TRỰC

05/02/2022 03:04 |

(LSVN) -

1. Anh đi tìm em

(LSVN) - Tại phum Xa Đao, tỉnh Kong Phông Chàm vào một đêm cuối tháng 12 năm 1972. Trên chiếc xe bò có 2 bọc tăng ni lông dày quần bằng những sợi dây một cách vội vã, con bò gầy gò kéo trên chiếc xe có 2 bánh to đoạn đường đất đỏ gồ ghề với người điều khiển là 1 thanh niên chừng hơn 30 tuổi có khuôn mặt khắc khổ đầu quấn chiếc khăn rằn đi theo sau là 2 người vội vã bước theo. Xe bò đi đến cuối phum đầu mối rẽ vào các ngả rừng thì dừng lại và 2 bọc ni lông đó được 3 người khiêng đặt vào hố đã đào sẵn sâu chừng 50 phân và sau đó được đắp cao trông như một đụm đất. Công việc xong mỗi người lặng lẽ dời khỏi nơi đây. Đây là hình ảnh chôn cất liệt sỹ quân tình nguyện Việt Nam tại thôn Xa Đao trên đất bạn Campuchia.

Ảnh minh họa.

Cuối 1973 tình hình chiến sự đã bớt căng thẳng đơn vị rút về Việt Nam. Chúng tôi rẽ thăm 2 phần mộ trên và nghĩ rằng sẽ sớm nhất khi miền Nam được giải phóng sẽ đưa các anh về đất mẹ nhưng không ngờ hơn 40 năm sau các anh mới được người thân trong gia đình và K70 đón về quê hương.

Ở phần chuyện này tôi chỉ kể việc vượt qua khó khăn mọi mặt trong đời sống xã hội sau chiến tranh của một người anh đi tìm phần mộ của người em trai mình trên đất bạn Campuchia.

Đến bến đò huyện Đầm Hà tôi hỏi dò đường đi đến đảo Cái Chiên thì người dân ở đây cho biết 1 tuần chỉ có 2 chuyến ra đảo vào thứ 3 và thứ 6 hàng tuần mà phải đăng ký trước, thế là ý định ra đảo của tôi về gia đình anh Phạm Xuân Thọ không thành. Tôi viết vội ít dòng ngắn ngủi cho gia đình, báo tin ngày anh hy sinh và địa chỉ của tôi. Cũng may rủi thôi nhưng cái may mắn đã đến.

Nhưng phải 6 tháng các tin tức mới liên lạc được. Người biết tin ấy đầu tiên lại là anh Khẩn em bà con làm việc ở Viện Kiểm sát huyện Đầm Hà nay là huyện Hải Hà tỉnh Quảng Ninh.

Lúc đưa tin của tôi thông báo anh Công người anh trai cả của anh Phạm Xuân Thọ đã liên lạc hỏi han và hẹn nhờ tôi dẫn đi tìm em trai. Anh Công cho biết cha mẹ mất sớm từ năm 1970, gia đình không làm nghề cá nữa chuyển vào đất liền, vợ Thọ đã đi lấy chồng, trước khi mất cha chỉ dặn nếu em có sao thì cố gắng lo liệu. Do bị bệnh hiểm nghèo vợ anh Công ra đi khi mới ngoài 40 tuổi phải lo nuôi sống 5 đứa con trong đó 2 đứa con của liệt sỹ Thọ còn nhỏ. Sau đó thương cảnh gia đình gà trống nuôi con cô Hợp một giáo viên tiểu học đã kết nối chung sức cùng anh muôi 5 đứa con và một con chung của 2 người.

Cũng như mọi người tôi luôn nghĩ sớm muộn gì phần việc đón anh Thọ chỉ 1 sớm 1 chiều. Nhưng thời gian như không đợi ai. Qua 1 số người bạn được đưa ra Bắc chữa bệnh trước 1975 nghe tin người em đã mất ở mặt trận phía Nam thông tin về liệt sỹ chỉ được biết ngắn gọn.

Như không thể nào chịu được tuổi ngày càng cao, bệnh gút hoành hành, gia cảnh khó khăn chồng chất, lương công nhân mỏ không được bao nhiêu, sau hơn 40 năm với nỗi khắc khoải chờ em trai về không được. Anh đã bàn với vợ bán con lợn chừng 40 kg với ít vốn tiết kiệm anh đã đi xe lửa vào thành phố Hồ Chí Minh liên lạc với đơn vị cũ ông Trương Thành Hỷ nay đã gần 90 tuổi người thủ trưởng trực tiếp của đơn vị với mong muốn giúp đỡ đón em về. Đơn vị đã cử anh Ra người có mặt cùng thời năm 1964 với anh Thọ tìm đường sang Campuchia, tỉnh Kong Phông Chàm. Nơi có phần mộ của anh Thọ cảnh vật không thay đổi nhiều nhưng cư dân sinh sống ở đây hơn 40 năm thì quá thay đổi, lớp bị lính Phôn Phốt giết, lớp di dân tự do, lớp trước thân với bộ đội Việt Nam phiêu dạt khắp nơi, trinh sát không nắm, tìm không được anh Ra đã bỏ mất rất nhiều công sức cùng K72 tỉnh đội Tây Ninh đơn vị quy tập liệt sỹ tìm không thấy, bộ đội tìm nửa tháng thì rút về.

Là chàng trai vùng biến anh Thọ to khỏe vạm vỡ anh đã lọt vào mắt xanh của cô gái cùng trên đảo và sinh được 2 người con trai là Hùng và Khâu. Khi anh đi B năm 1964 hai con ở với bác Công lúc mẹ đi lấy chồng. Khi giải phóng hi vọng tìm mong ngóng cha mình cháu đã lên tàu hỏa đi tìm mộ cha không có tiền cháu phải đi chui, vì trốn bác đi tìm cha khi đói khát cháu chui vào toa tàu chở dưa hấu lấy trộm để ăn cho đỡ đói, vật vã mãi cháu cũng về đến Sài Gòn. Không nghề nghiệp, học chưa hết cấp 2 Hùng đi vác thuê gạo ở cảng Sài Gòn, lúc này tuổi thanh niên 17, 18 lại siêng năng chịu khó, có cô gái cùng xóm trọ đang đi học thầm yêu, kẻ không nhà, không người thân Hùng đã được cô gái đồng ý làm vợ, phải mất 2 năm sau cô Tân là vợ Hùng mới tới tuổi kết hôn. Còn Khâu em Hùng đã được xuất ưu tiên con liệt sỹ, được xuất khẩu lao động đi Liên Xô hết hạn về nước cũng chỉ được 1 số bàn là tủ lạnh và mấy bộ quần áo ấm xứ lạnh. Khi về nước thì giống mây bạn Nga thích uông rượu và bị vợ bỏ khi ở tuổi ngoài 50.

Để có chi phí khi đi tìm em lần 2 anh Công đã chắt chiu vất vả cùng với vợ dậy sớm lo nước uống, nhà cửa, cho trường tiểu học 1 tháng thường được khoảng 3 triệu, con dâu vợ Khâu chăm ngoan góp tiên cho cha một ít, con gái và con trai anh Công biết được mong muốn của cha khi tuổi xế chiều đã khắc khoải tìm em đã lo từ những món quà nhỏ như gói trà, cân mực khô, và cả những lá bùa, những nén nhang, những bức chân dung của người đã khuất tất cả gom góp làm lộ trình đi tìm em.

Vào mùa khô năm 2017 vào đầu tháng 5 tôi đang phải lo một số công việc ở cơ quan thì được điện thoại của anh Công báo tin chú lên gấp Bình Phước để đi tìm mộ liệt sỹ Thọ với K72. Sau 3 ngày tôi có mặt ở đây. Tại trạm đón tiếp thân nhân gia đình của K72 đó là một dãy nhà được xây dựng dưới tán rừng cao su cấp 4 muỗi nhiều như vợ được, anh em ở trạm đã cho mượn mùng, võng nhưng không lại được với muỗi, do ở vị trí ở xa thị xã nên điện mỗi đêm ngưng đến 4,5 lần, người đẫm mô hôi. Được 2 ngày thì được chỉ huy K72 nói vùng Kong Phông Chàm hiện có K70 đi tìm và xác định phần mộ chí, chúng tôi gồm 3 người, Hùng, anh Công và tôi đi tỉnh đội Tây Ninh. Khi vào tỉnh đội Tây Ninh thì được nơi đây thông báo mai đội có 1 xe ô tô đi sau lên bố trí cho 3 người đi theo vì đơn vị đã đi trước đó.

Để đảm bảo toàn lực lượng đơn vị đóng ở khu rừng cách phum Xa Đao huyện, tỉnh Căm Phông Thơm nhưng bọn do thám đã phát hiện ra nơi đây là nơi đặt trạm gặp gỡ của các đơn vị bộ đội, phum Xa Đao ước chừng có đến 50 nóc nhà, đồng bào tất cả đều là người Campuchia và người Chăm sống bằng nghề trồng chuối, cam và đậu nành. 9 giờ sáng ngày 20 tháng 12 năm 1972 người ta thấy từ xa có 1 tốp máy bay gồm 6 chiếc trực thăng của quân đội Sài Gòn xuất hiện. Máy bay bay rất thấp chúng thả quà cho dân là chiếc radio nhỏ, ngoài bánh kẹo truyền đơn và loa phát thanh bằng tiếng Việt và Campuchia nhưng chỉ ít phút sau dân dời nhà ra xem và nhận quà nó bắn rốc két vào đám người dân vô tội ngơ ngác. Máy bay thấp người ta thấy cả người trên máy bay tô công tác 4 người trú tại thôn trong nhà dân dùng AK bắn để bảo vệ máy móc phương tien. Địch phát hiện có hỏa lực ở mặt đất nên đã bắn rốc két vào nơi 4 chiến sỹ Thiện, Giản, Chuyền, Thọ, do ở gần miệng hầm anh Thọ và Chuyển đã hy sinh tại chỗ. Sau chừng gần 1 giờ đồng hồ xóm làng tan nát tiếng gào khóc thảm thiết, Sau khi im tiếng súng bọn thám báo ngụy Sài Gòn đến thu thập tin tức, sợ địch phát hiện đơn vị ở gần đến tối đó mới cử người ra phum nắm tình hình kịp thời bổ sung quân số. Sáng sớm hôm sau phân đội lại lên đường phục vụ bộ đội chiến dịch Chen La 2.

Xe chạy liên tục bắt kịp đội hình K70 đến khoảng 5 giờ chiều đội hình đơn vị tập kết tại 1 ngôi chùa cách phum Xa Đao chừng 2 km. Thời gian vật đổi sao dời nhưng trên sa bàn của đơn vị thì 2 phần mộ này gần suối ngã 5 rẽ vào phum kế bên và khu đất rừng có các đơn vị bộ đội ta và Campuchia, thời còn hòa hảo với Việt Nam. Tìm không thấy dầu vết gì, ba ngày sau trinh sát cộng với dân vận thì có tin quan trọng của người dân cho biết ở Kong Phông Thơ Mo có một bác lớn tuổi cụt chân, một người báo tin là có 2 phần mộ bộ đội được dân chôn ở xung quanh phum gần đổi cao su giáp với rừng già, một người cho biết có biết phum máy bay bắn phá.

Campuchia theo chế độ quân chủ quận đội Hoàng Gia ông trưởng phum có xe con đi vào khu đóng quân của bộ đội Việt Nam và triệu tập dân đến nhờ ai biết dẫn đi. Sau khi xem xét rồi vận động dân nói về những ngày phum bị bắn phá thì có tin ở bìa phum cách đây chừng 2 năm có một cặp vợ chống trẻ khi làm rẫy đã cày phát hiện ra 1 rồi 2 bọc tăng đã khô cứng vướng vào lưỡi cày họ đã gom lại cả gốc cây khô cùng 2 bó tăng đốt cùng, phần cốt còn lại họ đào 1 hố dài đổ đất xuống đó. Khi gặp họ đã chỉ chỗ chôn nhưng phần hào nghi là có cốt thì phần lớn căn nhà đã được xây dựng lên nếu dỡ nhà đi đào phần nền phải trả dân 1000 USD. Đơn vị chấp nhận nên chủ nhà cho đào nhưng may thay khi đào xuống móng thì chỉ sâu độ 1m5, dài 10 mét thì gặp những phần tăng còn sót lại trong đó phần cốt của 2 người nhưng chỉ còn 3 đoạn xương chi dài độ 10 phân nhưng tất cả đóng cứng lại như bùn đen, có một hộp sọ rễ cây bám vào thành ổ rễ như tổ chim. Sau khi phân loại ước chừng còn 2 vốc tay phần cốt, đơn vị đã chia đôi và gói vào vải trắng bọc theo quy định và phủ quốc kỳ.

Toàn bộ khu chùa nơi trang trọng nhất sư trụ trì đã dành để thờ phần cốt các liệt sỹ, đơn vị cử hẳn một người lo nhang khói không lúc nào được tắt. Chiều hôm sau chùa làm lễ cầu siêu cho hương hồn các liệt sỹ. Khoảng 5 ngày sau đơn vị điều 1 xe đưa hài cốt cùng số anh em về tỉnh đội Tây Ninh. Khi về đến thành phố Hồ Chí Minh anh Công đã mua vé đi Hà Nội, tin tức tìm được phần mộ 2 anh Liệt sỹ đã về đến đơn vị đến sân ga Hàng Cỏ Hà Nội đích thân Ban Giám Đốc và Ban Liên Lạc đơn vị Cục Chính Trị Quân Đội đã tổ chức lễ đón rước tại ga Hàng Cỏ Hà Nội và các sỹ quan chỉ huy đơn vị đưa 2 anh về địa phương. UBND xã nơi các anh cư trú đã làm lễ đón hài cốt và lễ truy điệu trọng thể.

Hiện giờ anh Công đã mất năm 2020, các cháu nội của liệt sỹ Thọ đã trưởng thành 4 cháu nội đã vào đại học các cháu luôn phát huy truyền thống của ông nội và gia đình. Vượt qua khó khăn của một đất nước sau chiến tranh người anh đã hy sinh phấn đấu nuôi bản thân, gia đình của người em và đã tìm được phần mộ của em trai mình là 1 điều may mắn.

VŨ TIẾN MINH

Vai trò của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường

2. Một số vướng mắc khi áp dụng Điều 304 Bộ luật Hình sự năm 2015

(LSVN) - Vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là những đối tượng được Nhà nước quản lý đặc biệt và chặt chẽ. Mọi trường hợp chế tạo, tàng trữ, sử dụng, vận chuyển hoặc mua bán những đối tượng này không được phép của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền đều bị coi là trái phép. Trong đó, tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” quy định tại Điều 304 Bộ luật Hình sự (BLHS) khi áp dụng còn bộc lộ một số vấn đề cần phải trao đổi và có hướng dẫn. 

1. Quy định Điều 304 theo BLHS 

Theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 304, Điều 306, Điều 307 và Điều 308 của Bộ luật Hình sự của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao có giải thích “Vũ khí quân dụng” là thiết bị, phương tiện hoặc tổ hợp những phương tiện quy định tại khoản 2 Điều 3 của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ, bao gồm:

a) Súng cầm tay bao gồm: súng ngắn, súng trường, súng tiểu liên, súng trung liên, súng chống tăng, súng phóng lựu;

b) Vũ khí hạng nhẹ bao gồm: súng đại liên, súng cối, súng ĐKZ, súng máy phòng không, tên lửa chống tăng cá nhân;

c) Vũ khí hạng nặng bao gồm: máy bay chiến đấu, trực thăng vũ trang, xe tăng, xe thiết giáp, tàu chiến, tàu ngầm, pháo mặt đất, pháo phòng không, tên lửa;

d) Bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi; đạn sử dụng cho các loại vũ khí quy định tại các điểm a, b và c khoản này.

đ) Vũ khí được chế tạo, sản xuất thủ công hoặc công nghiệp, không theo tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế của nhà sản xuất hợp pháp, có khả năng gây sát thương, nguy hại cho tính mạng, sức khỏe của con người, phá hủy kết cấu vật chất tương tự như vũ khí quy định tại điểm a, b, c, d khoản này, không được trang bị cho lực lượng vũ trang nhân dân và các lực lượng khác quy định tại Điều 18 của Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ để thi hành công vụ.

Điều 304 BLHS quy định tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” như sau: 

“1. Người nào chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 07 năm…”

Phân tích 4 yếu tố cấu thành tội phạm gồm:

- Chủ thể của tội phạm:

+ Người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đạt độ tuổi theo luật định. 

+ Điều 12 BLHS quy định người từ đủ 14 đến dưới 16 tuổi chỉ phải chịu TNHS về tội phạm này khi có các tình tiết quy định tại khoản 2, khoản 3, khoản 4 Điều 304 BLHS (tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng).

- Mặt chủ quan của tội phạm: Tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý.

- Khách thể của tội phạm: Xâm phạm an toàn xã hội bằng việc vi phạm quy định của Nhà nước về sản xuất, quản lý vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự.

- Mặt khách quan của tội phạm thể hiện ở các loại hành vi phạm tội sau: 

+ Hành vi chế tạo trái phép: là hành vi làm ra hoặc sửa chữa, lắp ráp vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự không được phép của cơ quan có thẩm quyền.

+ Hành vi tàng trữ trái phép: là cất giấu, lưu trữ vũ khí quân dụng,  phương tiện kỹ thuật quân sự ở một địa điểm, một vị trí như ở nhà; phòng làm việc; trụ sở cơ quan, tổ chức; phương tiện giao thông; trong túi quần áo, túi xách…không được phép của cơ quan có thẩm quyền mà không nhằm mục đích mua bán hay chế tạo trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khác hoặc vận chuyển từ nơi này đến nơi khác. Thời gian cất giữ dài hay ngắn không có ý nghĩa đối với việc định tội.

+ Hành vi vận chuyển trái phép: là chuyển dịch vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự từ địa điểm này đến các địa điểm khác khi không được phép của cơ quan có thẩm quyền và không nhằm mục đích mua bán, đối với các đối tượng đó.

+ Hành vi sử dụng trái phép: là kích hoạt các tính năng của vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự khi không được phép của cơ quan có thẩm quyền.

+ Hành vi mua bán trái phép: là dùng vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự là đối tượng mua bán, trao đổi bằng tiền hoặc những lợi ích vật chất khác khi không được phép của cơ quan có thẩm quyền.

+ Hành vi chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự: là bằng các thủ đoạn khác nhau để chiếm hữu trái phép vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự như trộm cắp, cướp, cướp giật, cưỡng đoạt, công nhiên chiếm đoạt, lừa đảo…

Tội phạm hoàn thành khi người phạm tội thực hiện một trong các hành vi trên.

2. Một số trường hợp vướng mắc trong thực tiễn áp dụng Điều 304 BLHS

Ví dụ 1: Nguyễn Văn A có hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt bom, mìn sót lại sau chiến tranh. Có cả bom, mìn chưa bị tháo rời các bộ phận (ngòi nổ, thuốc nổ), kết quả giám định kết luận còn nguyên tính năng, tác dụng của vũ khí quân dụng và bom, mìn đã tháo rời thuốc nổ, ngòi nổ, kết quả giám định kết luận thuốc nổ, ngòi nổ vẫn còn tính năng, tác dụng của vật liệu nổ thì xác định là tội phạm vũ khí quân dụng theo Điều 304 BLHS hay tội phạm liên quan đến vật liệu nổ theo Điều 305 BLHS?

Trong hướng dẫn tại khoản 11, Điều 6 Dự thảo Nghị quyết hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Điều 304, Điều 306, Điều 307 và Điều 308 của Bộ luật Hình sự của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nêu hai hướng xử lý, cụ thể: 

- Trường hợp bom, mìn chưa bị tháo rời các bộ phận (ngòi nổ, thuốc nổ), kết quả giám định kết luận còn nguyên tính năng, tác dụng của vũ khí quân dụng thì xác định phạm tội về vũ khí quân dụng quy định tại Điều 304 BLHS; 

- Trường hợp bom, mìn đã tháo rời thuốc nổ, ngòi nổ, kết quả giám định kết luận thuốc nổ, ngòi nổ vẫn còn tính năng, tác dụng của vật liệu nổ thì xác định phạm tội về vật liệu nổ quy định tại Điều 305 BLHS.

Riêng đối với trường hợp có cả bom, mìn chưa bị tháo rời các bộ phận (ngòi nổ, thuốc nổ), kết quả giám định kết luận còn nguyên tính năng, tác dụng của vũ khí quân dụng và bom, mìn đã tháo rời thuốc nổ, ngòi nổ, kết quả giám định kết luận thuốc nổ, ngòi nổ vẫn còn tính năng, tác dụng của vật liệu nổ thì chưa có hướng dẫn cụ thể. Theo quan điểm của tác giả, nếu hai hành vi phạm tội của A có liên quan chặt chẽ với nhau thì A chỉ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội và cơ quan điều tra phải xác định đúng bản chất hành vi phạm tội của A, từ đó lựa chọn tội danh cho phù hợp. Ngược lại, nếu A thực hiện hai hành vi này độc lập với nhau thì sẽ bị truy cứu cả hai tội về vũ khí quân dụng và vật liệu nổ và khi xét xử sẽ áp dụng Điều 55 BLHS để quyết định hình phạt.

Ví dụ 2: Trong quá trình điều tra, khám xét trong một số vụ án "Mua bán, tàng trữ trái phép chất ma túy" do Cơ quan Cảnh sát điều tra tiến hành giải quyết đã phát hiện thu giữ các loại tang vật, như: Súng tự chế; đạn thể thao; 01 viên đạn AK (kết luận giám định dùng cho súng quân dụng). 

Căn cứ Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ năm 2017, Cơ quan Cảnh sát điều tra đã chuyển xử lý hành chính hành vi tàng trữ đối với các loại súng tự chế, đạn thể thao. Tuy nhiên, đối với hành vi tàng trữ 01 viên đạn quân dụng, còn có các quan điểm: 

Quan điểm thứ nhất: Căn cứ Điều 304 BLHS và Luật quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ, tiền chất thuốc nổ, công cụ hỗ trợ thì hành vi tàng trữ 01 viên đạn quân dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại khoản 1 Điều 304 BLHS. 

Quan điểm thứ hai: Vận dụng hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Bộ Nội vụ hướng dẫn áp dụng Điều 95, 96 Bộ luật Hình sự năm 1985 thì hành vi tàng trữ 01 viên đạn quân dụng chưa đến mức để truy cứu trách nhiệm hình sự. 

Hiện nay, chưa có văn bản hướng dẫn cụ thể thi hành Điều 304 BLHS, Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 là để hướng dẫn Điều 95, 96 Bộ luật Hình sự năm 1985. Như vậy việc vận dụng Thông tư liên ngành trên áp dụng cho Điều 304 BLHS năm 2015 có còn phù hợp không? Theo quan điểm tác giả, trường hợp trên đã thoả mãn viên đạn thuộc Vũ khí quân dụng theo điểm d, khoản 2 Điều 3 Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017. Điều 304 BLHS không quy định mức định lượng tối thiểu của các hành vi chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự; vì vậy, hành vi tàng trữ 01 viên đạn quân dụng đã đủ yếu tố cấu thành tội “Tàng trữ trái phép vũ khí quân dụng” quy định tại Khoản 1 Điều 304 BLHS. 

Ví dụ 3: Phạm Đức V. có hành vi vận chuyển, mua bán vũ khí quân dụng qua biên giới thì định tội danh như thế nào? 

Quan điểm thứ nhất: Phạm Đức V. thực hiện hành vi vận chuyển vũ khí quân dụng qua biên giới nhằm thực hiện mua bán vũ khí nên bị truy cứu TNHS về một tội “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 BLHS.

Quan điểm thứ hai: Phạm Đức V. vừa thực hiện hành vi vận chuyển vũ khí quân dụng, vừa thực hiện hành vi mua bán trái phép vũ khí quân dụng, các hành vi có thể thực hiện độc lập đã cấu thành từng tội độc lập. Phạm Đức V. phải truy tố theo 02 tội danh “Vận chuyển vũ khí quân dụng” và “Mua bán trái phép vũ khí quân dụng” tại Điều 304 BLHS theo nguyên tắc phạm nhiều tội.

 Theo quan điểm của tác giả, hành vi vận chuyển và hành vi mua bán là các hành vi có quan hệ biện chứng với nhau, hành vi vận chuyển làm tiền đề cho hành vi mua bán, hành vi mua bán là hệ quả cho hành vi vận chuyển thì truy cứu TNHS Phạm Đức V. về một tội “Vận chuyển, mua bán trái phép vũ khí quân dụng” theo Điều 304 BLHS.

3. Kiến nghị

Hiện nay, quá trình áp dụng Điều 304 BLHS đã bộc lộ một số vướng mắc trong việc xử lý đối với tội danh này mà chưa có văn bản pháp luật nào hướng dẫn thay thế cho Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 của Toà án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Nội vụ. Do vậy, khi tiến hành điều tra, truy tố và xét xử tội “Chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn áp dụng hướng dẫn tại Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995, mặc dù thông tư liên ngành này quy định còn chưa đầy đủ và có nhiều hạn chế. Tác giả đưa ra một số kiến nghị như sau:

Thứ nhất, một trong những yếu tố được sử dụng làm căn cứ để định khung hình phạt là số lượng, tuy nhiên trong điều luật không trực tiếp quy định số lượng tối thiểu là bao nhiêu gây khó khăn trong xử lý hình sự. Để khắc phục, cần nhanh chóng ban hành Nghị quyết hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao thay thế Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995, trong đó phải hướng dẫn cụ thể số lượng tối thiểu để xử lý hình sự, thế nào là“vật phạm pháp có số lượng lớn”,“vật phạm pháp có số lượng rất lớn”, “vật phạm pháp có số lượng đặc biệt lớn” (điểm g khoản 2 Điều 304 BLHS) để làm căn cứ định khung hình phạt.

Thứ hai, Điều 304 BLHS quy định nhiều hành vi phạm tội khác nhau đối với nhiều loại đối tượng khác nhau. Vì vậy trong trường hợp bị can, bị cáo thực hiện nhiều hành vi phạm tội khác nhau, thì tuỳ từng trường hợp cụ thể mà người phạm tội có thể bị truy cứu TNHS về một tội với tên tội danh đầy đủ các hành vi đã được thực hiện hay về nhiều tội độc lập đối với từng hành vi đã thực hiện và khi xét xử sẽ áp dụng Điều 55 BLHS để quyết định hình phạt chung, cụ thể như sau:

- Nếu người phạm tội thực hiện nhiều hành vi phạm tội mà những hành vi phạm tội này liên quan chặt chẽ với nhau (hành vi phạm tội này là điều kiện để thực hiện, là hậu quả tất yếu của hành vi phạm tội kia) đối với cùng nhiều đối tượng hay một đối tượng, thì chỉ bị truy cứu TNHS về một tội với tên tội danh đầy đủ các hành vi đã được thực hiện. 

- Nếu người phạm tội thực hiện nhiều hành vi độc lập đối với các đối tượng độc lập khác nhau thì bị truy cứu TNHS về nhiều tội độc lập với từng hành vi độc lập đã được thực hiện và khi xét xử sẽ áp dụng Điều 55 BLHS để quyết định hình phạt chung. 

Trong quá trình xét xử tội phạm về “vũ khí quân dụng” ngoài việc phải tuân thủ quy định của pháp luật hình sự về tội “Tội chế tạo, tàng trữ, vận chuyển, sử dụng, mua bán trái phép hoặc chiếm đoạt vũ khí quân dụng, phương tiện kỹ thuật quân sự” được quy định tại Điều 304 BLHS còn phải nghiên cứu thêm văn bản pháp lý liên quan trực tiếp như Luật Quản lý, sử dụng vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ năm 2017, sửa đổi bổ sung năm 2019 và Thông tư liên ngành số 01/TTLN ngày 07/01/1995 hướng dẫn áp dụng Điều 95 (nay là Điều 304 BLHS), Điều 96 BLHS năm 1985. Tuy nhiên, qua nghiên cứu, đối chiếu các văn bản pháp lý nêu trên, cho thấy hiện tại đã bộc lộ những điểm “lạc hậu”, mang tính “tùy nghi” làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác xử lý loại tội phạm này, đòi hỏi cần phải nhanh chóng bổ sung, chỉnh sửa và hướng dẫn chi tiết trong thời gian tới để phù hợp với chính sách hình sự của Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn mới, góp phần đấu tranh phòng chống có hiệu quả loại tội phạm này.

ĐẶNG THẾ THANH    

Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5

Vai trò của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường

2. Thủ tục áp giải người vi phạm theo quy định mới nhất

(LSVN) - Chính phủ vừa ban hành Nghị định 142/2021/NĐ-CP quy định hình thức xử phạt trục xuất, biện pháp tạm giữ người, áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính và quản lý người nước ngoài vi phạm pháp luật Việt Nam trong thời gian làm thủ tục xuất cảnh. Trong đó quy định cụ thể về thủ tục áp giải người vi phạm.

Cụ thể, người vi phạm không tự nguyện chấp hành yêu cầu của người có thẩm quyền mà không phải do trở ngại khách quan hoặc trường hợp bất khả kháng thì bị áp giải trong các trường hợp sau đây:

- Bị tạm giữ người theo thủ tục hành chính;

- Đưa vào hoặc đưa trở lại trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiện bắt buộc theo quy định tại Điều 124 Luật xử lý vi phạm hành chính.

Những người sau đây đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải người vi phạm theo thủ tục hành chính:

- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ của lực lượng Công an nhân dân, Bộ đội Biên phòng, Cảnh sát biển, Hải quan, Kiểm lâm, cơ quan thuế, Quản lý thị trường, Cơ quan thanh tra, Thi hành án dân sự, Kiểm lâm, Thuế, Kiểm ngư, Quản lý thị trường, Thanh tra.

- Người có thẩm quyền đang thi hành công vụ khác theo quy định của Luật Xử lý vi phạm hành chính và các văn bản pháp luật khác có liên quan.

Về thủ tục áp giải, theo Điều 32 Nghị định, trước khi áp giải người vi phạm, người đang thi hành công vụ thực hiện việc áp giải phải giải thích cho người bị áp giải về quyền và nghĩa vụ của họ trong quá trình bị áp giải theo quy định của pháp luật, giải đáp thắc mắc của người bị áp giải.

Trong khi áp giải, phải đảm bảo an toàn tuyệt đối cho người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải và cho người bị áp giải. Việc sử dụng vũ khí, công cụ hỗ trợ khi áp dụng biện pháp áp giải phải bảo đảm đúng nguyên tắc quy định tại khoản 4 Điều 20 Luật Xử lý vi phạm hành chính và quy định tại Nghị định này.

Trường hợp người bị áp giải có dấu hiệu bỏ trốn hoặc có hành vi chống người thi hành công vụ, người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải báo cáo ngay người có thẩm quyền để ra quyết định tạm giữ người theo thủ tục hành chính đối với người đó.

Người đang thi hành công vụ thực hiện nhiệm vụ áp giải phải giám sát, quản lý chặt chẽ người bị áp giải, cảnh giác, chủ động, kịp thời xử lý những tình huống phức tạp có thể xảy ra; không được tùy tiện giải quyết các yêu cầu của người bị áp giải trong khi đang tiến hành áp giải.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.

DUY ANH

Áp dụng ‘án treo’: Khó khăn, vướng mắc và đề xuất, kiến nghị

3. Hình thức, thủ tục thu, nộp tiền phạt vi phạm hành chính theo quy định mới nhất

(LSVN) – Chính phủ vừa ban hành Nghị định 118/2021/NĐ-CP ngày 23/12/2021 quy định chi tiết một số điều và biện pháp thi hành Luật Xử lý vi phạm hành chính. Theo đó, căn cứ Điều 20 Nghị định 118/2021/NĐ-CP đã xác định rõ hình thức, thủ tục thu, nộp tiền phạt.

Cụ thể, cá nhân, tổ chức vi phạm thực hiện việc nộp tiền phạt theo một trong các hình thức sau đây:

- Nộp tiền mặt trực tiếp tại Kho bạc Nhà nước hoặc tại ngân hàng thương mại nơi Kho bạc nhà nước mở tài khoản được ghi trong quyết định xử phạt;

- Chuyển khoản vào tài khoản của Kho bạc nhà nước được ghi trong quyết định xử phạt thông qua Cổng Dịch vụ công Quốc gia hoặc dịch vụ thanh toán điện tử của ngân hàng hoặc tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán;

- Nộp phạt trực tiếp cho người có thẩm quyền xử phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 56, khoản 2 Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính hoặc nộp trực tiếp cho cảng vụ hoặc đại diện cảng vụ hàng không đối với trường hợp người bị xử phạt là hành khách quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam để thực hiện chuyến bay quốc tế xuất phát từ lãnh thổ Việt Nam; thành viên tổ bay làm nhiệm vụ trên chuyến bay quá cảnh qua lãnh thổ Việt Nam; thành viên tổ bay của hãng hàng không nước ngoài thực hiện chuyến bay quốc tế xuất phát từ lãnh thổ Việt Nam;

- Nộp tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực giao thông đường bộ vào Kho bạc nhà nước theo quy định tại các điểm a, b và c khoản 1 Điều này hoặc thông qua dịch vụ bưu chính công ích.

Thủ tục nộp tiền phạt:

Trong trường hợp quyết định xử phạt chỉ áp dụng hình thức phạt tiền mà cá nhân bị xử phạt không cư trú, tổ chức bị xử phạt không đóng trụ sở tại nơi xảy ra hành vi vi phạm, thì theo đề nghị của cá nhân, tổ chức bị xử phạt, người có thẩm quyền xử phạt quyết định nộp tiền phạt theo hình thức nộp phạt quy định tại điểm b khoản 1 Điều này và gửi quyết định xử phạt cho cá nhân, tổ chức vi phạm qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm trong thời hạn 02 ngày làm việc, kể từ ngày ra quyết định xử phạt;

Cá nhân, tổ chức bị xử phạt nộp phạt vào tài khoản Kho bạc nhà nước ghi trong quyết định xử phạt trong thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 73 Luật Xử lý vi phạm hành chính;

Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày tiền phạt được nộp trực tiếp vào tài khoản của Kho bạc nhà nước hoặc gián tiếp thông qua dịch bưu chính công ích, người tạm giữ các giấy tờ để bảo đảm cho việc xử phạt theo quy định tại khoản 6 Điều 125 Luật Xử lý vi phạm hành chính phải gửi trả lại cá nhân, tổ chức bị xử phạt các giấy tờ đã tạm giữ qua bưu điện bằng hình thức bảo đảm đối với trường hợp nộp trực tiếp hoặc gửi qua dịch bưu chính công ích đối với trường hợp nộp gián tiếp. Chi phí gửi quyết định xử phạt và chi phí gửi trả lại giấy tờ do cá nhân, tổ chức bị xử phạt chi trả;

Cá nhân, tổ chức bị xử phạt có thể trực tiếp nhận lại giấy tờ đã bị tạm giữ hoặc thông qua người đại diện theo pháp luật hoặc đại diện theo ủy quyền.

Trường hợp nộp chậm tiền phạt theo quy định tại khoản 1 Điều 78 Luật Xử lý vi phạm hành chính, thì cơ quan thu tiền phạt căn cứ vào quyết định xử phạt để tính và thu tiền chậm nộp phạt.

Quyết định hoãn thi hành quyết định xử phạt; giảm, miễn phần còn lại hoặc toàn bộ tiền phạt; nộp tiền phạt nhiều lần phải bằng văn bản.

Thời gian xem xét, quyết định giảm, miễn phần còn lại hoặc cho phép nộp tiền phạt nhiều lần không tính là thời gian chậm nộp tiền phạt.

Việc thu, nộp, hoàn trả tiền nộp phạt được thực hiện theo quy định của Chính phủ quy định về thủ tục hành chính thuộc lĩnh vực Kho bạc Nhà nước.

Bộ trưởng Bộ Tài chính hướng dẫn việc thu, nộp tiền phạt vi phạm hành chính quy định tại các khoản 1, 2 và 3 Điều này; cách tính và thực hiện bù trừ số tiền nộp phạt chênh lệch (nếu có) trong trường hợp có quyết định đính chính, sửa đổi, bổ sung, hủy bỏ hoặc ban hành quyết định mới trong xử phạt vi phạm hành chính.

Nghị định này có hiệu lực từ ngày 01/01/2022.

MAI HUỆ

Quy định về xử lý một số tình huống trong khi áp giải

4. Nghề Luật sư thời công nghệ thông tin

(LSVN) - Luật sư tham gia các phiên tòa hình sự, dân sự… mà không cần đến trụ sở tòa án; bị cáo có thể tham gia phiên tòa từ trại giam hay đương sự ngồi nhà cũng có tranh luận, trả lời câu hỏi của hội đồng xét xử, người bảo vệ quyền lợi đương sự… sẽ là điểm nhấn về hoạt động hành nghề Luật sư trong năm 2022.

Thích ứng với phiên tòa trực tuyến

Cách nay một vài năm nếu ai đó cho rằng: “Một ngày nào đó, Luật sư sẽ tham gia phiên tòa qua môi trường mạng. Hội đồng xét xử ngồi tại trụ sở, còn đương sự, Luật sư ngồi nhà hay bị cáo ngồi trong trại giam, thông qua nền tảng trực tuyến để cùng tham gia phiên tòa xét xử mà không cần thiết phải cùng có mặt tại phòng xử án như cách xử truyền thống”, sẽ bị xem là “nói chuyện viển vông”. Nay, chuyện “viển vông” đó sắp trở thành hiện thực.      

Ngay trong năm 2022, công tác xét xử của hệ thống tòa án cũng sẽ có sự thay đổi vừa để thích ứng với tình hình mới của đại dịch, vừa ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động xét xử mà phiên tòa trực tuyến là một điển hình. Ngày 12/11/2021, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội Khóa XV đã ban hành Nghị quyết số 33/2021/QH15 (Nghị quyết 33) về tổ chức phiên tòa trực tuyến có hiệu lực từ ngày 01/01/2022. Theo đó, phiên tòa trực tuyến được tổ chức tại phòng xử án, có sử dụng các thiết bị điện tử kết nối với nhau thông qua môi trường mạng, cho phép bị cáo, bị hại, đương sự, người tham gia tố tụng khác tham gia phiên tòa tại địa điểm ngoài phòng xử án do tòa án quyết định nhưng vẫn bảo đảm trực tiếp theo dõi đầy đủ hình ảnh, âm thanh và tham gia các trình tự, thủ tục tố tụng của phiên tòa bằng lời nói, hành vi tố tụng liên tục, công khai, vào cùng một thời điểm.

Theo Điều 1 của Nghị quyết 33, tòa án nhân dân được tổ chức phiên tòa trực tuyến để xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm vụ án hình sự, dân sự, hành chính có tình tiết, tính chất đơn giản; tài liệu, chứng cứ trong hồ sơ vụ án rõ ràng. Đối với vụ án phức tạp hoặc thuộc các trường hợp: vụ án hình sự, dân sự, hành chính liên quan đến bí mật nhà nước; vụ án hình sự về một trong các tội xâm phạm an ninh quốc gia quy định tại Chương XIII của Bộ luật Hình sự; vụ án hình sự về một trong các tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh quy định tại Chương XXVI của Bộ luật Hình sự, thì xét xử trực tiếp.

Với Nghị quyết này của Quốc hội, mở ra một hình thức xét xử phù hợp với tình hình thực tế ở Việt Nam trong thời điểm đại dịch Covid-19 vẫn còn diễn biến phức tạp. Để thích ứng linh hoạt với sự thay đổi này, giới Luật sư Việt Nam ngay từ lúc này cần trang bị cho mình kiến thức về phần mềm trực tuyến để khi hệ thống tòa án triển khai thì sẵn sàng đáp ứng nhiệm vụ.

“Số hóa” hoạt động hành nghề Luật sư

Theo dự báo của tờ New York Time (Hoa Kỳ) vào năm 2020 hay mới đây là Diễn đàn vì tương lai (Forum for the Future - Anh) cho thấy: Đến năm 2030, thời kỳ của công nghệ thông tin bùng nổ, tác động trực tiếp đến nền kinh tế và đời sống xã hội. Với sự phát triển của khoa học công nghệ, nhất là trí tuệ nhân tạo của cách mạng công nghiệp 4.0, quản trị nhà nước của các quốc gia cũng phải thay đổi để thích ứng. Bối cảnh phát triển công nghệ thông tin trên thế giới và Việt Nam đã và đang đặt ra cho giới Luật sư Việt Nam nhiều vấn đề cần thích ứng.

Ngoài việc phải thích ứng với việc tham gia phiên tòa xét xử trực tuyến như nói ở trên, Luật sư Việt Nam cần phải tận dụng tối đa tiện ích của công nghệ thông tin để phục vụ cho công việc. Trong thời gian tới, việc hội họp, đào tạo, bồi dưỡng… bằng nền tảng trực tuyến sẽ được thực hiện thường xuyên hơn. Trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp, trong năm 2021, Liên đoàn Luật sư Việt Nam và Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh và một vài Đoàn Luật sư khác đã chuyển hình thức bồi dưỡng trực tiếp sang nền tảng trực tuyến và đạt những kết quả rất tốt.

So với hình thức bồi dưỡng trực tiếp, bồi dưỡng trực tuyến có nhiều lợi thế hơn: vẫn tổ chức bồi dưỡng thông suốt trong điều kiện dịch bệnh phức tạp, không cho tập trung đông người để phòng chống dịch; số lượng Luật sư tham gia cho một lần bồi dưỡng cũng nhiều hơn so với tổ chức trực tiếp nhưng vẫn bảo đảm chất lượng; chi phí tổ chức tiết kiệm hơn so với tổ chức các khóa trực tiếp; việc kiểm tra, điểm danh người học cũng khoa học và không mất nhiều thời gian dù số lượng lớn. Với số lượng gần 6.700 Luật sư thành viên (tính đến hết tháng 11/2021), trong thời gian tới, Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh sẽ đẩy mạnh việc bồi dưỡng trực tuyến. Đây cũng được xem là thế mạnh của Đoàn trong việc ứng dụng công nghệ thông tin và được Luật sư thành viên nhiệt tình ủng hộ.

Với các nền tảng trực tuyến cũng giúp cho công việc của Luật sư tiếp xúc khách hàng được dễ dàng hơn. Trước đây, việc trao đổi với thân chủ qua điện thoại di động trong những tình huống cần sự hỗ trợ nhanh chóng của Luật sư là một sự tiện lợi. Nay, Luật sư Việt Nam có thể tư vấn cho thân chủ theo hình thức trực tuyến nhưng vẫn nhìn thấy mặt nhau, quan sát biểu cảm trên gương mặt, cái chau mày, nụ cười tươi, dù hai người cách nhau vài trăm, thậm chí vài nghìn cây số.        

Một tiện ích khác của công nghệ thông tin là việc sao chụp và xử lý hồ sơ vụ án. Hiện nay, với việc tận dụng điện thoại thông minh (smart phone), Luật sư có thể sao chụp tài liệu và dùng phần mềm chuyển đuôi từ JPEG sang PDF để nghiên cứu tiện lợi, nhanh chóng hơn. Hồ sơ vụ án, nhất là án hình sự với nhiều bị cáo, người bị hại… dày hàng trăm, thậm chí hàng ngàn bút lục là chuyện “thường ngày ở huyện”. Nếu làm theo cách truyền thống là photocopy hoặc chụp ảnh rồi in hình ảnh ra để đọc thì sẽ rất bất tiện, hồ sơ lưu trữ nhiều, vừa tốn kém, vừa xử lý lâu. Nếu tận dụng phần mềm chuyển đổi tập tin, Luật sư có thể xử lý xong hồ sơ chỉ bằng 1/5 thời gian xử lý kiểu truyền thống. Tiện lợi hơn nữa là Luật sư có thể sắp xếp thành từng nhóm tài liệu với mức độ quan trọng để khi ra phiên tòa, có thể tra cứu trong máy tính xách tay (laptop) rất nhanh, không phải lục tìm trong đống hồ sơ đồ sộ. Một số Luật sư còn sử dụng Google drive hoặc các trang mạng khác để đưa dữ liệu lên đó lưu trữ hộ, khi cần thiết tải về để nghiên cứu. Rất tiện lợi và có thể làm việc mọi lúc, mọi nơi.

Mặt khác, với sự trang bị thiết bị công nghệ kết nối mạng không dây/dữ liệu di động, Luật sư có thể tra cứu các văn bản pháp luật ở bất cứ nơi đâu. Chỉ cần một cái nhấp chuột, “tất tần tật” quy định pháp luật có thể được tra cứu trong vòng “một nốt nhạc”.   

Đã qua rồi cái thời hình ảnh Luật sư “tay xách, nách mang”, khệ nệ mang từng chồng hồ sơ cao ngất ngưởng vào phiên tòa cùng với các quyển sách luật đi kèm. Với việc trang bị một điện thoại thông minh với dung lượng 256G cùng laptop trang bị ổ cứng 1TG, kết nối mạng (4G/5G/wifi), việc hành nghề của Luật sư trở nên dễ dàng như trong lòng bàn tay. Sẽ không ngạc nhiên khi ngay trong năm 2022, hình ảnh Luật sư Việt Nam đến phiên tòa chỉ với một chiếc laptop cùng chiếc điện thoại thông minh nhưng được chứa đựng toàn bộ dữ liệu của vụ án cùng “thế giới luật” thu nhỏ trong một chiếc cặp gọn nhẹ.   

Luật sư tự tin, đĩnh đạc tham gia phiên tòa với một chiếc máy tính xách tay chứa dữ liệu vụ án được số hóa, sử dụng điện toán đám mây được kết nối mạng không dây. Đã qua rồi cái thời, Luật sư “tay xách, nách mang” khệ nệ ôm hàng đống hồ sơ vào phiên tòa. Đó là những tiện ích của công nghệ thông tin mà giới Luật sư Việt Nam cần tận dụng để phát huy tốt nhất cho nghề nghiệp của mình.

Luật sư Nguyễn Văn Đức

Ủy viên Ban Chủ nhiệm Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

Vai trò của chính sách pháp luật tài chính - ngân hàng trong nền kinh tế thị trường

5. Nhà nước pháp quyền Cộng hòa liên bang Đức

(LSVN) - Nhà nước pháp quyền (NNPQ) là hình mẫu lý tưởng mà nhiều nước trên thế giới hướng tới, bởi đó là kết quả phát triển của nền văn minh nhân loại khi pháp luật được tôn vinh và thực thi hiệu quả…

Cách đây gần hai thế kỷ, khái niệm NNPQ đã ra đời ở Đức. Nhà tư tưởng, nhà triết học nổi tiếng người Đức thời kỳ Phục hưng Immanuel Kant (1724-1804), đã góp phần to lớn trong việc hoàn thiện và phát triển khái niệm này. Theo đó, chỉ có thông qua phân chia quyền lực thì các quyền của công dân mới được thực thi; trường hợp cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm quyền tự do của người dân thì phải đối mặt với chế tài (trừng phạt)…

Cơ chế bảo hiến đáng tin cậy của CHLB Đức - một trong những yếu tố quan trọng của NNPQ được Luật Cơ bản (LCB) 1949 quy định, đặc biệt với sự kiểm tra, giám sát, phán quyết của Tòa án Hiến pháp liên bang và tòa án hiến pháp 16 bang được duy trì và phát triển vững chắc.

Cấu trúc mô hình của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Có thể nói, cấu trúc NNPQ của Đức được thể hiện trên một bức tranh “bảy sắc cầu vòng” phong phú, đa dạng của hệ thống chính trị được mệnh danh là “nhà nước của các đảng phái” với nhiều ý nghĩa từ cấp liên bang đến các bang trên cơ sở quy định trong 102 điều, từ Điều 20 đến Điều 104 LCB 1949.

Tầm quan trọng được ưu tiên hàng đầu về tổ chức nhà nước là 7 cơ quan hiến pháp (Quốc hội liên bang; Hội đồng liên bang; Ủy ban hỗn hợp; Hội nghị liên bang; Tổng thống liên bang; Chính phủ liên bang; Tòa án Hiến pháp liên bang) được thành lập có ý nghĩa to lớn, thiết yếu, cơ bản, với những đặc điểm sau:

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước dân chủ

Điểm qua về nền dân chủ, tự do trong lịch sử nước Đức: Nhà nước cộng hòa Weimar (1918-1933) đánh dấu sự nổi tiếng với nền dân chủ nghị viện (mặc dù do hạn chế về mặt lịch sử nên không hoàn toàn thành công), Hiến pháp Weimar 1919 và “Tòa án nhà nước” để giải quyết các “tranh chấp hiến pháp” của Vương quốc Đức. Trong Nghị viện cộng hòa thời đó đã có tới 6 đảng phái chính trị khác nhau. Những truyền thống quý báu được kế thừa và phát triển kể cả khi thành lập nước CHLB Đức vào năm 1949, vốn được khẳng định tại khoản 1 Điều 20 LCB cho đến ngày nay.

Nền dân chủ được thể hiện trong hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là trong hệ thống và phương thức bầu cử, trong các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền và các tổ chức, hiệp hội, cơ quan khác, trường học…

Có thể lấy một trong nhiều ví dụ để minh họa: theo quy định của pháp luật về thi hành án của CHLB Đức thì tù nhân cũng có chế độ nghỉ phép hàng năm và có tài khoản để tích lũy khoản tiền trong thời gian lao động, cải tạo để khi ra tù tái hòa nhập tốt vào đời sống xã hội.

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước liên bang

Nhà nước liên bang được quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB.

Từ năm 1949 đến 03/10/1990, CHLB Đức gồm 11 bang. Sau sự kiện lịch sử đáng nhớ - ngày 03/10/1990 nước Đức tái thống nhất một cách nhanh chóng trong hòa bình, dẫn tới lãnh thổ CHDC Đức trước đó nay hình thành 5 bang mới. Mỗi bang trở thành “một nhà nước địa phương” với cơ cấu, tổ chức gần như cấp liên bang, tuy mức độ, quy mô và thẩm quyền giới hạn: Quốc hội bang, chính phủ bang gồm nhiều bộ, hệ thống pháp luật trong các lĩnh vực về trật tự an toàn xã hội, giáo dục phổ thông, đại học, hành chính, tòa án hiến pháp bang…

Để bảo đảm ý nghĩa về mặt xã hội, sự công bằng, bình đẳng trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” giữa cơ quan nhà nước cấp trung ương cũng như địa phương, các bang đều có đại diện tại Hội đồng liên bang, Ủy ban hỗn hợp, Tòa án tối cao liên bang…

Cộng hòa liên bang Đức là nhà nước xã hội

Khoản 1 Điều 20 LCB cũng khẳng định CHLB Đức là nhà nước xã hội, vì lẽ đó nhân phẩm con người được đặt lên hàng đầu và quy định tại khoản 1 Điều 1, tiếp theo là các quy định về quyền cơ bản của công dân.

Chúng ta nghe nói nhiều về thuật ngữ “quyền lực nhà nước”, thế nhưng trong NNPQ thì “tất cả quyền lực thuộc về nhân dân” (khoản 2 Điều 20 LCB) hay còn gọi là “nhà nước dân sự”, vì vậy nhân dân phải là “đối tượng điều chỉnh đầu tiên của pháp luật” (từ Điều 1 đến Điều 19 LCB) mà “hiến pháp của hiến pháp” lần lượt thể hiện: bảo vệ nhân phẩm, tự do cá nhân, tự do ngôn luận, bảo vệ hôn nhân và gia đình, bảo vệ quyền sở hữu…

Cộng hòa liên ban Đức bảo đảm an sinh, phúc lợi xã hội tốt nổi tiếng thế giới, trong đó nguyên tắc công bằng xã hội là tâm điểm, mục đích của NNPQ, không bị thay đổi và có hiệu lực vô thời hạn. Nhiệm vụ, trách nhiệm của nhà nước thật lớn lao trong nhiều lĩnh vực, trong đó không thể không kể đến việc bảo vệ bà mẹ và trẻ em (khoản 4 Điều 6 LCB); bình đẳng nam nữ trong việc làm và tiền lương; chế độ bảo hiểm xã hội, chăm sóc y tế ưu việt, tôn trọng, giúp đỡ người tàn tật, trợ cấp thất nghiệp, trợ cấp xã hội, trợ cấp tiền nhà ở; các lĩnh vực bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế và bảo vệ môi trường, thực hiện tốt mục tiêu cải thiện, nâng cao điều kiện sống của người dân.

Quốc hội liên bang

Quốc hội CHLB Đức khóa XX (2021-2025) vừa được kiện toàn sau cuộc bầu cử ngày 26/9/2021 có 736 nghị sĩ (số lượng lớn nhất từ trước đến nay, đứng thứ hai thế giới) do Đảng Xã hội dân chủ đứng đầu, liên minh với Đảng Xanh và Đảng Dân chủ tự do để có đa số tuyệt đối nhằm thành lập Chính phủ liên bang.

Vốn duy trì và phát triển truyền thống đa nguyên, cởi mở, Quốc hội liên bang hiện tại có 8 đảng phái chính trị: Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo (CDU) 152 ghế, Đảng Xã hội dân chủ (SPD) 206 ghế; Đảng Con đường khác cho nước Đức (AfD) 83 ghế; Đảng Dân chủ tự do (FDP) 92 ghế; Đảng Cánh tả (Die Linke) 39 ghế; Đảng Xanh (Gruenen) 118 ghế; Đảng Liên minh xã hội thiên chúa giáo Đức (CSU) 45 ghế và Đảng Dân tộc ít người gốc Đan Mạch (SSW) 1 ghế.

Cơ sở của bức tranh đa màu sắc trên đây là truyền thống dân chủ như đã nêu trên và quy định tại khoản 1 Điều 22 LCB khi Hiến pháp liên bang khẳng định việc thành lập một đảng phái chính trị là quyền tự do của mỗi người; tuy nhiên, điều lệ, nội dung hoạt động phải phù hợp với nguyên tắc dân chủ, phải công khai tài chính  tài sản của đảng; ngược lại, nếu vi hiến, đảng phái chính trị đó sẽ bị Tòa án Hiến pháp liên bang tuyên bố cấm hoạt động vĩnh viễn.

Ở CHLB Đức, nguyên tắc cơ cấu, tổ chức các cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền ở trung ương và địa phương luôn gắn với phương châm quyền lực không được tập trung vào một cá nhân, cơ quan, tổ chức “quá mức cho phép”. Đây là kết quả của bài học quý báu được đúc kết sau khi nước Đức trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới thứ nhất và thứ hai. Ví dụ: Chủ tịch Quốc hội liên bang thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng 1 trong 2 người đại diện thuộc Đảng Liên minh dân chủ thiên chúa giáo; 3 phó chủ tịch quốc hội thuộc 3 đảng phái chính trị khác nhau: Đảng Xanh, Đảng Cánh tả và Đảng Dân chủ tự do.

Một tiêu chí đặt ra trong khi thực hiện nhiệm vụ lập pháp là Quốc hội liên bang phải luôn gắn nội dung các văn bản quy phạm pháp luật được ban hành vào trật tự pháp luật thống nhất, phù hợp vời hiến pháp; kỹ thuật lập pháp phải bảo đảm tính khúc chiết, nội dung phải minh bạch, rõ ràng; các quy định phải “nhìn xa, trông rộng”, thực tế, dễ áp dụng, tránh sửa đổi, bổ sung nhiều.

Trong quá trình hoạt động, Quốc hội liên bang thực hiện “chức năng kép” không kém phần quan trọng là kiểm tra, giám sát hoạt động của Chính phủ liên bang, kể cả việc sử dụng Ủy ban điều tra của Quốc hội (Điều 44 LCB) - một công cụ hữu hiệu trong trường hợp thành viên Chính phủ liên bang vi phạm pháp luật. Tương ứng, quốc hội 16 bang trên toàn nước Đức kiểm soát quyền lực chính phủ của các bang.

Để giúp Quốc hội thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, năm 2021 Quốc hội liên bang Đức biên chế đến 4.500 cán bộ đảm nhận công việc thư ký, kỹ thuật, phục vụ cùng với 1.700 cộng tác viên khoa học; như vậy, số lượng này gần gấp 10 lần số nghị sĩ quốc hội!

Tại CHLB Đức, vốn từ lâu đã thành thông lệ: đảng đối lập trong Quốc hội liên bang thực hiện công bố kết quả kiểm tra, giám sát Chính phủ liên bang trước công luận. Phương thức này thể hiện tính chất dân chủ, công khai và minh bạch.

Hội đồng liên bang

Hội đồng liên bang có 69 thành viên, là “quốc hội của chính phủ các bang” đại diện cho vhính phủ 16 bang trên toàn nước Đức; có quyền tham gia vào quy trình lập pháp liên bang và các công việc của Liên minh châu Âu. Số lượng thành viên mỗi bang tỷ lệ thuận với dân số của bang, dựa trên nguyên tắc “phân chia và kiểm soát tốt quyền lực” để tất cả các bang đều có đại diện.

Ủy ban hỗn hợp

Ủy ban hỗn hợp giữa Quốc hội liên bang và Hội đồng liên bang gồm 48 thành viên (tỷ lệ 2/3 và 1/3) theo quy định tại Điều 53 LCB. Ủy ban hỗn hợp có vai trò và ý nghĩa to lớn, đặc biệt trong trường hợp khẩn cấp cả nước có chiến tranh và Quốc hội liên bang không thể nhóm họp kịp thời. Việc thành lập và thủ tục của Ủy ban hỗn hợp được quy định trong Quy chế làm việc do Quốc hội liên bang ban hành, tuy nhiên cần được sự đồng thuận của Hội đồng liên bang.

Chính phủ liên bang

Ngày 08/12/2021, Chính phủ CHLB Đức gồm Thủ tướng Chính phủ và 16 bộ được thành lập, trong đó có 7 nữ bộ trưởng, được cơ cấu từ liên minh 3 đảng phái chính trị: Đảng Dân chủ xã hội (trong đó có Thủ tướng Chính phủ), Đảng Xanh (trong đó có Phó Thủ tướng) và Đảng Dân chủ tự do. Qua đó cho thấy năng lực, vai trò của phụ nữ trong chính phủ mới tiếp tục được kế thừa và phát huy, sự bình đẳng giới được thể hiện rõ nét. Thủ tướng Chính phủ là người thuộc Đảng Xã hội dân chủ, nhưng Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Bộ Ngoại giao lại là thành viên thuộc Đảng Xanh…

Một số nguyên tắc cơ bản của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Ở CHLB Đức, các nguyên tắc cơ bản được quy định trong LCB là “bất di bất dịch”, có hiệu lực vĩnh viễn, không bị thay đổi, cho dù có sửa đổi Hiến pháp hoặc các đạo luật có liên quan.

Nguyên tắc phân chia quyền lực

Với CHLB Đức, phân chia quyền lực theo nghĩa rộng ở nhà nước liên bang và nghĩa hẹp ở nhà nước các bang là nguyên tắc được đề cao. Vấn đề là ở chỗ, phân chia như thế nào để phù hợp, sử dụng và kiểm soát tốt quyền lực, tránh vượt quyền, lạm quyền, tham nhũng, nửa vời, qua đó tập trung sức mạnh quyền lực nhà nước để xây dựng, phát triển đất nước, xã hội văn minh, giàu đẹp.

Nhà nước pháp quyền phải là thiết chế được phân chia quyền lực theo quy định tại khoản 2 Điều 20 LCB: lập pháp, hành pháp, tư pháp; trong đó gắn lập pháp vào trật tự pháp luật phù hợp với Hiến pháp, gắn hành pháp và tư pháp vào các đạo luật và các quy định pháp luật khác (khoản 3 Điều 20 LCB).

Ngoài ra, CHLB Đức là Nhà nước liên bang nên sự phân chia quyền lực cũng trải đều từ trung ương (cấp liên bang) đến 16 bang với những yếu tố tự nhiên, xã hội, môi trường… không giống nhau. Tòa án Hiến pháp liên bang giải quyết các vụ tranh chấp hiến pháp để bảo vệ sự phân cấp, phân chia quyền lực giữa liên bang và các bang đã được LCB (Điều 30) bảo đảm.

Điều 20 và Điều 28 LCB 1949 quy định một số nguyên tắc cơ bản của NNPQ CHLB Đức. Hiến pháp của 16 bang nước Đức cũng quy định các nguyên tắc hiến định tương ứng. Cho dù có sửa đổi, bổ sung LCB và hiến pháp các bang thì những nguyên tắc cơ bản đó cũng không bị xóa bỏ, không được thay đổi (khoản 3 Điều 79 LCB).

Có thể nói, việc phân chia quyền lực nêu trên là phương thức hữu hiệu nhất để kiểm soát tốt quyền lực lẫn nhau giữa ba “trụ cột” trong một NNPQ và cũng là phương thức tối ưu nhất để bộ máy nhà nước hoạt động có hiệu quả, đưa ra những quyết định đúng đắn về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, khoa học kỹ thuật… cho đất nước.

CHLB Đức duy trì “chiến lược nhìn xa, trông rộng”: ngay trong các cơ quan hiến pháp ở cấp cao nhất liên bang thì việc phân chia quyền lực là sợi chỉ đỏ xuyên suốt trong cơ cấu, tổ chức. Phân chia quyền lực tạo điều kiện cho cân bằng và kiểm soát tốt quyền lực; xin nêu ví dụ: trong Quốc hội liên bang, tuy Đảng Xã hội dân chủ có số lượng nghị sĩ đông nhất nhưng không vì thế mà đảng này độc quyền lãnh đạo.

Bộ máy nhà nước cũng cần được tinh giản: Phó Tổng thống liên bang do thủ hiến 16 bang thay đổi luân phiên hàng năm (nhiệm kỳ 1 năm) sau khi được bầu làm Chủ tịch Hội đồng liên bang; Phó Thủ tướng Chính phủ liên bang cũng vậy, chỉ có một mà thôi.

Bình đẳng trước pháp luật

Nguyên tắc xuyên suốt của NNPQ liên bang, dân chủ và xã hội CHLB Đức là các cơ quan quyền lực nhà nước phải bảo vệ quyền cơ bản của công dân. Chính phủ liên bang cũng như chính phủ các bang cũng là những chủ thể pháp luật; trong trường hợp vi phạm, bị khởi kiện trước tòa án cũng chỉ là “đương sự”. Người dân được đối xử bình đẳng trước pháp luật; được trao các cơ hội ngang bằng trong đời sống xã hội là quy định mang nhiều ý nghĩa (Điều 33 LCB).

Trong trường hợp quyền cơ bản của người dân bị cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền vi phạm, người đó có thể khiếu nại lên Tòa án Hiến pháp liên bang hoặc tòa án hiến pháp bang để được bảo vệ theo khoản 1 Điều 1 và khoản 4 Điều 19 LCB.

Trong nền kinh tế thị trường xã hội cần được tự do kinh doanh, tự do cạnh tranh lành mạnh, tự do thương mại, bảo đảm sở hữu tư nhân, bình đẳng giữa các hãng, doanh nghiệp sản xuất, tiêu thụ, không có sự can thiệp của nhà nước; tuy nhiên, nhà nước phải hoàn thiện khung pháp luật để tạo điều kiện tốt cho kinh tế phát triển.

Xây dựng trật tự pháp luật thống nhất, hợp hiến và có hiệu quả

Trong NNPQ, khi pháp luật giữ vị trí độc tôn, thì việc xây dựng một hệ thống pháp luật thống nhất trên cơ sở tôn trọng và phù hợp hiến pháp (LCB) và trật tự pháp luật nói chung, đầy đủ, đồng bộ cả về luật nội dung và luật thủ tục là yếu tố quan trọng, hơn nữa hệ thống pháp luật phải được bảo đảm thực thi có hiệu quả. Ở trung ương - Bộ Tư pháp liên bang, ở địa phương - Bộ Tư pháp các bang được giao trọng trách thực hiện nhiệm vụ này. Trong cùng một vấn đề cần giải quyết thì ưu tiên áp dụng luật liên bang (Điều 31 LCB).

Tính độc lập của tư pháp

Tính độc lập tuyệt đối của các cơ quan tư pháp là mắt xích quan trọng trong guồng máy hoạt động nhịp nhàng của nhà nước pháp quyền CHLB Đức, đặc biệt là tòa án phải đặt nhiệm vụ bảo vệ người dân trước các hành vi vi phạm của cơ quan nhà nước, cơ quan công quyền lên hàng đầu. LCB, các luật tổ chức tòa án là cơ sở pháp lý cho việc thực hiện nhiệm vụ giải quyết những vi phạm do cơ quan nhà nước gây ra (khoản 4 Điều 19 LCB). Thẩm phán có quyền giải thích luật, độc lập xét xử, chỉ tuân theo pháp luật (Điều 97 LCB), cơ chế tổ chức hoạt động tự do, độc lập và tự quản của các đoàn luật sư. 

Cái hay của quy trình đào tạo thống nhất thẩm phán, luật sư, công tố viên, công chứng viên từ 8 đến 9 năm của CHLB Đức đã tạo nên một đội ngũ cử nhân luật “đa năng”, có thể đảm nhận được công việc trong nhiều lĩnh vực khác nhau.

Hoạt động Chính phủ liên bang gắn liền với pháp luật  

Định hướng, hoạch định chính sách đúng là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, khoa học kỹ thuật của đất nước, là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của Chính phủ. Trước Quốc hội liên bang, các nghị sĩ phải được thông tin đầy đủ về các quyết định đó để thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ kiểm soát Chính phủ (khoản 1 Điều 43 LCB).

Một số thành quả của Nhà nước pháp quyền CHLB Đức

Về kinh tế

Với mô hình kinh tế thị trường xã hội đã trải qua nhiều thập kỷ, CHLB Đức là một cường quốc kinh tế vững mạnh, luôn được nhìn nhận là “đầu tàu” kể từ khi thành lập Liên minh châu Âu (01/11/1993), hiện xếp thứ tư thế giới, nhiều năm là nước xuất khẩu hàng hóa thuộc loại lớn nhất và thứ ba thế giới, được cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Chất lượng hàng hóa, sản phẩm xuất xứ từ CHLB Đức là chủ đề mà người tiêu dùng trên toàn thế giới quan tâm. Theo kết quả thăm dò mới nhất của Viện nghiên cứu đánh giá quan điểm YouGov thuộc Trường Đại học tổng hợp Cambrige (Anh) của người tiêu dùng tại 23 quốc gia trên thế giới thì chất lượng sản phẩm, hàng hóa “Made in Germany” vẫn là số 1 thế giới, trên cả Ý, Anh, Pháp, Nhật Bản, Hàn Quốc.

Về chính trị, ngoại giao

Mô hình NNPQ liên bang dân chủ và xã hội theo quy định tại khoản 1 Điều 20 LCB 1949 được xây dựng, phát triển toàn diện và hiệu quả, khẳng định sự đúng đắn, phù hợp.

Là 1 trong 7 nước thành viên sáng lập Liên minh châu Âu (EU) và Khu vực đồng Euro (Eurozone), thành viên của Liên hợp quốc (UNO), Khối Bắc đại tây dương (NATO), Nhóm các nước công nghiệp phát triển hàng đầu thế giới (G7), Ngân hàng thế giới (WB), Qũy tiền tệ quốc tế (IMF). CHLB Đức là nhà tài trợ lớn; “gánh” 20% tài chính cho Liên minh châu Âu, đứng thứ 3 thế giới về đóng góp cho Liên hợp quốc.

CHLB Đức được nhiều nước thừa nhận có tầm ảnh hưởng lớn trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế gay cấn; có hệ thống chính trị được đánh giá là vững mạnh, trong sạch; chính vì vậy, tham ô, tham nhũng, lạm dụng quyền lực ít có cơ hội phát sinh.

Về khoa học kỹ thuật, công nghệ

Cộng hòa liên bang Đức là xứ sở của phát minh và các kỹ thuật nổi tiếng “Land of Ideas”, đứng đầu thế giới trong một số lĩnh vực công nghiệp và công nghệ; là nơi phát minh ô tô và là quê hương của ô tô hiện đại, sang trọng. Như chúng ta thường thấy, hầu hết các nguyên thủ quốc gia trên thế giới đều ưa chuộng sử dụng xe Mercedes hoặc BMW chống đạn. Hàng năm, hàng triệu fan “say tốc độ” trên khắp thế giới sẽ đến Đức để thử nghiệm “tay lái lụa” vì đây là nơi duy nhất không hạn chế tốc độ trên đường cao tốc.

Về giáo dục, đào tạo

Hệ thống giáo dục phổ thông, đại học của CHLB Đức có uy tín trên thế giới.

Theo US - New and World Report năm 2021, Trường Đại học tổng hợp Humboldt Berlin là trường được thành lập khá sớm (1810), là hình mẫu cho các nước châu Âu và phương Tây, có hiệu quả nghiên cứu học thuật và danh tiếng xếp thứ 4 ở Đức, nơi đào tạo ra nhiều thiên tài và nhà tư tưởng vĩ đại của Đức và thế giới như Albert Eínstein, Karl Marx, Johann Gotlieb Fichte, Robert Koch… Theo thời gian, các nhà khoa học trưởng thành từ Trường này đã giành được 55 giải thưởng Nobel về các lĩnh vực vật lý, hóa học và y học.

Là nước có chế độ học tập miễn phí từ cấp phổ thông cơ sở đến đại học, CHLB Đức thu hút hàng triệu học sinh, sinh viên, nghiên cứu sinh từ nhiều nước trên thế giới đến học tập, nghiên cứu.

Theo Tổ chức thống kê Mikrozensur của CHLB Đức, năm 2019 nước Đức có 862.000 người (chiếm 1,2% dân số cả nước) có học vị tiến sĩ trong các lĩnh vực khoa học, trong đó bao gồm cả đội ngũ giáo sư hùng hậu, phần lớn giảng dạy trong 426 trường đại học tổng hợp, đại học và đại học chuyên ngành, hàng ngàn viện nghiên cứu cũng như làm việc tại Tòa án Hiến pháp liên bang và Tòa án Hiến pháp của 16 bang trên cả nước với cương vị thẩm phán.

Về truyền thông, báo chí

Cộng hòa liên bang Đức, với vị thế đứng thứ 5 thế giới (báo và báo điện tử có lượng lưu hành lớn nhất thế giới) có 340 nhật báo, 17 tuần báo và 1.600 tạp chí các loại nên hầu hết các cơ quan đều có trung tâm báo chí công khai (đất nước của tự do báo chí) nên dư luận công chúng mạnh mẽ, góp phần xây dựng tinh thần trong đời sống xã hội.

Về thể thao, du lịch

Cộng hòa liên bang Đức là cường quốc thể thao, 4 lần vô địch thế giới, 3 lần vô địch châu Âu về bóng đá nam; 2 lần vô địch thế giới, 8 lần vô địch châu Âu về bóng đá nữ, có hơn 24 triệu thành viên, trong đó 3 triệu cầu thủ bóng đá (170.000 đội bóng) chơi trong 24.000 câu lạc bộ.

Đất nước này với những “lâu đài cổ tích” tuyệt đẹp (Neuschwanstein, Sanssouci, Hohenschwangau, Moritzburg…), nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng, được xếp hạng thứ 9 thế giới về du lịch là điểm cuốn hút gần 38 triệu du khách mỗi năm.

Hàng năm, “Lễ hội bia tháng Mười” nổi tiếng tại thành phố Muenchen cuốn hút 8 đến 10 triệu du khách trong nước và quốc tế. Đức là nước sản xuất hơn 5.000 loại bia và nhiều năm đứng đầu thế giới về xuất khẩu thức uống yêu thích này.

NGUYỄN QUANG DU

Tòa án Hiến pháp của Cộng hòa liên bang Đức

5. Quy định về trợ cấp tai nạn lao động

(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH vừa được Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội ban hành quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật An toàn, vệ sinh lao động về chế độ đối với người lao động bị tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp. 

Theo đó, tại Điều 4 Thông tư 28/2021/TT-BLĐTBXH quy định rõ người lao động bị tai nạn lao động làm suy giảm khả năng lao động từ 5% trở lên hoặc thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động được hưởng chế độ trợ cấp tai nạn lao động, nếu nguyên nhân xảy ra tai nạn lao động hoàn toàn do lỗi của chính người lao động bị nạn gây ra (căn cứ theo kết luận của biên bản điều tra tai nạn lao động).

Nguyên tắc trợ cấp: Tai nạn lao động xảy ra lần nào thực hiện trợ cấp lần đó, không cộng dồn các vụ tai nạn đã xảy ra từ các lần trước đó.

Mức trợ cấp:

- Ít nhất 12 tháng tiền lương cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ 81% trở lên hoặc cho thân nhân người lao động bị chết do tai nạn lao động;

- Ít nhất bằng 0,6 tháng tiền lương đối với người bị suy giảm khả năng lao động từ 5% đến 10%; nếu bị suy giảm khả năng lao động từ 11% đến 80% thì tính theo công thức dưới đây hoặc tra theo bảng tại Phụ lục I ban hành kèm theo Thông tư này:

Ttc = Tbt x 0,4

Trong đó:

- Ttc: Mức trợ cấp cho người lao động bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương);

- Tbt: Mức bồi thường cho người bị suy giảm khả năng lao động từ trên 10% trở lên (đơn vị tính: tháng tiền lương).

Ví dụ: Ông B bị tai nạn lao động lần thứ nhất do ông B đã vi phạm quy định về an toàn lao động, không do lỗi của ai khác. Giám định sức khỏe xác định mức suy giảm khả năng lao động của ông B là 15% do vụ tai nạn này. Mức trợ cấp lần thứ nhất cho ông B là: Ttc = Tbt x 0,4 = 3,5 x 0,4 =1,4 (tháng tiền lương).

Lần tiếp theo ông B bị tai nạn khi đi từ nơi làm việc về nơi ở (được điều tra và xác định là thuộc trường hợp được trợ cấp theo quy định tại khoản 1 Điều này). Giám định sức khỏe xác định mức suy giảm khả năng lao động do lần tai nạn này là 20%. Mức trợ cấp lần thứ hai cho ông B là:

Ttc = Tbt x 0,4 = 5,5 x 0,4 = 2,2 (tháng tiền lương).

Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/3/2022.

HỒNG HẠNH

Quy định về bồi thường tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp

6.Hà Nội còn 9 xã, phường vùng cam nguy cơ cao tại 6 quận, huyện

(LSVN) - Ngày 05/02, UBND thành phố Hà Nội có Thông báo đánh giá cấp độ dịch trong phòng, chống dịch Covid-19 trên địa bàn thành phố Hà Nội. Kết quả đánh giá cập nhật đến 9h ngày 04/2. Theo đó, so với tuần trước đó, số lượng vùng xanh tăng lên, còn số lượng vùng cam, vùng vàng giảm xuống.

 

Theo đánh giá cấp độ dịch quy mô xã, phường, thị trấn (dựa theo Quyết định số 218/QĐ-BYT của Bộ Y tế ban hành ngày 27/1, hiện Hà Nội có 541 đơn vị đạt cấp độ 1 - tương ứng với màu xanh, nguy cơ thấp (tăng 24 đơn vị so với tuần trước đó), 29 đơn vị đạt cấp độ 2 - màu vàng, nguy cơ trung bình (giảm 20 đơn vị), 9 đơn vị đạt cấp độ 3 - màu cam, nguy cơ cao (giảm 4 đơn vị) và không có địa bàn nào cấp độ 4 - màu đỏ, nguy cơ rất cao. 

Cụ thể, trong tuần qua có 9 xã, phường ở cấp độ 3, phân bố theo 6 quận, huyện như sau: 3 xã: Đông Phương Yên, Phú Nghĩa, Trung Hoà thuộc huyện Chương Mỹ, 2 phường: Khâm Thiên và Quốc Tử Giám thuộc quận Đống Đa, phường Vạn Phúc thuộc quận Hà Đông, xã Chi Đông thuộc huyện Mê Linh, phường Xuân Phương thuộc quận Nam Từ Liêm và xã Đại Thành thuộc huyện Quốc Oai. 

9 xã, phường nêu trên được đánh giá cấp độ dịch ở mức 3 dựa vào 2 tiêu chí là mức độ lây nhiễm ở mức 4 và khả năng đáp ứng ở mức cao. 

Ngoài ra, trong số 570 xã, phường, thị trấn còn lại có 29 đơn vị đạt cấp độ 2 và 541 đơn vị đạt cấp độ 1.

Theo báo cáo của Sở Y tế Hà Nội, trong đợt dịch thứ tư, tính từ ngày 29/4/2021 đến nay, Hà Nội ghi nhận 145.607 ca Covid-19.

Tính đến hết ngày 4/2, trên địa bàn Hà Nội hiện có gần 52.700 F0 đang điều trị, trong đó tại Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương cơ sở 2 là 152 ca; Bệnh viện Đại học Y Hà Nội là 171 ca, các bệnh viện của Hà Nội là 2.345.

Đặc biệt, trong 3 ngày gần đây, số F0 không triệu chứng và triệu chứng nhẹ điều trị tại các cơ sở thu dung thành phố và các cơ sở thu dung quận, huyện giảm còn dưới 700 ca. 

Số F0 điều trị tại nhà giảm còn 49.340 người theo dõi, giảm gần 6.000 ca so với 3 ngày trước. Trong ngày 4-2, số ca tử vong do Covid-19 là 23 trường hợp. Như vậy, tính từ ngày 29/4/2021 cho đến nay có 726 ca tử vong. 

HÀ ANH

Quy định mới về thủ tục ủy thác thi hành án và ủy thác xử lý tài sản

7. Hà Nội: Học sinh từ lớp 1 - 6 các huyện, thị xã trở lại trường từ ngày 10/02

(LSVN) - Ngày 05/02, Phó Chủ tịch UBND thành phố Hà Nội Chử Xuân Dũng ký Văn bản số 320/UBND-KGVX gửi Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Y tế, UBND các huyện, thị xã về việc cho học sinh từ lớp 1 đến lớp 6 thuộc 18 huyện, thị xã trở lại trường học sau thời gian tạm dừng đến trường để phòng, chống dịch Covid-19.

Văn bản nêu rõ, UBND thành phố thống nhất về nguyên tắc theo đề xuất của Sở Giáo dục và Đào tạo tại Tờ trình số 302/TTr-SGDĐT ngày 05/02/2022 về việc cho học sinh các khối lớp 1, 2, 3, 4, 5, 6 thuộc 18 huyện, thị xã trở lại trường học sau thời gian tạm dừng đến trường để phòng, chống dịch Covid-19. 

UBND thành phố Hà Nội giao Sở Giáo dục và Đào tạo chủ trì, phối hợp với Sở Y tế tiếp tục hướng dẫn UBND các huyện, thị xã thực hiện theo đúng hướng dẫn của Trung ương và thành phố, bảo đảm an toàn tuyệt đối khi tổ chức dạy học trực tiếp. 

UBND các huyện, thị xã căn cứ tình hình thực tiễn dịch bệnh để quyết định và chịu trách nhiệm về việc cho học sinh đi học trở lại trên địa bàn; tiếp tục hoàn thiện, tăng cường cơ sở vật chất, nhân lực cho lực lượng y tế trường học, bảo đảm y tế trường học được trang bị đầy đủ và sẵn sàng khi học sinh đến trường. 

Theo Tờ trình số 302/TTr-SGDĐT, Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội đề xuất: Từ ngày 10/02/2022, học sinh lớp 1, 2, 3, 4, 5, 6 thuộc 18 huyện, thị xã đi học trực tiếp. Học sinh lớp 1, 2, 3, 4, 5, 6 thuộc 12 quận tiếp tục học trực tuyến. Trẻ mầm non tiếp tục nghỉ học tại nhà.

Hà Nội chỉ tổ chức dạy học trực tiếp ở các địa bàn có dịch ở cấp độ 1, 2; các địa bàn ở cấp độ 3, 4 tổ chức dạy học theo hình thức trực tuyến. Học sinh cư trú tại địa bàn có dịch ở cấp độ 3, 4 không đến trường học mà ở nhà học trực tuyến, nhà trường có trách nhiệm phân công giáo viên dạy học cho các em.

Trường học phải đạt yêu cầu an toàn phòng, chống dịch. Giáo viên chưa tiêm đủ vaccine phòng Covid-19 theo quy định của ngành Y tế chỉ dạy học trực tuyến, không đến lớp dạy trực tiếp. Các trường không tổ chức bán trú, căng tin ăn uống trong trường, chỉ tổ chức dạy học trực tiếp 1 buổi/ngày.

Trong quá trình tổ chức dạy học trực tiếp, nếu xảy ra các trường hợp liên quan đến vấn đề dịch tễ, không bảo đảm an toàn trong phòng, chống dịch, nhà trường chủ động xử lý theo hướng dẫn và báo cáo ban chỉ đạo phòng, chống dịch tại địa phương. Ban Chỉ đạo phòng, chống dịch Covid-19 cấp quận, huyện, thị xã có trách nhiệm xem xét, cho dừng việc học tập trực tiếp để bảo đảm an toàn tuyệt đối cho học sinh; có kịch bản xử lý tình huống nếu có F0, F1 tại lớp, trường học.

Sau thời gian thực hiện, căn cứ tình hình diễn biến dịch bệnh tại các địa phương và đề nghị của UBND các quận, huyện, thị xã, Sở Giáo dục và Đào tạo phối hợp với Sở Y tế sẽ có báo cáo, trình UBND thành phố lộ trình tiếp theo về việc cho học sinh trở lại trường học bảo đảm an toàn.

VĂN QUANG

Quy định mới về thủ tục ủy thác thi hành án và ủy thác xử lý tài sản

8. Chính phủ đồng ý mua 21,9 triệu liều vaccine Covid-19 của Pfizer cho trẻ em 5 đến dưới 12 tuổi

(LSVN) - Chính phủ đồng ý việc Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu đối với việc mua 21,9 triệu liều vaccine phòng Covid-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.

Chính phủ vừa ban hành Nghị quyết số 14/NQ-CP về việc mua vaccine phòng Covid-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi.

Theo đó, Chính phủ quyết nghị đồng ý việc Thủ tướng Chính phủ cho phép áp dụng hình thức lựa chọn nhà thầu trong trường hợp đặc biệt quy định tại Điều 26 Luật đấu thầu đối với việc mua 21,9 triệu liều vaccine phòng Covid-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi với các điều kiện như Nghị quyết số 09/NQ-CP ngày 18 tháng 5 năm 2021 của Chính phủ về mua vaccine phòng Covid-19 BNT162 của Pfizer.

Chính phủ giao Bộ Y tế chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện việc mua, triển khai tiêm vaccine phòng Covid-19 của Pfizer cho trẻ em từ 5 đến dưới 12 tuổi, bảo đảm khoa học, an toàn, hiệu quả.

PHƯƠNG HOA

Nghiêm cấm đảng viên chiếm hữu, định đoạt, sử dụng trái phép tài sản công

9. 

Admin