TRỰC THỨ 6

25/05/2022 02:34 |

(LSVN) -

CHIỀU

3. Rút ngắn thời hạn gửi Quyết định xác minh nội dung khiếu nại trong CAND

(LSVN) - Bộ trưởng Bộ Công an vừa ban hành Thông tư 23/2022/TT-BCA ngày 16/5/2022 quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại trong Công an nhân dân (CAND).

Ảnh minh họa.

Thông tư này quy định thẩm quyền, trình tự, thủ tục giải quyết khiếu nại đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính và quyết định kỷ luật của cơ quan, đơn vị, cá nhân có thẩm quyền trong Công an nhân dân.

Theo đó, tại Điều 10 Thông tư này quy định trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày ban hành quyết định xác minh nội dung khiếu nại, Tổ xác minh gửi quyết định xác minh nội dung khiếu nại đến người bị khiếu nại và cơ quan, tổ chức, đơn vị, cá nhân có liên quan.

Trước đó, tại Thông tư 11/2015/TT-BCA quy định thời hạn gửi Quyết định xác minh nội dung khiếu nại là 10 ngày.

Khi cần thiết, người giải quyết khiếu nại hoặc cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ xác minh thực hiện công bố quyết định xác minh nội dung khiếu nại tại cơ quan, đơn vị của người bị khiếu nại hoặc cơ quan, đơn vị nơi phát sinh khiếu nại. Thành phần tham dự buổi công bố như sau:

- Trường hợp khiếu nại quyết định hành chính, hành vi hành chính, thành phần gồm: người giải quyết khiếu nại hoặc đại diện cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ xác minh, Tổ xác minh; người bị khiếu nại; đại diện cơ quan, đơn vị của người bị khiếu nại;

- Trường hợp khiếu nại quyết định kỷ luật cán bộ, thành phần gồm: người giải quyết khiếu nại hoặc đại diện cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ xác minh, Tổ xác minh; người bị khiếu nại; đại diện Ban Thường vụ hoặc cấp ủy, đại diện lãnh đạo cơ quan, đơn vị của người bị khiếu nại.

Nội dung công bố Quyết định xác minh nội dung khiếu nại như sau:

- Tổ xác minh công bố toàn văn quyết định xác minh;

- Nêu các yêu cầu về việc cung cấp hồ sơ, tài liệu, nội dung giải trình của người bị khiếu nại, cơ quan, đơn vị, cá nhân có liên quan đến nội dung khiếu nại;

- Thông báo kế hoạch làm việc của Tổ xác minh.

Việc công bố quyết định xác minh nội dung khiếu nại được lập thành biên bản và có chữ ký của đại diện các bên tham dự.

Thông tư 23/2022/TT-BCA có hiệu lực từ ngày 30/6/2022 thay thế Thông tư 11/2015/TT-BCA ngày 02/3/2015.

HÀ ANH

Thực trạng tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn

 

1. Trộm tiền trong tài khoản của bố, nam sinh viên có thể đối mặt với hai tội danh

(LSVN) - 

Nguyễn Đình Tuấn tại cơ quan Công an.

Nam sinh viên bị bắt giam vì trộm tiền trong tài khoản của bố

Vừa qua, Công an huyện Như Thanh, tỉnh Thanh Hóa cho biết cơ quan này đã khởi tố vụ án, khởi tố bị can, bắt tạm giam Nguyễn Đình Tuấn (SN 2002; ngụ xã Xuân Khang, huyện Như Thanh) để điều tra, làm rõ tội "Trộm cắp tài sản".

Trước đó, ngày 2-3, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank) chi nhánh huyện Như Thanh nhận được phản ánh của khách hàng N.Đ.M. (ngụ xã Xuân Khang) về việc bị kẻ gian chiếm đoạt số tiền 140 triệu đồng trong tài khoản.

Ông M. cho rằng để xảy ra sự việc trên là do hệ thống bảo mật của ngân hàng không tốt, hoặc có sự tiếp tay của nhân viên ngân hàng để kẻ xấu chiếm đoạt tài sản của ông. Dù ngân hàng đã giải thích rất kỹ và đề nghị ông kiểm tra lại các mối quan hệ gia đình xem có ai chiếm đoạt số tiền, tuy nhiên ông M. không tin mà đòi ngân hàng phải đền bù số tiền trên.

Ngay sau khi vụ việc xảy ra, Agribank chi nhánh huyện Như Thanh đã thông báo về đề nghị Công an huyện Như Thanh vào cuộc điều tra, làm rõ.

Bằng các biện pháp nghiệp vụ, Công an huyện Như Thanh xác định số tiền trong tài khoản của ông M. đã được chuyển qua một số tài khoản game có địa chỉ ở Hoài Đức (Hà Nội) và ở huyện Sông Lô, tỉnh Vĩnh Phúc.

Xác định đây là loại tội phạm sử dụng công nghệ cao nên sau nhiều ngày kiên trì, phối hợp lần theo các đầu mối, Công an huyện Như Thanh đã có đầy đủ tài liệu, chứng cứ kết luận Nguyễn Đình Tuấn (con ruột ông M.) là nghi phạm trộm 140 triệu đồng.

Tại cơ quan công an, bước đầu Nguyễn Đình Tuấn (hiện đang là sinh viên của một trường đại học ở Hà Nội) khai nhận trong thời gian nghỉ chống dịch Covid-19 ở nhà, Tuấn biết đến trò chơi game đánh bạc trực tuyến trên mạng Internet nên đã lợi dụng sự sơ hở của ông M. lấy mật khẩu rồi chuyển 140 triệu đồng vào 2 tài khoản để tham gia đánh bạc. 

Trộm tiền của bố xong, Tuấn đã xóa hết dấu vết khiến ông M. không biết vì sao mất tiền nên đã tới ngân hàng trình báo. 

Hiện vụ việc đang được Công an huyện Như Thanh tiếp tục điều tra, làm rõ.

Nam sinh viên có thể đối mặt với hai tội danh

Dưới góc độ pháp lý, Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho rằng với hành vi lén lút lấy tài sản của bố mình để chơi game online trên mạng internet thì nam sinh viên trong vụ án này có thể phải đối mặt với hai tội danh là tội "Trộm cắp tài sản" và tội "Đánh bạc".

Theo kết quả điều tra ban đầu, khi nam sinh viên này đã chơi bạc trên mạng internet với hình thức game online, thua bạc không có tiền nên đã nảy sinh ý định trộm cắp tiền từ trong tài khoản của bố mình để chuyển đến các tài khoản đánh bạc online trên mạng internet. Với kết quả xác minh ban đầu dựa trên tài liệu mà ngân hàng cung cấp, nội dung về việc chuyển khoản vào tài khoản nhận tiền, lời khai của người bị hại và lời khai của nam sinh viên thì cơ quan điều tra khởi tố vụ án hình sự về tội "Trộm cắp tài sản" theo Điều 173 Bộ luật Hình sự là có căn cứ, đúng pháp luật.

Pháp luật bảo vệ quyền sở hữu tài sản của mọi công dân, hành vi lén lút lấy tài sản thuộc quyền sở hữu hợp pháp của người khác là hành vi trộm cắp tài sản, đây là hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản trái pháp luật từ chủ sở hữu tài sản sang người khác. Hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản trái pháp luật, không đúng ý chí của chủ sở hữu xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản của công dân, bởi vậy, bất kể mối quan hệ giữa nạn nhân và đối tượng gây án là quan hệ ruột thịt hay chỉ là mối quan hệ xã hội thì hành vi chuyển quyền sở hữu tài sản lén lút, không có sự đồng ý của chủ sở hữu cũng là hành vi trộm cắp tài sản.

Với số tiền chiếm đoạt là 140.000.000 đồng thì nam sinh viên này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 07 năm theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 173 Bộ luật Hình sự.

Trong quá trình điều tra vụ án này, cơ quan điều tra cũng sẽ làm rõ nguyên nhân sự việc, truy thu số tiền mà bị can đã chiếm đoạt của nạn nhân đồng thời làm rõ hành vi game online có phải là hành vi đánh bạc trái phép trên mạng internet hay không. Nếu có căn cứ cho thấy có đối tượng đã tổ chức đánh bạc, tổ chức sát phạt ăn thua bằng tiền thì cơ quan điều tra sẽ tiếp tục khởi tố vụ án hình sự về tội "Tổ chức đánh bạc" và tội "Đánh bạc" theo quy định tại Điều 321 và Điều 322 Bộ luật Hình sự. Trong đó nam sinh viên này sẽ bị khởi tố thêm một tội danh nữa là tội "Đánh bạc" với chế tài có thể tới 07 năm tù. 

Tội "Trộm cắp tài sản" không thuộc trường hợp khởi tố vụ án theo yêu cầu của người bị hại, bởi vậy trường hợp người cha (người bị hại) trong tình huống này rút đơn tố cáo thì cơ quan điều tra vẫn tiếp tục giải quyết theo quy định pháp luật. Trường hợp người cha có đơn xin giảm hình phạt cho con trai mình và nhận một phần trách nhiệm thì đây chỉ là tình tiết giảm nhẹ để tòa án xem xét khi lượng hình.

TIẾN HƯNG

Thực trạng tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn

1. Hành vi tạt axit vào người khác sẽ bị xử lý như thế nào?

(LSVN) – Trong thời gian vừa qua, có rất nhiều vụ việc tạt axit vào người khác gây xôn xao dư luận xã hội. Vậy theo quy định của pháp luật, hành vi tạt axit vào người khác sẽ bị xử lý như thế nào? Bạn đọc K.Q. hỏi.

Ảnh minh họa.

Theo Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, hành vi dùng axit tạt vào người khác để trả thù, gây thương tích là hành vi rất tàn nhẫn, để lại hậu quả không chỉ là những tổn thương cơ thể cho nạn nhân mà còn ảnh hưởng đến thẩm mỹ, đến các chức năng vận động và đến các bộ phận, cơ quan khác trên cơ thể con người. Vì vậy hậu quả thương tích do axit gây ra luôn nghiêm trọng hơn các hình thức gây thương tích khác. Khi xử lý hình sự đối với các đối tượng sử dụng axit gây thương tích cho người khác thì cơ quan tố tụng thường sẽ áp dụng chế tài rất nghiêm khắc để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.

Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 đã có nhiều quy định mới về hành vi cố ý gây thương tích khi sử dụng axít hoặc hóa chất nguy hiểm. Theo đó hành vi sử dụng axit nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm thì dù thương tích chưa tới 11% cũng sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự. Nếu sử dụng axit nguy hiểm hoặc hóa chất nguy hiểm mà chưa thực hiện hành vi phạm tội thì cũng sẽ bị xử lý hình sự theo khoản 6 Điều 134 về tội “Cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác” với hành vi là chuẩn bị phạm tội.

Nếu tổng tỷ lệ thương tích của các nạn nhân từ 11% đến 30 % thì đối tượng sẽ bị xử lý theo khoản 2, Điều 134 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt là phạt tù từ 02 năm đến 06 năm. Trường hợp tổng tỷ lệ thương tích của các nạn nhân từ 31 đến 60% thì hình phạt sẽ là phạt tù từ 05 năm đến 10 năm. Trường hợp thương tích của các nạn nhân từ 61% trở lên thì hình phạt có thể tới 14 năm tù.

Tổng tỷ lệ thương tích của nạn nhân sẽ quyết định đến việc áp dụng khung khoản điều luật về tội “Cố ý gây thương tích”. Còn tỷ lệ thương tích của mỗi nạn nhân khác nhau cho thấy mức độ thiệt hại về sức khỏe của mỗi nạn nhân khác nhau, đây là căn cứ để tính thiệt hại, làm cơ sở để buộc đối tượng gây thương tích phải bồi thường thiệt hại cho các nạn nhân.

Ngoài việc bị xử lý hình sự thì người đàn ông này sẽ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại đối với các nạn nhân. Thiệt hại bao gồm chi phí cứu chữa, tiền thu nhập bị mất, bị giảm sút trong và sau khi điều trị, tiền công người chăm sóc và một khoản tiền bồi thường tổn thất về tinh thần do sức khỏe bị xâm hại. Cụ thể Điều 590 Bộ luật Dân sự quy định thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm bao gồm:

- Chi phí hợp lý cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khỏe và chức năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại;

- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút của người bị thiệt hại; nếu thu nhập thực tế của người bị thiệt hại không ổn định và không thể xác định được thì áp dụng mức thu nhập trung bình của lao động cùng loại;

- Chi phí hợp lý và phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại;

- Thiệt hại khác do luật quy định.

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp sức khỏe của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có sức khỏe bị xâm phạm không quá năm mươi lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

Chia sẻ thêm, Luật sư Cường cho biết, khi sửa đổi bổ sung Bộ luật Hình sự cũng có nhiều ý kiến cho rằng hành vi sử dụng axit để tạt vào người khác có thể xử lý về tội “Giết người”. Tuy nhiên cơ sở lý luận cũng như vậy thực tiễn để xử lý về tội “Giết người” trong tình huống này rất khó bởi tính chất nguy hiểm của axit cũng chỉ có thể gây ra thương tích cho nạn nhân. Trường hợp sử dụng bằng những cách thức nguy hiểm như dìm người trong axit hoặc có những phương thức thủ đoạn có thể dẫn đến chết người thì mới xử lý về tội “Giết người”. Còn đối với hành vi tạt, té axit vào người khác thì rất khó để chứng minh mục đích giết người hoặc hành vi có thể dẫn đến chết người. Trong trường hợp có căn cứ chứng minh hành vi có thể dẫn đến chết người thì mới có thể xử lý về tội “Giết người”.

Như vậy, ngoài trách nhiệm hình sự thì người có hành vi tạt axit vào người khác còn phải bồi thường toàn bộ thiệt hại cho các nạn nhân. Nếu hai bên không thỏa thuận được thì tòa án sẽ giải quyết trên cơ sở pháp luật. Khi có bản án có hiệu lực pháp luật thì các nạn nhân có quyền yêu cầu cưỡng chế thi hành án nếu người này không chấp hành.

TIẾN HƯNG

Cần xử lý nghiêm hành vi ly hôn giả để tẩu tán tài sản, trốn tránh nghĩa vụ dân sự

2. Hướng dẫn thủ tục thay đổi thông tin đăng ký thuế online

(LSVN) - Vừa qua, Bộ Tài chính đã có Công văn số 1604/TCT-KK ngày 16/5/2022 về tiếp nhận và giải quyết hồ sơ đăng ký thuế lần đầu, thay đổi thông tin đăng ký thuế của cá nhân không kinh doanh qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia có kết nối với cơ sở dữ liệu Quốc gia về dân cư.

Ảnh minh họa.

Theo đó, Mục II Phụ lục 01 Công văn này hướng dẫn người nộp thuế thay đổi thông tin đăng ký thuế trên Cổng dịch vụ công Quốc gia như sau:

Bước 1: Người nộp thuế (NNT) sử dụng tài khoản điện tử đã được cấp để đăng nhập vào Cổng dịch vụ công Quốc gia và chọn dịch vụ “Thay đổi thông tin đăng ký thuế”.

Bước 2: Cổng dịch vụ công Quốc gia định tuyến sang Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế.

Bước 3: Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế kiểm tra người nộp thuế đã có tài khoản giao dịch điện tử với cơ quan thuế chưa và thực hiện:

- Trường hợp người nộp thuế chưa có tài khoản giao dịch điện tử với cơ quan thuế: Hiển thị thông báo trên màn hình yêu cầu NNT đăng ký tài khoản giao dịch điện tử với cơ quan thuế theo quy định tại Thông tư 19/2021/TT-BTC.

- Trường hợp người nộp thuế đã có tài khoản giao dịch điện tử với cơ quan thuế: Hiển thị màn hình thay đổi thông tin đăng ký thuế để NNT khai thông tin điều chỉnh, bổ sung thông tin đăng ký thuế theo mẫu số 08-MST ban hành kèm theo Thông tư số 105/2020/TT-BTC.

Bước 4: Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế truy cập vào cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để truy vấn các thông tin của cá nhân:

- Trường hợp người nộp thuế có thay đổi số giấy tờ tùy thân: Truy vấn theo thông tin số giấy tờ mới như sau:

+ Trường hợp truy vấn thông tin trả về không có dữ liệu: Hiển thị thông báo “NNT nhập không đúng thông tin đề nghị nhập lại” trên màn hình.

+ Trường hợp truy vấn thông tin trả về có đầy đủ dữ liệu: Hiển thị các thông tin của cá nhân tại CSDL Quốc gia về dân cư lên tờ khai điều chỉnh, bổ sung thông tin đăng ký thuế mẫu số 08-MST.

- Trường hợp người nộp thuế không thay đổi số giấy tờ tùy thân: Truy vấn theo số giấy tờ cũ như sau:

+ Trường hợp truy vấn thông tin trả về không có dữ liệu: Hiển thị thông báo “Thông tin NNT không có trên Cơ sở DLQG về dân cư, NNT liên hệ cơ quan công an để cập nhật thông tin vào Cơ sở DLQG về dân cư” trên màn hình. Đồng thời, cho phép người nộp thuế nhập thông tin điều chỉnh, bổ sung để tiếp tục thực hiện thủ tục thay đổi thông tin.

+ Trường hợp truy vấn thông tin trả về có đầy đủ dữ liệu: Hiển thị các thông tin của cá nhân tại CSDL Quốc gia về dân cư lên tờ khai điều chỉnh, bổ sung thông tin đăng ký thuế mẫu số 08-MST.

+ Trường hợp CSDL Quốc gia về dân cư trả về số giấy tờ mới khác số giấy tờ cũ: Hiển thị thông báo: “Yêu cầu NNT thay đổi giấy tờ cá nhân” để người nộp thuế khai thay đổi số giấy tờ tùy thân.

Bước 5: Người nộp thuế kiểm tra các thông tin đã được điền sẵn trên tờ khai điều chỉnh, bổ sung thông tin đăng ký thuế mẫu số 08-MST và bổ sung các thông tin khác không có trong CSDL Quốc gia về dân cư nếu có thay đổi (ngày cấp, nơi cấp, email, số điện thoại).

Trường hợp thông tin điền sẵn trên tờ khai đăng ký thuế khớp đúng với thông tin của cá nhân thì thực hiện bước 6.

Trường hợp thông tin điền sẵn trên tờ khai đăng ký thuế không khớp đúng với thông tin của cá nhân: Hệ thống hiển thị thông báo “Người nộp thuế không nộp hồ sơ đến cơ quan thuế và liên hệ với cơ quan công an cấp Phường/Xã nơi cá nhân đăng ký thường trú để được hướng dẫn điều chỉnh thông tin” và không cho người nộp thuế nộp hồ sơ.

Bước 6: Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế kiểm tra các quy tắc nghiệp vụ về thông tin nhận từ cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư và thông tin người nộp thuế kê khai hồ sơ.

- Trường hợp hồ sơ đăng ký thuế điện tử của người nộp thuế được nộp cho cơ quan thuế thành công, Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế gửi Thông báo về việc tiếp nhận hồ sơ đăng ký thuế điện tử (mẫu số 01-1/TB-TĐT ban hành kèm theo Thông tư số 19/2021/TT-BTC) cho người nộp thuế trong thời hạn chậm nhất 15 phút kể từ thời điểm người nộp thuế nộp hồ sơ đăng ký thuế bằng điện tử, đồng thời phản hồi trạng thái “Hồ sơ được bộ phận một cửa trên hệ thống Cổng DVC, MCĐT Bộ ngành địa phương tiếp nhận để thụ lý” cho Cổng dịch vụ công Quốc gia. Thực hiện tiếp bước 7.

- Trường hợp thông tin chưa đúng về các quy tắc nghiệp vụ, Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế thực hiện cảnh báo trên màn hình khai hồ sơ đăng ký thuế để người nộp thuế hoàn thiện hồ sơ trước khi nộp hồ sơ đăng ký thuế bằng điện tử.

Bước 7: Cổng thông tin điện tử của Tổng cục Thuế lưu hồ sơ đăng ký thuế bằng điện tử đã nộp thành công, đồng thời tự động chuyển thông tin về hồ sơ đăng ký thuế bằng điện tử của người nộp thuế vào hệ thống TMS ngay sau khi người nộp thuế nộp hồ sơ đăng ký thuế bằng điện tử thành công.

HÀ ANH

Pháp nhân theo Bộ luật Dân sự năm 2015: Bất cập và định hướng hoàn thiện

3. Quyền im lặng trong tố tụng hình sự dưới góc nhìn so sánh

(LSVN) - Quyền im lặng “right to remain silent” là quyền con người được thừa nhận trong pháp luật tố tụng hình sự của nhiều quốc gia trên thế giới. Trong pháp luật của nước Mỹ, án lệ nổi tiếng từ vụ án Miranda v. Arizona năm 1966 đã thiết lập quyền của người bị buộc tội có quyền im lặng. Bộ luật Tố tụng hình sự Việt Nam năm 2015 lần đầu tiên quy định về nội dung quyền im lặng của những người bị buộc tội. Bài viết này sẽ tập trung phân tích bản chất quyền im lặng trong pháp luật tố tụng hình sự dưới góc nhìn so sánh. 

Ảnh minh họa.

Quyền im lặng dưới góc nhìn so sánh

Quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ là một nội dung của quyền con người có tính hiến định. Tuy nhiên, Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787 và các Tu chính án không có một thuật ngữ pháp lý nào về quyền im lặng (right to remain silent). Thực chất, quyền im lặng là một quyền pháp lý trong tố tụng hình sự Hoa Kỳ được tạo ra trong án lệ của Tòa án tối cao liên bang Hoa Kỳ có tên gọi Miranda v. Arizona, 384 U.S. 436 (1966).

Vụ án Miranda v. Arizona có tình tiết bị cáo Miranda bị bắt về tình nghi thực hiện tội phạm bắt cóc và hiếp dâm đã tự nhận tội trong quá trình thẩm vấn. Bị cáo Miranda đã không được thông báo có quyền được im lặng, quyền mời luật sư trợ giúp, quyền được có luật sư chỉ định khi bị bắt và giam giữ. Đây là sự vi phạm pháp luật trong quá trình tố tụng. 

Có thể hiểu quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ theo những khía cạnh sau:

Thứ nhất, đây là một quyền con người trong tư pháp hình sự xuất phát từ Hiến pháp Hoa Kỳ năm 1787, cụ thể là Tu chính án thứ V(1). Quyền này được giải thích bởi Tòa án tối cao Mỹ trong vụ Miranda v. Arizona.

Thứ hai, trong tố tụng hình sự, cơ quan điều tra phải thông báo quyền im lặng cho người bị buộc tội rằng họ có quyền được im lặng khi xét hỏi, người bị buộc tội có quyền mời luật sư trước khi hoạt động thẩm vấn được thực hiện, người bị buộc tội có quyền tự nguyện từ bỏ quyền này.

Thứ ba, mọi sự tự nhận tội của người bị buộc tội đều không có ý nghĩa là chứng cứ hợp pháp trước tòa khi quyền im lặng bị của họ bi vi phạm, khi trình tự thủ tục tố tụng không hợp pháp “without due process of law”(2). 

Án lệ Miranda v. Arizona đã tạo ra thủ tục tố tụng hình sự bắt buộc trong pháp luật Hoa Kỳ gắn với quyền im lặng của người bị buộc tội(3). Cảnh báo Maranda được thiết lập từ án lệ này là nghĩa vụ của cảnh sát, điều tra viên phải thông báo cho người bị buộc tội biết trước khi thẩm vấn nội dung: “Ông/bà (người bị buộc tội) được quyền im lặng, bất cứ điều gì ông/bà nói có thể là chứng cứ chống lại ông/bà trước tòa án. Ông/bà được quyền mời luật sư trợ giúp ông/bà trước và trong suốt quá trình thẩm vấn nếu ông/bà muốn. Nếu ông/bà không có khả năng mời luật sư, ông/bà được quyền nhận sự trợ giúp của luật sư chỉ định trước khi bắt đầu cuộc thẩm vấn. Ông/bà có tự nguyện thực hiện việc trả lời việc thẩm vấn hay không?”(4). Thủ tục cảnh báo Miranda (quyền im lặng) đã trở thành điều kiện không thể thiếu trong hoạt động của cảnh sát ở Mỹ để bảo vệ quyền con người của người bị buộc tội. Thủ tục Miranda đã thực sự trở thành một phần trong văn hóa pháp lý của Mỹ và nó thỉnh thoảng được thể hiện trên tivi và phim ảnh(5).

Tương tự trong pháp luật của Liên minh châu Âu, gần đây Chỉ thị 2012/13/EU của Nghị viện châu Âu ghi rõ là nhà cầm quyền phải thông báo ngay lập tức cho những người bị tình nghi, bị buộc tội, bằng lời nói hay qua giấy tờ với ngôn từ đơn giản và dễ hiểu về quyền im lặng không phải khai báo của họ. Thông báo phải xảy ra vào đúng thời điểm, để nghi phạm, hay người bị buộc tội có thể ứng dụng quyền này. Chỉ thị này phải được đưa vào luật quốc gia trong các nước Liên minh châu Âu muộn nhất ngày là ngày 02/6/2014(6).

Hiện nay trong luật của Hoa Kỳ và một số nước ở châu Âu, quyền im lặng không được hiểu độc lập chỉ liên quan đến hành vi im lặng của người bị buộc tội khi bị thẩm vấn. Nên nhận thức quyền im lặng là quyền con người của người bị buộc tội trong tố tụng hình sự gồm một nhóm quyền có mối quan hệ không thể tách rời nhau gồm: quyền được thông báo tới người bị buộc tội họ được quyền giữ im lặng khi bị thẩm vấn (right to remain silent), quyền được thông báo được mời luật sư trước khi người bị buộc tội bị thẩm vấn trong suốt quá trình tố tụng, quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội. Khi quyền im lặng bị vi phạm thì người bị buộc tội nhận tội (self incrimination) không được coi là chứng cứ. Trong tố tụng hình sự, nghĩa vụ chứng minh luôn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.

Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966(7) tại khoản 2 Điều 14 quy định: “Người bị cáo buộc là phạm tội có quyền được coi là vô tội cho tới khi hành vi của người phạm tội đó được chứng minh theo pháp luật”; khoản 3 Điều 14 quy định “Trong quá trình xét xử về một tội hình sự, mọi người đều có quyền được hưởng một cách đầy đủ và hoàn toàn bình đẳng những bảo đảm tối thiểu sau: (d) được có mặt trong khi xét xử và được tự bào chữa hoặc thông qua sự trợ giúp pháp lý theo sự lựa chọn của mình; được thông báo về quyền này nếu chưa có sự trợ giúp pháp lý; (g) không bị buộc phải đưa ra lời khai chống lại hoặc buộc phải nhận là mình có tội”.

Như vậy, có thể nói quyền im lặng là quyền con người được thừa nhận trong pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia của nhiều nước trên thế giới.

Quyền im lặng trong pháp luật tố tụng hình sự Việt Nam

Cho đến nay, nguyên văn thuật ngữ quyền im lặng không được đưa vào văn bản quy phạm pháp luật của hệ thống pháp luật Việt Nam. Nhưng nội dung của quyền im lặng đã đầu tiên được quy định trực tiếp trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 (BLTTHS 2015)(8). Có thể nói việc quy định quyền im lặng là một bước tiến lớn trong việc bảo vệ quyền con người và thực hiện trình tự xét xử công bằng trong tố tụng hình sự. Đây cũng là một minh chứng cho sự tiếp nhận những tiến bộ trong văn hóa pháp lý nước ngoài vào việc hoàn thiện pháp luật về quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự ở Việt Nam.

Thứ nhất, Hiến pháp Việt Nam năm 2013 mặc dù không đưa ra thuật ngữ về quyền im lặng, nhưng nhiều nguyên tắc bảo đảm quyền con người trong Hiến pháp năm 2013 khẳng định những quyền con người trong tố tụng hình sự gắn với quyền im lặng gồm: quyền suy đoán vô tội (khoản 1 Điều 31); người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa ( khoản 4 Điều 31); quyền bào chữa của bị can, bị cáo trong xét xử (khoản 7 Điều 103). Hệ thống pháp luật Việt Nam không thuộc truyền thống thông luật, án lệ hiện nay được coi là nguồn bổ trợ cho nguồn luật văn bản quy phạm pháp luật(9). Nếu như quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ gắn với án lệ Miranda v. Arizona với sự giải thích Hiến pháp Hoa Kỳ của Tòa án tối cao liên bang, thì nội dung của quyền im lặng ở Việt Nam trong tố tụng hình sự hiện nay dựa trên những quy định về quyền con người của Hiến pháp năm 2013, của BLTTHS 2015 và các luật có liên quan.

Thứ hai, BLTTHS  2015 quy định quyền im lặng dành cho người bị buộc tội, gồm bốn chủ thể pháp lý khác nhau, bao gồm: người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo(10) được thông báo và giải thích về quyền và nghĩa vụ. Theo đó, trong quá trình tham gia tố tụng, tất cả các đối tượng trên đều có quyền được thông báo giải thích về quyền và nghĩa vụ, gồm quyền “trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội”(11). Nội dung này tương tự như nội dung quyền im lặng trong pháp luật Hoa Kỳ xuất phát từ án lệ Miranda v. Arizona.

Thứ ba, quyền im lặng trong quy định của BLTTHS 2015 được bảo đảm thực tế gắn với các quyền của người bị buộc tội gồm: quyền được mời luật sư hoặc người khác bào chữa, quyền suy đoán vô tội (Điều 13); trách nhiệm chứng minh tội phạm thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng (Điều 15); quyền được bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội (Điều 16). Điều 74 BLTTHS 2015 quy định “Người bào chữa tham gia tố tụng từ khi khởi tố bị can. Trường hợp bắt, tạm giữ người thì người bào chữa tham gia tố tụng từ khi người bị bắt có mặt tại trụ sở của cơ quan điều tra, cơ quan được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra hoặc từ khi có quyết định tạm giữ”. BLTTHS 2015 còn quy định chi tiết những bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện quyền im lặng của nhóm người bị buộc tội. Tại khoản 1 Điều 87 quy định về nguồn chứng cứ. Theo đó, những gì có thật, nhưng không được thu thập theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì không có giá trị pháp lý và không được dùng làm căn cứ để giải quyết vụ án hình sự. Một điểm mới nữa của BLTTHS 2015 là khoản 6 Điều 183 quy định mọi cuộc hỏi cung diễn ra trong cơ sở tạm giữ hoặc tại trụ sở của cơ quan điều tra đều phải được ghi âm hoặc ghi hình có âm thanh. Việc ghi âm, ghi hình này không chỉ nhằm bảo vệ quyền của bị can, mà còn bảo vệ phía cơ quan điều tra trước các khiếu nại, tố cáo. Trong trường hợp có bất kỳ sự cáo buộc nào về việc vi phạm quyền im lặng, quyền được thông báo quyền hoặc việc sử dụng nhục hình trong hoạt động lấy lời khai, thẩm phán có thể dựa vào các tệp hình ảnh, âm thanh này để đánh giá tính hợp pháp của lời khai(12).

Kết luận

Quyền lặng trong pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta không nên chỉ hiểu đơn thuần theo quyền mà pháp luật trao cho người bị buộc tội quyền giữ im lặng với tư cách là người tham gia tố tụng. Quyền im lặng của người bị buộc tội là tổng hợp các quyền được bảo đảm bởi pháp luật gồm: quyền được thông báo, giải thích về quyền và nghĩa vụ của người bị buộc tội, quyền được trình bày lời khai, trình bày ý kiến, không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình hoặc buộc phải nhận mình có tội, quyền tự bào chữa, hoặc nhờ người khác bào chữa và quyền của người bị buộc tội có quyền nhưng không buộc phải chứng minh là mình vô tội. Nghĩa vụ chứng minh trong tố tụng hình sự thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng.

Để thực hiện triệt để hơn nữa quyền im lặng của người bị buộc tội trong pháp luật tố tụng hình sự ở nước ta, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng cần áp dụng chính xác, đầy đủ các quy định của pháp luật tố tụng hình sự, trong đó có các quy định liên quan đến nội dung quyền im lặng của người bị buộc tội. Toàn bộ hoạt động tố tụng hình sự, các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng, cơ quan và người được giao nhiệm vụ tiến hành một số hoạt động điều tra cần phải áp dụng đúng pháp luật để bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội gồm có quyền im lặng.

(1) Tu chính án thứ V của Hiến pháp Hoa Kỳ 1787 có hiệu lực năm 1791 với các nội dung quyền gồm: truy tố; tiến trình xét xử; tự nhận tội; không truy tố cùng một tội hai lần (double jeopardy) và những luật lệ về trưng thu (eminent domain).

(2) Được hiểu là trình tự thủ tục tố tụng hợp pháp.

(3) Nguyễn Văn Nam, (2012), Lý luận và thực tiễn về án lệ trong hệ thống pháp luật của các nước Anh, Mỹ, Pháp, Đức và những kiến nghị đối với Việt Nam (sách chuyên khảo), Nxb Công an nhân dân, tr 189.

(4) Nguyên gốc nội dung tiếng Anh cảnh báo Maranda là “You have the right to remain silent. Anything you say can and will be used against you in a court of law. You have the right to an attorney. If you cannot afford an attorney, one will be provided for you. Do you understand the rights I have just read to you? With these rights in mind, do you wish to speak to me?”, http://www.mirandawarning.org/whatareyourmirandarights.html

(5) Mortimer N.S. Seller, The Doctrine of Precedent In The United States of America, 54 Am.J.Comp. L.67, 2006.

(6) Trần Văn Hùng, Bảo đảm quyền im lặng của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử.

(7) Việt Nam đã gia nhập Công ước này năm 1992.

(8) Võ Minh Kỳ, Quyền im lặng của người bị buộc tội và các bảo đảm pháp lý trong tố tụng hình sự, Tạp chí Nghiên cứu lập pháp số tháng 7/2018. Nguồn: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/nghien-cuu/bao-dam-quyen-im-lang-cua-bi-cao-trong-xet-xu-vu-an-hinh-su

(9) Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP ngày 18/6/2019 của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ.

(10) Điểm đ khoản 1 Điều 4 BLTTHS 2015.

(11) Điểm c, d khoản 1 Điều 58; điểm b, c khoản 2 Điều 59; điểm b, d khoản 2 Điều 60; điểm c, h khoản 2 Điều 61 BLTTHS 2015.

(12) Võ Minh Kỳ, tài liệu đã dẫn.

TIẾN SĨ NGUYỄN VĂN NAM

Phó Trưởng khoa Luật, Học viện An ninh nhân dân

Thực trạng tranh chấp về nuôi con và cấp dưỡng nuôi con sau khi ly hôn

4. Cần đảm bảo an toàn tại các bãi xe vi phạm giao thông

(LSVN) – Để đảm bảo an toàn tại các bãi giữ xe là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của Cảnh sát giao thông hiện nay, ngoài thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống cháy nổ theo quy định thì phải thực hiện tốt việc bảo quản phương tiện vi phạm, không để tình trạng trộm cắp tài tài sản xảy ra.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, nhiều xe máy trong bãi giữ xe vi phạm ngoài trời của Công an phường Tân An, TP. Thủ Dầu Một (Bình Dương) đã bị cháy trơ khung, hư hỏng trong vụ hỏa hoạn xảy ra sáng 22/5. Theo báo cáo ban đầu, vụ cháy xảy ra vào khoảng 10h30 cùng ngày, ngọn lửa bất ngờ bùng phát tại bãi giữ xe rộng khoảng 80m2 khiến hơn 100 xe máy đang bị tạm giữ tại đây bị cháy trơ khung, hư hỏng. Trước đó, ngày 30/03/2021, một đám cháy lớn xảy ra tại bãi xe trên đường Thống Nhất, phường Bình Thọ do Cảnh sát giao thông TP. Thủ Đức (TP. HCM) quản lý. Bãi xe này là khu vực kho giữ xe vi phạm giao thông, tang vật của Cảnh sát giao thông TP. Thủ Đức. Nhiều tài sản, xe máy bị thiêu rụi, may mắn không có thiệt hại về người. Nguyên nhân vụ cháy và thiệt hại đang được cơ quan chức năng điều tra.

Theo khoản 5 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, được sửa đổi bởi điểm a, khoản 64 Điều 1 Luật Xử lý vi phạm hành chính sửa đổi 2020 (có hiệu lực từ ngày 01/01/2022) quy định: "Người lập biên bản tạm giữ, người ra quyết định tạm giữ có trách nhiệm bảo quản tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề. Trong trường hợp tang vật, phương tiện vi phạm hành chính, giấy phép, chứng chỉ hành nghề bị mất, bán trái quy định, đánh tráo hoặc hư hỏng, mất linh kiện, thay thế thì người ra quyết định tạm giữ phải chịu trách nhiệm bồi thường và bị xử lý theo quy định của pháp luật.". Như vậy, người trực tiếp quản lý, bảo quản phương tiện phải chịu trách nhiệm trước pháp luật và người ra quyết định tạm giữ phương tiện.

Bên cạnh đó, việc xử lý hậu quả do đám cháy gây ra rất phức tạp, do tài sản chủ yếu là phương tiện bị tạm giữ chờ người vi phạm xử lý hoặc phương tiện đã bị tịch thu chờ bán đấu giá sung công quỹ nhà nước hoặc phương tiện đó là tài sản vô chủ đang chờ xác minh,... Vụ cháy không chỉ gây thiệt hại cho các chủ phương tiện mà còn thiệt hại tài sản của Nhà nước, làm mất an ninh, trật tự tại địa phương. Hiện nay, các lực lượng chức năng đang thống kê thiệt hại, bồi thường theo quy định; đồng thời, xác định trách nhiệm của cơ quan, tổ chức và cá nhân có liên quan để có hướng xử lý cụ thể.

Một vấn đề đặt ra đó là việc quản lý tại các bãi giữ xe là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính hiện nay còn lỏng lẻo, công tác phòng cháy, chữa cháy chưa được quan tâm đúng mức. Việc phân loại, xử lý đối với phương tiện vi phạm bị tịch thu bán đấu giá sung công quỹ nhà nước chưa được kịp thời; phương tiện vi phạm bị tạm giữ không được bảo quản tốt nên giảm sát chất lượng; chưa có quy định rút ngắn thời gian xử lý đối với phương tiện khi chủ phương tiện không phối hợp giải quyết vụ việc vi phạm hành chính…

Bên cạnh đó, với mức phạt rất nặng đối với hành vi vi phạm nồng độ cồn theo Nghị định số 100/2019/NĐ-CP ngày 31/12/2019 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ và đường sắt, thì người vi phạm có xu hướng bỏ phương tiện và không chấp hành việc nộp phạt có chiều hướng gia tăng; phương tiện bỏ lại chủ yếu là xe mô tô, xe gắn máy hoặc xe độ chế; giá trị phương tiện thường thấp hơn so với mức xử phạt. Các phương tiện này đều được đưa về các bãi tạm giữ để chờ xử lý.

Do số lượng phương tiện bị tạm giữ gia tăng đột biến nên gây áp lực cho Cảnh sát giao thông trong việc bố trí nơi tạm giữ phương tiện. Việc trông giữ phương tiện với số lượng lớn có nguy cơ xảy ra cháy nổ và trộm cắp tài sản; phương tiện tạm giữ lâu ngày sẽ bị hoen rỉ, giám sút chất lượng. Nhiều phương tiện hư hỏng đến mức không thể phục hồi. Khi hết thời hạn tạm giữ, người vi phạm không đến nộp phạt và nhận lại phương tiện thì người có thẩm quyền xử phạt phải ban hành quyết định tịch thu phương tiện, bán đấu giá để sung công quỹ Nhà nước. Khi tổ chức bán đấu giá thì giá trị của các phương tiện đã giảm sút, nhiều phương tiện chỉ quy đổi thành sắt vụn để bán đấu giá. Do đó, số tiền thu lại từ việc bán đấu giá các phương tiện bị tịch thu thường rất thấp.

Để đảm bảo an toàn tại các bãi giữ xe là tang vật, phương tiện vi phạm hành chính của Cảnh sát giao thông hiện nay, ngoài thực hiện tốt các biện pháp phòng, chống cháy nổ theo quy định thì phải thực hiện tốt việc bảo quản phương tiện vi phạm, không để tình trạng trộm cắp tài tài sản xảy ra.

Đồng thời, giảm tải số lượng phương tiện bị tạm giữ tại các bãi giữ phương tiện vi phạm bằng cách thường xuyên phân loại, tịch thu, tiến hành ngay việc định giá và tổ chức bán đấu giá phương tiện để sung công quỹ nhà nước, nhất là những phương tiện mà người vi phạm cố tình bỏ lại để trốn tránh việc xử lý vi phạm; phương tiện tham gia đua xe trái phép hoặc những phương tiện mà chủ sở hữu không đến giải quyết theo yêu cầu sau khi đã thực hiện đầy đủ trình tự, thủ tục theo quy định và đã thông báo đến chủ sở hữu phương tiện vi phạm,… Có như vậy, mới giảm áp lực và đảm bảo an toàn tại các bãi xe vi phạm giao thông hiện nay.

ĐỖ VĂN NHÂN

Trộm cắp tài sản ở nơi công cộng: Không thể xem nhẹ!

5. 

Admin