ ngày 26/4/2022, hướng dẫn thực hiện Nghị quyết 17/2022/UBTVQH15 về tăng giờ làm thêm trong bối cảnh phục hồi kinh tế.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo đó, triển khai Nghị quyết số 17/2022/UBTVQH15 ngày 24 tháng 3 năm 2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về số giờ làm thêm trong 01 năm, trong 01 tháng của người lao động trong bối cảnh phòng, chống dịch COVID-19 và phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội (sau đây gọi tắt là Nghị quyết), Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương khẩn trương triển khai chủ trì, phối hợp Liên đoàn Lao động cấp tỉnh và các cơ quan liên quan phổ biến, hướng dẫn thực hiện Nghị quyết trên địa bàn quản lý.
Trong đó, lưu ý một số nội dung sau đây:
- Các trường hợp người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm là các trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết và khoản 3 Điều 107 Bộ luật Lao động.
- Tất cả trường hợp được làm thêm tối đa 300 giờ trong 01 năm đều được làm thêm từ trên 40 giờ đến 60 giờ trong 01 tháng kể từ ngày 01 tháng 4 năm 2022.
- Khi tổ chức thực hiện quy định về số giờ làm thêm theo Nghị quyết vẫn phải tuân thủ đầy đủ các quy định khác về làm thêm giờ tại Bộ luật Lao động và các văn bản hướng dẫn Bộ luật Lao động (quy định về giới hạn số giờ làm thêm trong ngày; tiền lương phải trả khi làm thêm giờ; các nội dung về sự đồng ý của người lao động tham gia làm thêm; thông báo khi tổ chức làm thêm trên 200 giờ trong 01 năm;...).
- Khi tổ chức làm thêm từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong 01 năm theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Nghị quyết, người sử dụng lao động phải thông báo cho Sở Lao động - Thương binh và Xã hội theo quy định tại khoản 4 Điều 107 Bộ luật Lao động và Điều 62 Nghị định số 145/2020/NĐ-CP ngày 14 tháng 12 năm 2020 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao động về điều kiện lao động và quan hệ lao động.
Nghị quyết số 17/2022/UBTVQH15 được xây dựng, ban hành căn cứ vào Nghị quyết số 30/2021/QH15 ngày 28 tháng 7 năm 2021 Kỳ họp Thứ nhất, Quốc hội khóa XV. Vì vậy, các quy định của Nghị quyết số 17/2022/UBTVQH15 được thực hiện cho đến hết ngày 31 tháng 12 năm 2022, trừ trường hợp Quốc hội quyết định kéo dài thời gian thực hiện.
Bên cạnh đó, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đề nghị Sở Lao động - Thương binh và Xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương tăng cường thanh tra, kiểm tra việc làm thêm giờ trên địa bàn theo quy định của pháp luật.
MAI HUỆ

