CHIỀU
1. Hướng dẫn xử lý các khoản nợ và tài sản khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp nhà nước
(LSVN) - Đây là một trong những quy định đáng chú ý tại Thông tư 07/2022/TT-BTC ngày 09/02/2022 do Bộ Trưởng Bộ Tài Chính ban hành hướng dẫn bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ khi chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập.
![]()
Thông tư này hướng dẫn việc bàn giao, tiếp nhận, xử lý các khoản nợ và tài sản loại trừ không tính vào giá trị doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp công lập khi thực hiện chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên thuộc doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ, chuyển đơn vị sự nghiệp công lập thành công ty cổ phần và các khoản nợ, tài sản tiếp nhận, xử lý theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Theo đó, tại Điều 7 Thông tư quy định rõ về xử lý nợ và tài sản đã tiếp nhận. Cụ thể, Công ty Mua bán nợ thực hiện các hình thức xử lý nợ và tài sản loại trừ đã tiếp nhận theo quy định tại Nghị định số 129/2020/NĐ-CP và Quy chế tài chính của Công ty, đảm bảo nguyên tắc công khai, minh bạch và phù hợp với các quy định hiện hành đối với từng hình thức xử lý nợ và tài sản. Đối với tài sản là quyền sử dụng đất thì việc xử lý phải đảm bảo theo quy định của pháp luật về đất đai.
Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản bảo đảm khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để tổ chức bán tài sản theo phương thức đấu giá theo quy định.
Đối với tài sản (bao gồm cả tài sản đảm bảo khoản nợ) có giá trị còn lại trên sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.
Đối với tài sản tiếp nhận theo chỉ định của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, trường hợp cần thiết phải sửa chữa, nâng cấp độ nâng cao hiệu quả xử lý tài sản theo quy định, Công ty Mua bán nợ được sử dụng nguồn vốn kinh doanh để thực hiện phù hợp với chức năng, nhiệm vụ theo thẩm quyền quy định và chỉ đạo của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ.
Số tiền thu hồi được sau khi trừ các chi phí phát sinh liên quan đến việc sửa chữa, nâng cấp tài sản, số còn lại được thực hiện theo quy định tại Điều 9 Thông tư này.
Đối với lô tài sản của 01 doanh nghiệp tại 01 địa chỉ:
- Đối với lô tài sản bao gồm các tài sản có giá trị còn lại theo sổ sách kế toán dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn bán theo phương thức đấu giá hoặc thỏa thuận theo giá không thấp hơn giá thị trường. Trường hợp trong lô có tài sản không có giao dịch trên thị trường thì Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định giá để làm cơ sở bán tài sản và Công ty Mua bán nợ chịu trách nhiệm về việc quyết định giá bán tài sản.
- Đối với lô tài sản trong đó có tài sản có giá trị còn lại theo sổ sách kế toán từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thuê tổ chức định giá có chức năng thẩm định giá để thẩm định giá và thực hiện như sau: Trường hợp tổng giá trị theo kết quả thẩm định giá của lô tài sản từ 100 triệu đồng trở lên, Công ty Mua bán nợ thực hiện bán đấu giá theo quy định; Trường hợp tổng giá trị theo kết quả thẩm định giá của lô tài sản dưới 100 triệu đồng, Công ty Mua bán nợ quyết định lựa chọn hình thức bán đấu giá hoặc bán thỏa thuận.
Giá khởi điểm để bán đấu giá hoặc bán thỏa thuận được xác định không thấp hơn giá thị trường hoặc giá do tổ chức có chức năng thẩm định giá xác định (trong trường hợp thuê tổ chức có chức năng thẩm định giá).
Trường hợp bán theo phương thức thỏa thuận mà có từ 02 người mua (là tổ chức, cá nhân) trở lên và trả mức giá bằng nhau thì thực hiện bỏ phiếu kín với giá khởi điểm là mức giá trả bằng nhau và người mua trả mức giá cao nhất là người được mua lô tài sản. Trường hợp người mua bỏ phiếu kín với mức giá bằng nhau thì tiếp tục bỏ phiếu kín đến khi có người mua trả mức giá cao hơn người mua còn lại theo nguyên tắc giá khởi điểm là mức giá đã trả bằng nhau của lần bỏ phiếu kín liền kề trước đó.
Một số trường hợp xử lý tài sản:
- Trường hợp bán đấu giá tài sản không thành công, Công ty Mua bán nợ điều chỉnh giá khởi điểm theo quy định để tiếp tục bán đấu giá. Mức giảm tối đa không quá 10% giá khởi điểm của cuộc đấu giá không thành công liền kề trước đó.
- Đối với tài sản không có giá trị thu hồi, tài sản cần phải hủy bỏ, tháo dỡ, Công ty Mua bán nợ phối hợp với doanh nghiệp tổ chức hủy bỏ, tháo dỡ hoặc thuê tổ chức bên ngoài thực hiện hủy bỏ, tháo dỡ.
Trường hợp bên nợ thanh toán đủ nợ gốc trong vòng 12 tháng kể từ ngày bên nợ cam kết trả hết nợ gốc thì Công ty Mua bán nợ xem xét xóa nợ lãi chậm nộp (kể cả tiền lãi chậm thi hành án trong trường hợp có quyết định của Tòa án) sau khi bên nợ trả hết nợ gốc theo cam kết.
Đối với khoản nợ không có khả năng thu hồi (bao gồm cả nợ xử lý trước thời điểm bàn giao) đã được Công ty Mua bán nợ theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trên 10 năm (bao gồm cả thời gian doanh nghiệp theo dõi ngoài bảng cân đối kế toán trước khi chuyển giao cho Công ty Mua bán nợ), Công ty Mua bán nợ báo cáo Bộ Tài chính có ý kiến trước khi Công ty Mua bán nợ quyết định loại trừ, không tiếp tục theo dõi trên sổ sách theo quy định tại điểm g khoản 2 Điều 17 Nghị định số 129/2020/NĐ-CP.
Đối với nợ tiếp nhận theo chỉ định, Công ty Mua bán nợ căn cứ phương án xử lý nợ chỉ định được cấp có thẩm quyền phê duyệt và các hình thức, nội dung xử lý nợ theo quy định tại Nghị định 129/2020/NĐ-CP để xử lý.
DUY ANH
Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình
2. Xử lý nghiêm tình trạng đòi nợ thiếu văn hóa, vi phạm pháp luật
(LSVN) - Thời gian gần đây, một số địa phương xuất hiện tình trạng đòi nợ biến tướng như ghép hình ảnh lãnh đạo địa phương, đơn vị để gây sức ép buộc người vay trực tuyến phải trả tiền hay tạt sơn, chất bẩn hoặc phá hoại để đe dọa, khủng bố... Mới đây là vụ hàng chục người mang quan tài và mở nhạc đám ma trước nhà chủ hụi để đòi nợ ở Đắk Lắk gây bức xúc trong dư luận xã hội.
![]()
Ảnh minh họa.
Có thể khẳng định, các hành vi đòi nợ như vậy là không hợp pháp, thiếu văn hóa và vi phạm pháp luật ảnh hưởng đến trật tự xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, tổ chức khác. Do đó, các cơ quan chức năng cần phải vào cuộc để sớm chấn chỉnh, dẹp bỏ và xử lý nghiêm các đối tượng có liên quan.
Bởi kiểu đòi nợ này không chỉ là hành vi "khủng bố" tinh thần con nợ, trái với thuần phong, mỹ tục, văn hóa của dân tộc mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến tình hình an ninh, trật tự an toàn xã hội của địa phương. Đặc biệt hành vi đòi nợ thiếu văn hóa nếu không sớm được dẹp bỏ còn gây hoang mang, bất an trong dư luận, gây tâm lý không tốt cho người dân, nhất là trẻ em khi phải chứng kiến cảnh người lớn tụ tập chửi bới, chết chóc, tang thương một cách vô lý!
Bên cạnh đó, dù là hành vi đòi nợ thiếu văn hóa, vi phạm pháp luật nhưng thường thì rất nhiều hiếu kỳ tụ tập để xem nên gây mất trật tự công cộng, ùn tắc giao thông nếu vụ việc ở gần đường giao thông. Một số vụ việc người dân tụ tập đòi nợ, sau đó xảy ra xô xát, gây gổ đánh nhau gây thương tích thậm chí dẫn đến án mạng gây hậu quả rất nguy hiểm.
Do đó, các cơ quan chức năng cần vào cuộc xử lý nghiêm các đối tượng có hành vi vi phạm. Điều này không chỉ ngăn chặn, xử lý các hành vi vi phạm pháp luật mà còn chấn chỉnh tình trạng biến tướng, vi phạm pháp luật trong quan hệ giao dịch dân sự thông thường. Theo đó, các quan hệ giao dịch dân sự, cụ thể là vay-nợ cần hướng phải đến giải quyết tranh chấp bằng con đường văn minh hơn như đưa vụ việc ra tòa án, tổ chức trọng tài hoặc cơ quan chức năng nếu vụ việc có dấu hiệu vi phạm pháp luật, tội phạm.
Xử lý nghiêm việc đòi nợ theo các cách thức thiếu văn hóa, vi phạm pháp luật cũng cách giáo dục, uốn nắn, chấn chỉnh tình trạng ứng xử thiếu tình người trong văn hóa ứng xử giữa người với người trong xã hội hiện nay./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Vay tín chấp ngân hàng không có khả năng chi trả có bị khởi tố hình sự không?
3. Người cha ném con gái xuống sông vì ghen tuông đối diện với tội danh nào?
(LSVN) – Theo Luật sư trong trường hợp kết quả điều tra cho thấy nạn nhân tử vong là do bị người cha ném xuống sông thì Cơ quan điều tra sẽ khởi tố bị can về tội ‘Giết người’ với nhiều tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là giết người dưới 16 tuổi; có tính chất côn đồ,... nên khung hình phạt sẽ là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
![]()
Lực lượng Công an dựng lại hiện trường cha ném con tử vong.
Tạm giữ hình sự người cha ném con gái xuống sông vì ghen tuông
Công an tỉnh Quảng Nam đang tạm giữ hình sự đối với Trần Văn Viên (30 tuổi, trú xã Tam Hải, huyện Núi Thành) để làm rõ hành vi giết người. Viên được xác định là người đã ném con gái xuống sông vì cuồng ghen.
Theo kết quả điều tra ban đầu, Viên và vợ là chị N. (SN 1992) xảy ra mâu thuẫn từ trước Tết Nguyên đán Nhâm Dần nên chị N. bỏ về nhà mẹ đẻ (ở cùng thôn). Sau kỳ nghỉ Tết, chị N. tiếp tục vào TP. HCM để làm công nhân may.
Do thời gian gần đây, Viên nhiều lần gọi điện cho vợ nhưng chị N. không nghe máy. Nghi ngờ vợ mình có quan hệ ngoài luồng nên Viên tức giận, ghen tuông. Khoảng 19 giờ ngày 16/02, Viên gọi điện cho chị N. và cả hai xảy ra cãi vã. Sau đó, Viên đến nhà mẹ vợ gần đó, bế con gái 5 tuổi ra bến đò thôn Đông Tuần (cách nhà khoảng 1km) ném xuống sông rồi bỏ về nhà.
Hành vi của Viên đã bị camera an ninh tại khu vực này ghi lại được. Ngay khi nhận được thông tin, Công an cùng chính quyền địa phương và người dân đã tổ chức tìm kiếm, đến 0 giờ 30 ngày 17/02, thi thể bé gái được tìm thấy.
Đến trưa 17/02, Công an tỉnh Quảng Nam đưa Viên ra thực nghiệm hiện trường tại nơi ném con mình xuống sông.
Tại cơ quan Công an, Viên khai nhận toàn bộ hành vi của mình và cho biết do ghen tuông, giận vợ nên giết con để trả thù. Vụ việc đang tiếp tục được làm rõ.
Đối diện với tội danh nào?
Theo Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp, nếu vì ghen tuông, nóng giận mà ném con mình xuống sông thì đây là hành vi tàn nhẫn, mất tính người. Hành vi này trực tiếp xâm phạm đến tính mạng của trẻ em, là hành vi giết người, do đó Cơ quan điều tra có thể khởi tố vụ án hình sự về tội ‘Giết người’ để tiến hành các hoạt động điều tra theo quy định pháp luật.
Trong trường hợp kết quả điều tra cho thấy nạn nhân tử vong là do bị người đàn ông này ném xuống sông thì Cơ quan điều tra sẽ khởi tố bị can về tội ‘Giết người’ với nhiều tình tiết định khung tăng nặng trách nhiệm hình sự là giết người dưới 16 tuổi; có tính chất côn đồ,... nên khung hình phạt sẽ là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình.
Cụ thể Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định tội danh và hình phạt như sau:
Điều 123. Tội giết người 1. Người nào giết người thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, tù chung thân hoặc tử hình: a) Giết 02 người trở lên; b) Giết người dưới 16 tuổi; c) Giết phụ nữ mà biết là có thai; d) Giết người đang thi hành công vụ hoặc vì lý do công vụ của nạn nhân; đ) Giết ông, bà, cha, mẹ, người nuôi dưỡng, thầy giáo, cô giáo của mình; e) Giết người mà liền trước đó hoặc ngay sau đó lại thực hiện một tội phạm rất nghiêm trọng hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; g) Để thực hiện hoặc che giấu tội phạm khác; h) Để lấy bộ phận cơ thể của nạn nhân; i) Thực hiện tội phạm một cách man rợ; k) Bằng cách lợi dụng nghề nghiệp; l) Bằng phương pháp có khả năng làm chết nhiều người; m) Thuê giết người hoặc giết người thuê; n) Có tính chất côn đồ; o) Có tổ chức; p) Tái phạm nguy hiểm; q) Vì động cơ đê hèn. 2. Phạm tội không thuộc các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, thì bị phạt tù từ 07 năm đến 15 năm 3. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm. 4. Người phạm tội còn có thể bị cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm, phạt quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm. |
Luật sư đánh giá, nếu kết quả điều tra cho thấy người đàn ông này đã ném con gái mình xuống sông chỉ vì ghen tuông với mẹ của cháu bé thì đây đúng là tội ác không thể dung thứ, hành vi này cho thấy mức độ tàn nhẫn, mất tính người, coi thường tính mạng của người khác. Hành vi này cho thấy đỉnh điểm của những suy nghĩ tiêu cực dồn nén không có lối thoát. Người xưa nói: "hổ dữ cũng không ăn thịt con", những người ra tay sát hại con mình thường là người tâm thần hoặc những người có đạo đức thấp kém, nóng giận đến mất tính người bởi vậy người đàn ông này có thể sẽ phải chịu chế tài nghiêm khắc nhất.
Nếu người đàn ông này có biểu hiện tâm thần thì Cơ quan điều tra cũng sẽ tiến hành trưng cầu giám định tâm thần cho người đàn ông này để xác định năng lực trách nhiệm hành vi dân sự. Trường hợp người đàn ông này không bị bệnh tâm thần mà lại có hành vi ném con mình xuống sông thì đó là hành vi rất đáng lên án và cần phải có bản án thích đáng.
Có những sai lầm có thể sửa chữa, khắc phục được, nhưng có những sai lầm không thể sửa chữa được. Dù là nóng giận, ghen tuông hay bất kỳ lý do gì khác thì hành vi ném con đẻ của mình xuống sông cũng là hành vi đáng lên án và đáng phải chịu chế tài nghiêm khắc nhất của pháp luật để bảo vệ trẻ em, đảm bảo an ninh trật tự, an toàn xã hội và để răn đe, phòng ngừa chung cho xã hội.
TIẾN HƯNG
Cách xử lý khi phát hiện F0, F1 tại trường học
4. Giảm đến 30% đối với mức giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 theo quy định mới nhất
(LSVN) - Bộ Y tế vừa ban hành Thông tư quy định giá xét nghiệm SARS-CoV-2. Theo đó, mức giá trần mới sẽ giảm cao nhất khoảng 30% so với giá hiện hành.
![]()
Ảnh minh họa.
Thông tư này quy định giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 do cơ sở y tế của Nhà nước thực hiện, bao gồm việc lấy mẫu, bảo quản mẫu, thực hiện và trả kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2. Theo Thông tư mới nhất này, mức giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 trong trường hợp thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế như sau:
Xét nghiệm SARS-CoV-2 Ag test nhanh mẫu đơn: Giá dịch vụ bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí tiền lương cộng chi phí sinh phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 theo quy định có mức thanh toán tối đa không quá 78.000 đồng/xét nghiệm.
Mức giá theo quy định hiện hành ở Thông tư 16 là 109.700 đồng/xét nghiệm. Như vậy mức giá mới sẽ giảm khoảng 30% so với giá đang thực hiện.
Xét nghiệm SARS-CoV-2 bằng máy miễn dịch tự động hoặc bán tự động mẫu đơn: Giá dịch vụ bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí tiền lương cộng chi phí sinh phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 theo quy định có mức thanh toán tối đa không quá 178.900 đồng/xét nghiệm.
Xét nghiệm SARS-CoV-2 bằng kỹ thuật Realtime RT-PCR:
- Trường hợp mẫu đơn: Giá dịch vụ bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí tiền lương cộng chi phí sinh phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 cho phản ứng theo quy định có mức thanh toán tối đa không quá 501.800 đồng/xét nghiệm.
- Trường hợp gộp mẫu: Giá dịch vụ bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí tiền lương cộng chi phí sinh phẩm xét nghiệm SARS-CoV-2 cho phản ứng theo quy định, trong đó sinh phẩm xét nghiệm cho phản ứng được chia đều theo số mẫu gộp. Mức thanh toán tối đa không vượt quá mức giá xét nghiệm gộp mẫu quy định tại phụ lục ban hành kèm theo Thông tư này.
Mức giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 trong trường hợp không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế:
- Đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh của Nhà nước thuộc các tỉnh, thành phố và các cơ sở khám, chữa bệnh trực thuộc các Bộ, cơ quan trung ương đóng trên địa bàn địa phương, trừ trường hợp lấy mẫu, bảo quản mẫu, thực hiện và trả kết quả xét nghiệm SARS-CoV-2 tại cộng đồng do ngân sách Nhà nước chi trả theo quy định của Luật phòng, chống bệnh truyền nhiễm: Việc xác định mức giá thực hiện theo quy định như trên, trong đó mức giá bao gồm chi phí trực tiếp và chi phí tiền lương (chưa bao gồm sinh phẩm xét nghiệm phản ứng) do cấp có thẩm quyền của địa phương quy định nhưng không vượt mức giá tối đa khung giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 theo quy định tại Thông tư này.
- Đối với các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh trực thuộc Bộ Y tế và các bệnh viện hạng đặc biệt, bệnh viện hạng I thuộc các Bộ, cơ quan trung ương và các cơ sở y tế của Nhà nước thực hiện dịch vụ y tế dự phòng: mức giá thực hiện theo quy định như trên.
Trường hợp cơ sở y tế chuyển mẫu bệnh phẩm sang cơ sở y tế khác đủ điều kiện thực hiện xét nghiệm:
- Đối với trường hợp thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế: thực hiện thanh toán đối với trường hợp chuyển thực hiện dịch vụ cận lâm sàng theo quy định của pháp luật về bảo hiểm y tế;
- Đối với trường hợp không thuộc phạm vi thanh toán của Quỹ bảo hiểm y tế: thanh toán theo mức giá dịch vụ xét nghiệm SARS-CoV-2 của đơn vị thực hiện xét nghiệm theo quy định tại Thông tư này và chi phí mua sinh phẩm xét nghiệm của đơn vị thực hiện xét nghiệm theo quy định của pháp luật về đấu thầu.
Trường hợp việc lấy mẫu hoặc thực hiện xét nghiệm có sử dụng vật tư, sinh phẩm xét nghiệm được cấp từ nguồn phòng, chống dịch do ngân sách Nhà nước bảo đảm hoặc được các cơ quan, tổ chức, cá nhân hỗ trợ, tài trợ, cấp không thu tiền thì cơ sở y tế của Nhà nước phải trừ chi phí vật tư, sinh phẩm xét nghiệm được hỗ trợ khi thu của người sử dụng dịch vụ, khi thanh toán, quyết toán với cơ quan bảo hiểm xã hội, ngân sách Nhà nước.
Trường hợp chi phí thực hiện xét nghiệm cao hơn mức giá tối đa quy định tại Thông tư này, cơ sở y tế của Nhà nước được quyết toán vào nguồn kinh phí giao tự chủ, nguồn kinh phí hợp pháp khác của đơn vị và không được thu của người sử dụng dịch vụ xét nghiệm.
Trường hợp mẫu gộp phát hiện dương tính, phải tiếp tục làm các xét nghiệm để phát hiện mẫu dương tính thì chi phí thực hiện xét nghiệm được tính tiếp theo từng trường hợp cụ thể bảo đảm nguyên tắc không trùng lặp về chi phí đã thực hiện.
Thông tư này có hiệu lực từ ngày 21/02.
DUY ANH
F0 điều trị tại nhà được dỡ bỏ cách ly khi nào?
5. Sẽ thanh tra 33 đầu mối kinh doanh, nhập khẩu xăng dầu
(LSVN) - Đây là một trong những nội dung đáng chú ý tại quyết định thanh tra các doanh nghiệp đầu mối kinh doanh, nhập khẩu xăng dầu của Bộ Công Thương. Theo đó, Đoàn Thanh tra của Bộ Công Thương sẽ thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật trong kinh doanh xăng dầu của 33 thương nhân kinh doanh xăng dầu trong giai đoạn từ 01/01/2021 đến 11/02/2022. Thời hạn thanh tra là 70 ngày làm việc thực tế, tính từ ngày công bố quyết định.
![]()
Bộ Công Thương sẽ thanh tra 33 đầu mối kinh doanh, nhập khẩu xăng dầu.
Theo đó, có 36 doanh nghiệp đầu mối kinh doanh xăng dầu, nhưng các doanh nghiệp kinh doanh nhiên liệu bay không nằm trong diện thanh tra lần này nên sẽ chỉ có 33 đầu mối kinh doanh, nhập khẩu xăng dầu bị thanh tra.
Đoàn Thanh tra của Bộ Công Thương sẽ thanh tra việc chấp hành quy định của pháp luật trong kinh doanh xăng dầu của 33 thương nhân kinh doanh xăng dầu trong giai đoạn từ 01/01/2021 đến 11/02/2022. Thời hạn thanh tra là 70 ngày làm việc thực tế, tính từ ngày công bố quyết định.
Đoàn Thanh tra sẽ có đánh giá chung về hoạt động kinh doanh xăng dầu trong thời kỳ thanh tra, bao gồm cơ chế hoạt động và đặc thù hoạt động trong giai đoạn từ tháng 10/2021 đến tháng 02/2022; báo cáo đánh giá chung về kết quả đã đạt được, chưa đạt được trong quá trình thực hiện nhiệm vụ.
Đoàn Thanh tra cũng sẽ làm rõ việc chấp hành các quy định của pháp luật về kinh doanh xăng dầu như điều kiện đối với thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu; trong đó, thanh tra các vấn đề về giấy phép kinh doanh xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu, giấy xác nhận đủ điều kiện thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu.
Ngoài ra, Đoàn sẽ kiểm tra cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ kinh doanh xăng dầu thuộc sở hữu của thương nhân hoặc đồng sở hữu hoặc của thuê sử dụng của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu; cầu cảng chuyên dụng; kho tiếp nhận xăng dầu nhập khẩu, phương tiện vận tải xăng dầu chuyên dụng khác; phương tiện vận tải xăng dầu nội địa.
Mặt khác, tập trung thanh kiểm tra về hệ thống phân phối xăng dầu bao gồm các nội dung như cửa hàng bán lẻ xăng dầu thuộc sở hữu của thương nhân hoặc thuê; tổng đại lý kinh doanh xăng dầu hoặc đại lý bán lẻ xăng dầu hoặc thương nhân nhận quyền bán lẻ xăng dầu thuộc hệ thống phân phối của thương nhân...
Đáng lưu ý, Đoàn Thanh tra cũng sẽ làm rõ các vấn đề như việc đăng ký hệ thống phân phối của thương nhân đầu mối kinh doanh xăng dầu theo quy định; báo cáo số liệu nhập - xuất - tồn kho xăng dầu; báo cáo định kỳ hàng tháng về tình hình thực hiện nhập khẩu xăng dầu, mua xăng dầu từ nguồn sản xuất trong nước, xuất khẩu xăng dầu.
Về vấn đề mua xăng dầu, các doanh nghiệp phải cung cấp các hợp đồng xuất khẩu, nhập khẩu xăng dầu với các đối tác trong và ngoài nước gồm chủng loại xăng dầu, khối lượng xăng dầu xuất khẩu, nhập khẩu; hạn ngạch nhập khẩu tối thiểu được Bộ Công Thương phân bổ, các hợp đồng mua xăng dầu từ các nhà máy sản xuất xăng dầu, các thương nhân đầu mối trong nước; báo cáo về khối lượng xăng dầu nhập vào từ ngày 01/01/2021 đến ngày 11/02/2022.
Với xăng dầu mua trong nước, các doanh nghiệp thuộc diện thanh tra cần thống kê rõ đơn vị cung cấp, hợp đồng, thời gian mua, thực tế nhập kho như số lượng, đơn giá, thành tiền.
Về tiêu thụ xăng dầu, Đoàn Thanh tra cũng làm rõ các hợp đồng xuất khẩu xăng dầu; phân phối xăng dầu thông qua các đơn vị trực thuộc; sản lượng cam kết từng đơn vị từng tháng, thực tế thực hiện.
Các doanh nghiệp cũng phải báo cáo sản lượng bình quân ngày cung ứng, tính theo sản lượng tiêu thụ nội địa bình quân một ngày của tháng 12/2021; tháng 1 và tháng 2 năm nay; tổng hợp xuất tồn từng tháng trong thời kỳ thanh tra cho từng loại, thực hiện bán hàng chi tiết theo từng đơn vị trong hệ thống phân phối...
Việc thực hiện bán xăng dầu sẽ được làm rõ các vấn đề: thống kê thành bảng các hóa đơn giá trị gia tăng, hóa đơn bán hàng trong thời kỳ thanh tra; tổng hợp nhập xuất tồn từng tháng trong thời kỳ thanh tra cho từng loại xăng dầu.
Cùng với đó, việc xuất khẩu xăng dầu, khối lượng xăng dầu đăng ký xuất khẩu theo quy định; thống kê bán xăng dầu thực hiện chuyển trực tiếp từ cảng nhận xăng dầu, nơi mua xăng dầu tới giao cho các cửa hàng bán lẻ; giao cho các công ty con được uỷ quyền; giao cho các thương nhân đầu mối, thương nhân phân phối, các tổng đại lý, đại lý...
Đối với việc thực hiện quy định về dự trữ, Đoàn Thanh tra sẽ làm rõ thực trạng hạ tầng dự trữ xăng dầu của doanh nghiệp, khả năng đáp ứng hạ tầng dự trữ đối với hoạt động kinh doanh và đối với dự trữ thương mại theo quy định.
VĂN QUANG
Thủ tục áp giải người vi phạm theo quy định mới nhất
SÁNG
1. Cần hoàn thiện một số quy định về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản
(LSVN) - Trước tình hình đấu tranh phòng chống tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, việc định tội danh chính xác đối với hành vi nguy hiểm cho xã hội là rất quan trọng. Bởi vì, việc định tội danh đúng sẽ giúp cho cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử đúng người, đúng tội, đúng pháp luật và áp dụng hình phạt phát huy được mục đích giáo dục, cải tạo người phạm tội trở thành công dân có ích cho xã hội.
Qua thực tiễn áp dụng tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, tác giả thấy rằng đây là tội có tính truyền thống nên các dấu hiệu pháp lý ít thay đổi, các yếu tố cấu thành tội phạm dễ gây nhầm lẫn với các tội danh khác. Hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường hiện nay, mặc dù bản chất pháp lý của hành vi không thay đổi nhưng các hình thức và thủ đoạn đã có sự thay đổi nên cần phải có sự nghiên cứu điều chỉnh lại các dấu hiệu pháp lý để đáp ứng với tình hình tội phạm mới.
![]()
1. Một số điểm chưa phù hợp về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”
Thứ nhất, tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” quy định mức khởi điểm của giá trị tài sản để làm căn cứ truy cứu trách nhiệm hình sự là 2 triệu đồng, còn tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” quy định mức khởi điểm là 4 triệu đồng. Trên thực tế có một số trường hợp khi điều tra ban đầu thường rất khó xác định tội danh là lừa đảo hay lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bởi do định lượng cấu thành cơ bản giữa hai tội không bằng nhau, nên có nhiều trường hợp người phạm tội chiếm đoạt tài sản của người khác có giá trị dưới 4 triệu đồng và không thuộc một trong các trường hợp khác để truy cứu trách nhiệm hình sự như gây hậu quả nghiêm trọng, đã bị xử phạt hành chính …, nhưng cơ quan điều tra không thể khởi tố ngay được, mà phải tốn nhiều thời gian để chứng minh ý thức của người chiếm đoạt tài sản có trước hay sau khi đã nhận tài sản.
Trong thực tế, người lừa đảo chiếm đoạt tài sản bao giờ cũng đưa ra lý do rằng: Sau khi nhận được tài sản mới nảy sinh ý thức chiếm đoạt, để trốn tránh trách nhiệm hình sự. Bởi vì, tài sản chiếm đoạt có giá trị dưới 4 triệu đồng, chưa đủ định lượng để khởi tố về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản” dẫn đến bỏ lọt tội phạm, vì không chứng minh được ý thức chiếm đoạt có trước khi nhận tài sản.
Do vậy, khi xử lý đối với các trường hợp chiếm đoạt tài sản có giá trị từ 2 triệu đồng đến dưới 4 triệu đồng rất dễ xảy ra oan, sai.
Thứ hai, về tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” được quy định là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự. Theo tác giả là không cần thiết, vì bản thân người phạm tội khi thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản, việc họ sử dụng thủ đoạn gian dối cũng đã thể hiện sự xảo quyệt, họ lợi dụng lòng tin của người có tài sản, làm giả giấy tờ,… một cách tinh vi khiến cho người bị hại tin tưởng giao tài sản, sau đó chiếm đoạt.
Trong mối quan hệ tương quan giữa tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và tội “Sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc thiết bị điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản” thấy rằng, bản chất của tội phạm này cũng là hành vi lừa đảo, có thủ đoạn gian dối, việc người phạm tội ứng dụng các tiến bộ của công nghệ, kỹ thuật để thực hiện tội phạm thì rõ ràng mức độ tinh vi, xảo quyệt của tội phạm này cao hơn.
Như vậy, nếu như người phạm tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản của người khác”, thủ đoạn gian dối được đánh giá là “xảo quyệt”, người này bị truy cứu trách nhiệm hình sự ở khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự; nhưng nếu họ sử dụng thiết bị công nghệ, mạng máy tính, mạng viễn thông để lừa đảo thì chỉ bị truy tố ở khoản 1 Điều 290 Bộ luật Hình sự với khung hình phạt thấp hơn, điều này là không hợp lý.
Thứ ba, hoàn thiện các dấu hiệu pháp lý của tội "ừa đảo chiếm đoạt tài sản" đối với một số hình thức mới trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế như: Lừa đảo qua mạng internet, lừa đảo thông qua hình thức bán hàng đa cấp. Hình thức kinh doanh bán hàng đa cấp rất phổ biến trên thế giới và trong một vài năm trở lại đây cũng đã xuất hiện ngày càng nhiều ở Việt Nam, nhưng so với các hình thức kinh doanh khác thì bán hàng đa cấp khá phức tạp và đem lại nhiều rủi ro cho các thành viên tham gia.
Nhiều quan điểm cho rằng hình thức bán hàng đa cấp chính là một hình thức lừa đảo, đây là hình thức rất khó xác định người bị hại, do đó vấn đề xác định giá trị tài sản bị lừa đảo chiếm đoạt là bao nhiêu rất khó trong khi đó giá trị tài sản là căn cứ để định tội danh nên việc điều tra, truy tố, xét xử đối với tội này rất khó khăn. Lừa đảo chiếm đoạt tài sản thông qua hình thức làm hồ sơ khống chiếm tiền hoàn thuế giá trị gia tăng: Trong trường hợp này, người phạm tội lợi dụng chính sách hoàn thuế giá trị gia tăng của Nhà nước đã lập hồ sơ giả mạo để được hoàn thuế giá trị gia tăng nhằm chiếm đoạt tiền của Nhà nước.
Thứ tư, hoàn thiện một số quy định của pháp luật hình sự có liên quan đảm bảo cho việc định tội danh tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" đúng người, đúng tội như Điều 198 Bộ luật Hình sự (Tội “Lừa dối khách hàng”), Điều 192 Bộ luật Hình sự (Tội “Sản xuất, buôn bán hàng giả”),…
Như đã phân tích ở trên, dấu hiệu đặc trưng nổi bật của tội phạm này là bằng thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản. Trong thực tế, nhận thức thủ đoạn gian dối để chiếm đoạt tài sản không phải trường hợp nào cũng rõ ràng và thống nhất. Thực tiễn xét xử còn nhiều trường hợp cũng có hành vi là thủ đoạn gian dối, cũng có hành vi chiếm đoạt, nhưng những hành vi này đã được Bộ luật Hình sự quy định thành tội phạm độc lập thì cũng không bị truy cứu về tội "Lừa đảo chiếm đoạt tài sản" mà bị truy cứu về tội phạm tương ứng như hành vi gian dối trong cân, đo, đong, đếm, tính gian, đánh tráo loại hàng… để gây thiệt hại cho khách hàng là hành vi lừa dối khách hàng quy định tại Điều 198 Bộ luật Hình sự; hành vi làm hàng giả, buôn bán hàng giả để đánh lừa người tiêu dùng là hành vi phạm tội làm hàng giả, buôn bán hàng giả quy định tại các Điều 192, Điều 193, Điều 195 Bộ luật Hình sự; cũng như ở tội “Đánh bạc” quy định ở Điều 321 Bộ luật Hình sự, tuy không quy định có "thủ đoạn gian dối" nhưng có thể họ sẽ sử dụng những mưu mẹo, gian dối để giành phần thắng nhưng những mưu mẹo đó phải phát sinh trong quá trình chơi hoặc cũng có thể có sự chuẩn bị từ trước nhưng sự chuẩn bị đó không có ý nghĩa quyết định được việc thắng thua mà nó chỉ làm ảnh hưởng phần nào đến kết quả đánh bạc; hoặc việc xác định hành vi nào của người phạm tội bị xử lý về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” và hành vi nào bị xử lý tội “Lạm dụng chức vụ, quyền hạn”, bởi lẽ ở cả hai tội phạm này chúng ta đều thấy có sự tham gia của các đối tượng là người có chức vụ quyền hạn và họ đã dựa vào chức vụ, quyền hạn đó kết hợp với yếu tố “gian dối” để thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản của người khác, mục đích mà người phạm tội hướng đến trong trường hợp này là giống nhau. Hơn nữa, khi họ đã có hành vi phạm tội thì việc chúng ta xử lý họ ở tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản hay tội lạm dụng chức vụ, quyền hạn về cơ bản vẫn đảm bảo được tính răn đe, giáo dục, phòng ngừa chung.
2. Đề xuất hướng hoàn thiện
Để giải quyết những vấn đề đặt ra ở trên, các cơ quan có thẩm quyền xây dựng, ban hành pháp luật cần rà soát lại toàn bộ các quy định về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”, qua đó có những chỉnh sửa, bổ sung đối với Bộ luật Hình sự hiện hành; ban hành các văn bản dưới luật hướng dẫn cụ thể đối với các vấn đề liên quan. Theo tác giả có thể sửa đổi, bổ sung Điều 174 Bộ luật Hình sự theo hướng sau như sau:
Thứ nhất, đề nghị nâng mức khởi điểm của tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” lên cùng mức 4.000.000 đồng như tội "Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản".
Thứ hai, không quy định tình tiết “Dùng thủ đoạn xảo quyệt” là tình tiết định khung tăng nặng tại điểm e khoản 2 Điều 174 Bộ luật Hình sự.
Thứ ba, bên cạnh việc tiếp tục hoàn thiện thể chế về thuế, cần coi thủ đoạn làm giả hồ sơ không xuất khẩu để hoàn thuế là thủ đoạn xảo quyệt, đồng thời cần tăng nặng hình phạt đối với các đối tượng làm trong các cơ quan thuế, hải quan, tiếp tay cho các cá nhân trong việc hợp thức hóa hồ sơ để chiếm đoạt tiền thuế.
Thứ tư, cần phải có sự giải thích rõ ràng trong các văn bản pháp luật để việc áp dụng pháp luật được thống nhất trong quá trình định tội danh, tránh sai sót trong việc xét xử.
Tóm lại, việc chỉnh sửa, bổ sung đối với Bộ luật Hình sự hiện hành và ban hành các văn bản hướng dẫn đối với tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản” không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận còn có ý nghĩa thực tiễn, góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng trong việc khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử đối với các vụ án này, từ đó đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa, đáp ứng được yêu cầu cải cách tư pháp trong việc đấu tranh phòng, chống tội phạm./.
ĐINH MINH LƯỢNG, ĐẶNG THẾ THANH
Tòa án quân sự Khu vực 2 Quân khu 5
Ban hành bộ Tiêu chí ứng xử trong gia đình
2. Mức phạt tiền vi phạm quy định về trật tự xây dựng theo quy định mới nhất
(LSVN) - Chính phủ ban hành Nghị định số 16/2022/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính về xây dựng, trong đó quy định mức phạt tiền đối với vi phạm quy định về trật tự xây dựng.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, tại Điều 31 Nghị định nêu rõ xử phạt đối với hành vi thi công xây dựng không che chắn hoặc có che chắn nhưng để rơi vãi vật liệu xây dựng xuống các khu vực xung quanh hoặc để vật liệu xây dựng không đúng nơi quy định như sau:
- Phạt tiền từ 3.000.000 đồng đến 5.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ hoặc công trình xây dựng khác;
- Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc công trình phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Xử phạt đối với hành vi tổ chức thi công xây dựng công trình vi phạm quy định về quản lý chất lượng công trình xây dựng gây lún, nứt hoặc hư hỏng công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình lân cận hoặc gây sụp đổ hoặc có nguy cơ gây sụp đổ công trình lân cận nhưng không gây thiệt hại về sức khỏe, tính mạng của người khác như sau:
- Phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 40.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ;
- Phạt tiền từ 50.000.000 đồng đến 60.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc công trình xây dựng khác;
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc công trình phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Xử phạt nhà thầu tiếp tục thực hiện thi công xây dựng công trình mà chủ đầu tư công trình đó đã bị lập biên bản vi phạm hành chính về hành vi quy định tại khoản 4, khoản 6, khoản 7, khoản 8, khoản 9 và khoản 10 Điều 16 Nghị định này như sau:
- Phạt tiền từ 80.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ;
- Phạt tiền từ 100.000.000 đồng đến 120.000.000 đồng đối với xây dựng nhà ở riêng lẻ trong khu bảo tồn, khu di tích lịch sử - văn hóa hoặc công trình xây dựng khác;
- Phạt tiền từ 160.000.000 đồng đến 180.000.000 đồng đối với xây dựng công trình có yêu cầu phải lập báo cáo nghiên cứu khả thi đầu tư xây dựng hoặc công trình phải lập báo cáo kinh tế - kỹ thuật đầu tư xây dựng.
Hình thức xử phạt bổ sung:
- Tước quyền sử dụng chứng chỉ năng lực hoặc chứng chỉ hành nghề từ 03 tháng đến 06 tháng với hành vi quy định tại khoản 3 Điều này;
- Tịch thu tang vật, phương tiện vi phạm hành chính với hành vi quy định tại khoản 3 Điều này.
Biện pháp khắc phục hậu quả: buộc che chắn theo quy định và khắc phục tình trạng ô nhiễm môi trường (nếu có) với hành vi quy định tại khoản 1 Điều này.
Nghị định này có hiệu lực kể từ ngày 28/01/2022.
HỒNG HẠNH
Sửa đổi, bổ sung quy định về hoạt động và quản lý hội
3. Đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự được tiếp nhận từ các nguồn nào?
(LSVN) – Được biết, Bộ Tư pháp vừa ban hành Thông tư 13/2021/TT-BTP về quy trình xử lý, giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự. Vậy theo quy định mới này, đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự được tiếp nhận từ các nguồn nào? Bạn đọc P.T. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo Điều 5 Thông tư 13/2021/TT-BTP, đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự được tiếp nhận từ các nguồn sau:
- Đơn do cơ quan, tổ chức, cá nhân trực tiếp gửi qua bộ phận tiếp nhận đơn, hộp thư góp ý, đơn gửi tại địa điểm tiếp công dân của cơ quan, đơn vị hoặc trình bày trực tiếp với người có thẩm quyền được lập thành văn bản; thông tin được phản ánh qua đường dây nóng được lập thành văn bản; thông tin kiến nghị, phản ánh từ Cổng Dịch vụ công Quốc gia, Cổng Thông tin điện tử Bộ Tư pháp, Cổng Thông tin điện tử Thi hành án dân sự và Phần mềm hỗ trợ trực tuyến thi hành án dân sự được lập thành văn bản hoặc có văn bản đính kèm;
- Đơn do Lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các cơ quan Đảng, Nhà nước, đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các cơ quan báo chí và các cơ quan khác chuyển đến;
- Đơn gửi qua dịch vụ bưu chính.
Đơn tiếp nhận được từ các nguồn quy định tại khoản 1 Điều này phải được vào sổ hoặc nhập vào hệ thống cơ sở dữ liệu trên máy tính để quản lý, theo dõi. Việc lưu trữ sổ sách và sao lưu dữ liệu trên máy tính được thực hiện theo quy định của pháp luật.
Đơn tiếp nhận được từ các nguồn trên được phân loại như sau:
- Phân loại theo nội dung gồm đơn khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh;
- Phân loại theo điều kiện xử lý gồm đơn đủ điều kiện thụ lý, đơn không đủ điều kiện thụ lý;
- Phân loại theo thẩm quyền giải quyết gồm đơn thuộc thẩm quyền giải quyết, đơn không thuộc thẩm quyền giải quyết;
- Phân loại theo số lượng người khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh gồm đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của một người, đơn có chữ ký hoặc điểm chỉ của nhiều người.
Đối với đơn có các nội dung khiếu nại, tố cáo, kiến nghị, phản ánh thì tách riêng từng nội dung để xử lý, giải quyết theo quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo và Thông tư này.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 13/02/2022. Thông tư số 02/2016/TT-BTP ngày 01/02/2016 của Bộ trưởng Bộ Tư pháp quy định quy trình giải quyết đơn khiếu nại, tố cáo, đề nghị, kiến nghị, phản ánh trong thi hành án dân sự hết hiệu lực kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực pháp luật.
TIẾN HƯNG
Tăng mức phạt đối với hành vi xây dựng nhà ở không có giấy phép
4.

