CHIỀU
1. Có phương án ứng phó, chữa trị kịp thời tổn thương hậu Covid-19
(LSVN) - Có thể nói, dịch bệnh Covid-19 ở nước ta đã được kiểm soát tốt, cuộc sống đang dần trở lại bình thường. Tuy nhiên, hiện nay lại phát sinh vấn đề mới, khá nghiêm trọng có thể ảnh hưởng đến thành quả của công cuộc phòng chống dịch khiến dư luận rất quan tâm, lo lắng đó là hội chứng hậu Covid-19.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo ghi nhận của các cơ quan chức năng thì đã có một số bệnh nhân Covid-19 sau khi khỏi bệnh đã gặp nhiều vấn đề về sức khỏe, nhất là tổn thương phổi, suy hô hấp, sức khỏe giảm sút nghiêm trọng... Thậm chí đã có bệnh nhân 62 tuổi ở Hà Nội tử vong sau khi khỏi bệnh do suy hô hấp vì tổn thương phổi nặng không thể can thiệp.
Nhiều bệnh nhân sau khi khỏi bệnh Covid-19 đến khám bệnh thường có triệu chứng bị suy hô hấp và tổn thương phổi, xơ phổi kéo dài. Bên cạnh đó, nhiều bệnh nhân bị xơ phổi lan tỏa hai bên gây tổn thương chức năng hô hấp, tăng tình trạng đông máu và phản ứng viêm sau Covid-19... Ở mức độ nhẹ hơn là các triệu chứng mệt mỏi, khó thở, hụt hơi, thể lực giảm nhiều, mất tập trung, rối loạn giấc ngủ, một số người bị rối loạn tiêu hóa... Theo các chuyên gia y tế nếu không được khám và điều trị kịp thời thì bệnh có thể tiến triển nặng hơn, gây nguy hiểm đến tính mạng người bệnh.
Ngoài ra, các tổn thương, sang chấn tâm sinh lý xảy ra đối với những người từng mắc Covid-19 cũng diễn ra khá phổ biến và nghiêm trọng. Các chuyên gia cảnh báo không nên xem nhẹ vấn đề này, bởi nhiều người vì bị tổn thương tâm lý làm phát sinh các bệnh mãn tính nguy hiểm khác gây tổn hại, ảnh hưởng lâu dài đến sức khỏe, tính mạng của người đã từng bị Covid-19.
Vì vậy, nhiệm vụ cấp bách, quan trọng hiện nay không chỉ là tiếp tục ứng phó linh hoạt, phòng chống hiệu quả dịch bệnh hay sớm kết thúc dịch bệnh mà còn là giải quyết, xử lý vấn đề hậu Covid-19 đối với những người từng nhiễm bệnh. Bởi những hậu quả mà hội chứng hậu Covid-19 thường kéo dài, tổn hại nghiêm trọng đến sức khỏe người bệnh, nhất là khi số lượng người mắc bệnh ở nước không ngừng tăng lên, đến một lúc nào đó có thể sẽ chiếm số đông dân cư.
Các cơ quan chức năng cần sớm có phương án, kịch bản và có sự chuẩn bị thật sự kỹ lưỡng, chu đáo để ứng phó, điều trị, xử lý các vấn đề liên quan đến hậu Covid-19. Theo đó, song song với việc phòng chống dịch cần chủ động bố trí phương tiện, trang thiết bị và đội ngũ y bác sĩ sẵn sàng cho việc khám, chữa bệnh cho những người đã từng mắc Covid-19 một cách hợp lý, hiệu quả. Có như vậy, mới đảm bảo việc kết thúc công cuộc phòng chống dịch đảm bảo thành công mỹ mãn./.
Thạc sĩ PHẠM VĂN CHUNG
Sở Tư pháp tỉnh Kon Tum
Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp
2. Việt Nam chính thức công nhận hộ chiếu vaccine với 16 nước
(LSVN) - Ngày 17/3/2022, Bộ Ngoại giao đã ban hành Công văn 967/BNG-LS về việc thông báo công nhận hộ chiếu vaccine với các nước.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo đó, thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo Chính phủ tại Công văn số 1606/VPCP-QHQT ngày 15/03/2022 của Văn phòng Chính phủ, liên quan đến việc đàm phán công nhận lẫn nhau về hộ chiếu vaccine với các nước/vùng lãnh thổ, Bộ Ngoại giao đã thông báocông nhận chính thức trên nguyên tắc có đi có lại đối với Giấy chứng nhận tiêm chủng Covid-19/Giấy chứng nhận khỏi bệnh Covid-19 (gọi chung là Hộ chiếu vaccine) với các quốc gia: Hợp chúng quốc Hoa Kỳ, Liên hiệp Vương quốc Anh và Bắc Ai-len, Nhật Bản, Ốt-xtơ-rây-li-a, Cộng hoà Bê-la-rút, Cộng hoà Ấn Độ, Cộng hòa Phi-líp-pin, Cộng hòa Man-đi-vơ, Nhà nước Pa-le-xtin, Cộng hòa Thổ Nhĩ Kỳ, Cộng hòa A-rập Ai Cập, CHXHCNDC Xri Lan-ca, Niu Di-lân, Cộng hòa Singapore, Cộng hòa Saint Lucia và Hàn Quốc.
Hướng dẫn cụ thể về điều kiện và mẫu hộ chiếu vắc xin được công nhận tại Phụ lục kèm theo.
Người mang Hộ chiếu vaccine của các nước này vào Việt Nam và của Việt Nam đến các nước này được áp dụng các biện pháp y tế như người đã tiêm vaccine ở sở tại. Việc công nhận này bao gồm việc miễn thủ tục chứng nhận lãnh sự/hợp pháp hoá lãnh sự khi sử dụng giấy tờ này tại nước tiếp nhận.
Bộ Ngoại giao đăng tải các thông tin chi tiết về danh sách các nước/vùng lãnh thổ cùng điều kiện và mẫu hộ chiếu vắc xin được công nhận trên Cổng thông tin điện tử của Bộ Ngoại giao (https://mofa.gov.vn/vi/) và Cổng thông tin điện tử về công tác Lãnh sự (https://lanhsuvietnam.gov.vn) để các cơ quan theo dõi, tra cứu.
Đối với Hộ chiếu vaccine của những nước, vùng lãnh thổ đã giới thiệu mẫu chính thức đến Bộ Ngoại giao Việt Nam, đề nghị các cơ quan tiếp tục áp dụng giải pháp tạm thời như Cục Lãnh sự Bộ Ngoại giao đã thông báo, theo hướng cho phép người đã được tiêm chủng mang trực tiếp Giấy đó về trong nước, các cơ quan chức năng trong nước sẽ xem xét, đối chiếu với các bản mẫu đã được giới thiệu chính thức.
HÀ ANH
Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?
3. Ban hành Kế hoạch giám sát việc chấp hành pháp luật tố tụng hành chính và thi hành án hành chính
(LSVN) - Ủy ban Tư pháp của Quốc hội đã ban hành Nghị quyết số 388/NQ-UBTP15 ngà 22/02/2022 về việc thành lập Đoàn giám sát và Kế hoạch số 389/KH-UBTP15 giám sát chuyên đề “Việc chấp hành pháp luật về tố tụng hành chính trong giải quyết các vụ án hành chính, thi hành các bản án, quyết định hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân”.
![]()
Ảnh minh họa.
Mục đích của của việc giám sát chuyên đề nhằm xem xét, đánh giá thực trạng tổ chức thực hiện và việc chấp hành pháp luật về tố tụng hành chính trong việc giải quyết các vụ án hành chính, thi hành các bản án, quyết định hành chính đối với Quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân; kết quả đạt được, những hạn chế, tồn tại, khó khăn, vướng mắc và nguyên nhân; nêu những bất cập về cơ chế, chính sách và pháp luật; kiến nghị những giải pháp nhằm hoàn thiện các quy định của pháp luật có liên quan.
Đồng thời, đánh giá kết quả của Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, các bộ, ngành, cơ quan hữu quan thực hiện các kiến nghị của Ủy ban Tư pháp đã nêu trong Báo cáo số 1516/BC-UBTP14 ngày 26/9/2018 của Ủy ban Tư pháp; kiến nghị các cơ quan có thẩm quyền kịp thời khắc phục những tồn tại, bất cập và nâng cao hiệu quả hoạt động, bảo đảm tuân thủ pháp luật trong công tác giải quyết các vụ án hành chính, thi hành các bản án, quyết định hành chính.
Theo Kế hoạch số 389/KH-UBTP15, các đối tượng giám sát bao gồm: Các cơ quan ở Trung ương (Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Tư pháp) và các cơ quan ở địa phương (Ủy ban nhân dân, Tòa án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, Cục Thi hành án dân sự các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương: Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng, Hải Phòng, Quảng Ninh, Vĩnh Phúc, Yên Bái, Thanh Hóa, Nghệ An, Quảng Nam, Đắk Lắk, Kon Tum, Bình Dương, Kiên Giang, Đồng Tháp; Tòa án nhân dân Cấp cao, Viện Kiểm sát nhân dân Cấp cao tại Hà Nội, Đà Nẵng và Thành phố Hồ Chí Minh).
Theo Kế hoạch số 389/KH-UBTP15 thì thời gian giám sát, đánh giá trong 03 năm: 2019, 2020 và 2021 (từ ngày 01/10/2018 đến ngày 30/9/2021). Nội dung gồm:
- Việc ban hành văn bản hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015: Tình hình ban hành các văn bản quy phạm pháp luật hướng dẫn thi hành Luật Tố tụng hành chính năm 2015 của cơ quan chịu sự giám sát liên quan đến việc giải quyết các vụ án hành chính, thi hành các bản án, quyết định hành chính; Đánh giá kết quả, chất lượng văn bản đã ban hành; những hạn chế và nguyên nhân của những hạn chế trong công tác ban hành văn bản hướng dẫn.
- Việc chấp hành pháp luật trong giải quyết các vụ án hành chính, thi hành các bản án, quyết định hành chính đối với quyết định hành chính, hành vi hành chính của Chủ tịch Ủy ban nhân dân, Ủy ban nhân dân: Thực trạng chấp hành pháp luật trong ban hành các quyết định hành chính, thực hiện các hành vi hành chính; thực trạng tham gia tố tụng hành chính; Thực trạng chấp hành pháp luật trong giải quyết, xét xử các vụ án hành chính; Thực trạng chấp hành pháp luật trong thi hành bản án, quyết định của Tòa án về vụ án hành chính; Thực trạng chấp hành pháp luật trong kiểm sát việc giải quyết, xét xử các vụ án hành chính và trong kiểm sát việc thi hành các bản án, quyết định của Tòa án; Đánh giá việc thực hiện các kiến nghị đã nêu trong Báo cáo kết quả của Đoàn giám sát của Ủy ban Tư pháp năm 2018 (Báo cáo số 1516/BC-UBTP14 ngày 26/9/2018).
TIẾN HƯNG
Nghiên cứu chuyển biện pháp phòng, chống dịch Covid-19 sang nhóm B
SÁNG
1. Pháp luật về bảo vệ môi trường trong việc bảo đảm phát triển bền vững
(LSVN) - Nước ta đang đối mặt với nhiều thách thức, hàng loạt mâu thuẫn nảy sinh giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường có tác động mạnh tới việc thực hiện pháp luật nói chung và pháp luật môi trường nói riêng, đòi hỏi các nhà khoa học và lập pháp tìm cách giải quyết để đưa đất nước phát triển bền vững. Khi tham gia vào các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội, buộc các chủ thể phải tìm hiểu pháp luật, có ý thức tuân thủ pháp luật, thi hành pháp luật, làm sao cho các hành vi của mình phải nằm trong khuôn khổ của pháp luật, được pháp luật cho phép và, trong trường hợp cần thiết, có thể sử dụng pháp luật để bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của mình. Trong lĩnh vực môi trường, pháp luật là công cụ quan trọng để quản lý môi trường, tạo ra sự phối hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội thúc đẩy hoạt động bảo vệ môi trường và phát triển bền vững, điều đó cho thấy hiểu biết và thực hiện tốt các quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường chính là yếu tố bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội bền vững không chỉ cho thế hệ hiện tại mà còn cho cả thế hệ tương lai.
![]()
Ảnh minh họa.
Bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Theo Điều 3 Luật Bảo vệ môi trường (BVMT) năm 2020 được Quốc hội khóa XIV thông qua ngày 17/11/2020, có hiệu lực thi hành ngày 01/01/2022 thì “môi trường bao gồm các yếu tố vật chất tự nhiên và nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau, bao quanh con người, có ảnh hưởng đến đời sống, kinh tế, xã hội, sự tồn tại, phát triển của con người, sinh vật và tự nhiên”; “Hoạt động BVMT là hoạt động phòng ngừa, hạn chế tác động xấu đến môi trường; ứng phó sự cố môi trường; khắc phục ô nhiễm, suy thoái môi trường, cải thiện chất lượng môi trường; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, đa dạng sinh học và ứng phó với biến đổi khí hậu”. Từ khái niệm trên, BVMT được hiểu là bảo vệ chất lượng môi trường nói chung, vừa bảo vệ chất lượng của từng thành phần môi trường: đất, rừng, nguồn nước, nguồn lợi thủy sản, đa dạng sinh học...; BVMT là trách nhiệm của tất cả mọi người, mọi quốc gia, không phân biệt chính thể, chế độ chính trị, trình độ phát triển kinh tế - xã hội.
Khi nói về sự phát triển bền vững (PTBV), người ta thường sử dụng định nghĩa “Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trên cơ sở kết hợp chặt chẽ, hài hòa giữa tăng trưởng kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội và BVMT” (Báo cáo Berunđtland của Ủy ban Môi trường và Phát triển thế giới WCED, Liên hiệp quốc năm 1987). Như vậy, có thể xác định PTBV là việc thế hệ hôm nay sử dụng một cách hợp lý tài nguyên thiên nhiên nhằm thỏa mãn nhu cầu, nâng cao chất lượng cuộc sống con người nhưng không làm hủy hoại môi trường sống hoặc gây ra những thảm họa sinh thái của các thế hệ sau. Hội nghị thượng đỉnh Trái đất về môi trường và phát triển tổ chức ở Rio de Janeiro (Braxin) năm 1992 và Hội nghị thượng đỉnh thế giới về PTBV tổ chức ở Johannesburg (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 xác định PTBV là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển, bao gồm: (1) phát triển kinh tế (quan trọng nhất là tăng trưởng kinh tế); (2) phát triển xã hội (quan trọng nhất là thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, xóa đói giảm nghèo và giải quyết việc làm); (3) BVMT (quan trọng nhất là xử lý, khắc phục ô nhiễm, phục hồi và cải thiện chất lượng môi trường; khai thác hợp lý và sử dụng tiết kiệm tài nguyên thiên nhiên) [Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam]. Như vậy, môi trường và phát triển có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, môi trường là địa bàn và đối tượng của sự phát triển, còn phát triển là nguyên nhân tạo nên các biến đổi môi trường, nên có thể nói tài nguyên nói riêng và môi trường tự nhiên nói chung có vai trò quyết định đối với sự PTBV về kinh tế - xã hội .
Xét trong mối quan hệ giữa con người, xã hội và tự nhiên, 3 mục tiêu của PTBV chính là mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội, phát triển con người với sự khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên và BVMT. Chỉ khi nào cả ba mục tiêu này kết hợp, gắn bó chặt chẽ được với nhau trong quá trình phát triển liên tục thì xã hội mới có được sự PTBV. Do vậy, PTBV chính là sự tương tác, sự thỏa hiệp hay sự dung hòa của 3 hệ thống: kinh tế (sự phát triển kinh tế - xã hội); xã hội - nhân văn (sự phát triển con người) và tự nhiên (sự khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên và môi trường), nhằm tạo ra sự thống nhất bền vững của hệ thống bao trùm - hệ thống “tự nhiên - con người - xã hội”.
Pháp luật về bảo vệ môi trường và phát triển bền vững
Công tác BVMT và sự PTBV của đất nước luôn được Đảng và Nhà nước ta chú trọng và nhấn mạnh trên nhiều góc độ tiếp cận, thể hiện rõ trong các văn kiện Đại hội IX, X, XI, XII, XIII, các Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng và văn bản pháp luật của Nhà nước. Chỉ thị số 36/CT-TW ngày 25/6/1998 của Bộ Chính trị khóa VIII về tăng cường công tác BVMT trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước khẳng định: “BVMT là vấn đề sống còn của đất nước, là nhiệm vụ có tính xã hội sâu sắc, gắn liền với cuộc đấu tranh xóa đói giảm nghèo và vì sự công bằng xã hội”; Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” không thể thực hiện được nếu chúng ta không làm tốt công tác BVMT. Ngày 15/11/2004, Bộ Chính trị khóa IX đã ban hành Nghị quyết số 41-NQ/TW về BVMT trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, trong đó chỉ rõ: “Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra giám sát; quy định và áp dụng các chế tài cần thiết để xử lý nghiêm các vi phạm pháp luật về BVMT”. Định hướng Chiến lược PTBV ở Việt Nam khẳng định, PTBV là yêu cầu xuyên suốt trong quá trình phát triển đất nước; kết hợp chặt chẽ, hợp lý và hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển xã hội và bảo vệ tài nguyên, môi trường, bảo đảm quốc phòng, an ninh và trật tự, an toàn xã hội (Quyết định số 153/2004/QĐ-TTg). “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ tư duy, xây dựng, hoàn thiện đồng bộ thể chế phát triển bền vững về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, môi trường...” (Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XIII). Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030 cũng nêu bật những vấn đề đặt ra trong ba lĩnh vực kinh tế, xã hội và môi trường; mối quan hệ tương hỗ giữa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, môi trường; gắn trách nhiệm của các ngành, các địa phương, các tổ chức và các nhóm xã hội trong PTBV (Quyết định số 1216/QĐ-TTg ngày 05/9/2012 của Thủ tướng Chính phủ).
Pháp luật về BVMT không những được quy định trong Luật BVMT (ban hành năm 2005, sửa đổi bổ sung năm 2014, 2020) mà còn được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật khác như: Luật Đất đai; Luật Tài nguyên nước; Luật Bảo vệ và phát triển rừng; Luật Khoáng sản; Luật Tài nguyên, môi trường và hải đảo; Luật Dầu khí; Luật Thủy sản…, các nghị định, thông tư hướng dẫn thi hành luật, xử phạt vi phạm hành chính về BVMT,… Thực tiễn cho thấy, các văn bản pháp luật đã xác định rõ BVMT là một bộ phận cấu thành trong hệ thống kinh tế - xã hội, quy định các nguyên tắc, chế độ pháp lý bảo vệ, khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên thiên nhiên, BVMT tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động quản lý nhà nước về BVMT trên cả ba mục tiêu cơ bản: tăng trưởng kinh tế, phát triển xã hội và BVMT. Đặc biệt, Luật BVMT năm 2020 đánh dấu bước tiến mới trong việc đáp ứng yêu cầu thực tiễn PTBV nhằm giải quyết hài hòa giữa phát triển kinh tế - xã hội với BVMT; BVMT bảo đảm cho PTBV, và PTBV thúc đẩy hoạt động BVMT.
Pháp luật và thách thức về BVMT và PTBV ở nước ta hiện nay
Một số những vi phạm pháp luật điển hình về BVMT và PTBV
Lĩnh vực sản xuất tại các khu công nghiệp, khu chế xuất: Do mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận, nhiều doanh nghiệp sẵn sàng vi phạm pháp luật về BVMT, làm suy thoái, ô nhiễm môi trường, cạn kiệt tài nguyên. Theo thống kê, có 65% khu công nghiệp trong cả nước đã đi vào hoạt động, nhưng chưa được cấp giấy xác nhận hoàn thành công trình BVMT; 10,7% khu công nghiệp chưa xây dựng hệ thống xử lý nước thải tập trung.
Lĩnh vực sản xuất làng nghề, nông nghiệp: Sự phát triển mạnh mẽ của các làng nghề đi liền với nhiều vi phạm về môi trường như hiện tượng xả trực tiếp chất thải ra môi trường; nhiên liệu sử dụng phổ biến là than, củi làm sản sinh các loại khí nhà kính. Trong sản xuất nông nghiệp, việc sử dụng thuốc bảo vệ thực vật tràn lan, xử lý chuồng trại, chất thải trong chăn nuôi chưa được chú ý, thường thải ra cống rãnh tự nhiên,… gây ô nhiễm.
Lĩnh vực khai thác khoáng sản, lâm sản, nước ngầm, bảo vệ đa dạng sinh học: Hiện tượng sử dụng hóa chất như thủy ngân, kim loại nặng để khai thác khoáng sản gây ô nhiễm nguồn nước sinh hoạt, tưới tiêu,… Khai thác cát, sỏi bừa bãi làm cho nhiều dòng sông bị xói lở, biến đổi dòng chảy. Nạn chặt phá rừng, khai thác lâm sản diễn biến phức tạp, đặc biệt là tình trạng chặt phá các khu rừng nguyên sinh, khu bảo tồn thiên nhiên, rừng phòng hộ. Theo báo cáo thống kê của Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) năm 2020, cả nước đã xảy ra 9.637 vụ vi phạm các quy định của Luật Lâm nghiệp, diện tích rừng bị thiệt hại là 1.469 ha, đặc biệt là số vụ chống người thi hành công vụ có chiều hướng gia tăng,… làm ảnh hưởng đến hệ sinh thái, gây phong hóa, rửa trôi, biến rừng thành đất trống, đồi núi trọc, tiềm ẩn nguy cơ lũ quét cao tác động xấu tới đời sống và kinh tế - xã hội, nhất là đồng bào miền núi; các hoạt động phạm pháp săn bắt động vật hoang dã làm suy giảm đa dạng sinh học,...
Lĩnh vực quản lý và xử lý chất thải rắn: Luật BVMT quy định rất rõ trách nhiệm của chủ phát thải chất thải rắn phải thực hiện việc phân loại tại nguồn. Nhưng thực tế cho thấy, phần lớn chất thải rắn chưa được phân loại tại nguồn; các biện pháp giảm thiểu phát sinh chưa được áp dụng mạnh mẽ; tình trạng vứt bỏ rác thải, không tập kết đúng chỗ, đổ bừa bãi gây ô nhiễm và cảnh quan diễn ra phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt, túi nilon và rác thải nhựa đã trở thành vấn đề đáng lo ngại trong quản lý rác thải. Lượng sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhựa ở nước ta tăng lên nhanh chóng, năm 2015 khoảng 5 triệu tấn (trong đó 80% nguyên liệu sản xuất nhựa là nhập khẩu). Lượng nhựa tiêu thụ bình quân năm 2019 là 41 kg/người, cao hơn 10 lần so với lượng tiêu thụ năm 1990 (3,8 kg/người). Lượng rác nhựa thải ra biển ước tính khoảng 0,28-0,73 triệu tấn/năm (chiếm 6% tổng lượng nhựa thải ra biển của thế giới), xếp thứ 4 trong số các nước có lượng nhựa thải ra biển nhiều nhất...
Pháp luật và những thách thức về BVMT và PTBV
Môi trường ở Việt Nam đang phải đối mặt với rất nhiều thách thức: (1) Kiểm soát ô nhiễm, sự cố môi trường, an ninh nguồn nước, đặc biệt ô nhiễm do rác thải, nước thải,… đã trở thành những vấn đề nóng và là mối quan tâm của toàn xã hội; (2) Công tác quản lý môi trường còn nhiều hạn chế, do hệ thống văn bản pháp luật thiếu đồng bộ, thiếu khả thi, thiếu khả năng dự báo. Bên cạnh đó, nguồn lực về con người, tài chính và cơ chế tổ chức chưa được sắp xếp tối ưu; sự phối hợp liên ngành chưa chặt chẽ…; (3) Nhiều nơi, nhiều lúc, việc BVMT đã bị xem nhẹ hơn so với phát triển kinh tế, những nguyên tắc để bảo đảm PTBV không được tuân thủ một cách nghiêm ngặt; (4) Biến đổi khí hậu diễn biến ngày càng phức tạp, thể hiện qua các hiện tượng thiên tai bất thường, thời tiết cực đoan, hạn hán khắc nghiệt,… tác động tiêu cực tới môi trường, đến PTBV của Việt Nam.
Theo thống kê của Bộ Tư pháp, Việt Nam hiện có khoảng 300 văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh hành vi của các cá nhân, tổ chức, các hoạt động kinh tế - xã hội về BVMT; qua đó công tác BVMT ở nước ta trong giai đoạn qua đạt được nhiều thành tựu quan trọng song cũng bộc lộ những bất cập và hạn chế trước yêu cầu của PTBV, thể hiện ở những điểm sau:
Một là, một số quy định pháp luật về BVMT bộc lộ sự bất cập, sự chồng chéo, chồng lấn, mâu thuẫn giữa các bộ, ngành có liên quan về chức năng, nhiệm vụ BVMT không phù hợp với thực tiễn trước yêu cầu của PTBV; nhiều văn bản thiếu đồng bộ, thiếu chi tiết, tính ổn định không cao,… làm hạn chế hiệu quả điều chỉnh hành vi về BVMT.
Hai là, chưa có sự gắn kết chặt chẽ, hữu cơ giữa các quy định về phát triển kinh tế với các quy định về BVMT; việc lồng ghép yếu tố BVMT với PTBV chưa thực sự được coi trọng và tính đến trong quá trình xây dựng và ban hành luật, còn coi nhẹ PTBV về mặt môi trường bởi những đòi hỏi bức xúc về phát triển kinh tế; chưa có một cơ chế pháp lý hữu hiệu trong kiểm soát các hoạt động tác động vào tự nhiên, môi trường, sinh thái.
Ba là, những quy định pháp lý, chế tài xử phạt đối với các hành vi gây ô nhiễm môi trường chưa đủ mạnh để trừng trị và răn đe; biện pháp xử lý vi phạm giữa các văn bản pháp luật về môi trường còn có những khoảng trống, có rất ít trường hợp gây ô nhiễm bị xử lý hình sự, nên hiệu quả xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường còn thấp.
Bốn là, sự phối hợp giữa các cấp chính quyền, các bên liên quan trong thực thi pháp luật về BVMT còn lỏng lẻo, nhận thức và quan tâm đúng mức đối với công tác BVMT chưa cao dẫn đến buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm trong việc kiểm tra, giám sát về môi trường. Ngoài ra, công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi BVMT của cộng đồng còn hạn chế.
Những thách thức về BVMT đòi hỏi Việt Nam, những người làm pháp luật, thực hiện pháp luật cần có chiến lược nhìn xa trông rộng để môi trường thực sự là trụ cột trong PTBV.
Một số giải pháp thực thi pháp luật về BVMT trong việc bảo đảm PTBV
Thứ nhất, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện chủ trương, chính sách, pháp luật BVMT để khắc phục, điều chỉnh những yếu tố không phù hợp với định hướng PTBV; cần xây dựng bộ công cụ giám sát thực hiện chỉ tiêu PTBV phù hợp với đặc điểm của từng vùng, từng địa phương; các quy định pháp lý về xử phạt vi phạm pháp luật về BVMT (trách nhiệm hành chính, trách nhiệm hình sự, trách nhiệm dân sự) cần được hoàn thiện theo hướng tăng tính nghiêm minh và răn đe, nâng cao hiệu lực thực thi pháp luật về BVMT và PTBV.
Thứ hai, tạo lập chính sách thúc đẩy các mô hình tăng trưởng kinh tế bền vững, kinh tế tuần hoàn; xây dựng công cụ kinh tế và nguồn lực cho BVMT; thực hiện tốt công tác tuyên truyền đường lối, chủ trương và chính sách, pháp luật của Đảng, Nhà nước liên quan đến vấn đề BVMT và PTBV, đặc biệt những điểm mới của Luật BVMT năm 2020 để người dân chấp hành, tuân thủ và thực hiện pháp luật một cách tự giác, chủ động và nghiêm minh.
Thứ ba, tăng cường hiệu lực, hiệu quả trong thực thi pháp luật, quản lý, sử dụng hiệu quả các nguồn lực tài nguyên, BVMT và ứng phó với biến đổi khí hậu; phát huy đồng bộ, thống nhất sức mạnh của các biện pháp được quy định trong luật hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế đủ sức răn đe trong việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đáp ứng kịp yêu cầu phát triển và hội nhập quốc tế, đặc biệt là các biện pháp kinh tế để bảo đảm sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và yêu cầu BVMT, thực hiện tốt pháp luật về môi trường.
Thứ tư, PTBV không phải là lựa chọn, mà là con đường bắt buộc, cần quán triệt quan điểm môi trường là cơ sở, nền tảng để PTBV. BVMT vừa là mục tiêu, vừa là nhiệm vụ, cần được đặt ở vị trí trung tâm của các quyết định phát triển; quản lý, giải quyết hài hòa hơn nữa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với BVMT, tăng trưởng kinh tế phải đồng thời với BVMT, ứng phó với biến đổi khí hậu phù hợp với quy định của Luật BVMT năm 2020.
Thứ năm, tăng cường công tác tuyên truyền, thay đổi nhận thức về PTBV từ các cơ quan nhà nước, cộng đồng doanh nghiệp, người dân; đẩy mạnh xã hội hóa các hoạt động thực hiện pháp luật về BVMT bằng cách tăng cường sự tham gia của các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể và cộng đồng dân cư trong việc tham gia quản lý, tổ chức thực hiện và giám sát công tác BVMT.
Thứ sáu, trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp, việc thực hiện các mục tiêu PTBV sẽ khó khăn hơn, cần tiếp tục tăng cường hợp tác quốc tế trong lĩnh vực môi trường, đặc biệt là hợp tác quốc tế về pháp luật. Cần tìm cơ chế thích hợp để đẩy mạnh hơn nữa việc nội luật hóa các cam kết quốc tế về BVMT ứng phó với biến đổi khí hậu và PTBV mà Việt Nam ký kết hoặc tham gia và xác định rõ hiệu lực pháp lý của cam kết quốc tế đó.
Tài liệu tham khảo: 1. Bộ Tài nguyên và Môi trường, Tài liệu phổ biến các quy định về tội phạm về tài nguyên môi trường trong BLHS 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017, Vụ Pháp chế, 2017. 2. Tổng cục Lâm nghiệp (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), Báo cáo tổng kết công tác năm 2020. 3. Ngô Ngọc Diễm (2019), Thực trạng tội phạm và vi phạm pháp luật về môi trường trong giai đoạn hiện nay, một số nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí Công thương 3/2019. 4. Phan Trung Hiền và nnk, Giáo trình Đại cương pháp luật Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia Sự thật, 2019. 5. Luật Bảo vệ môi trường năm 2020. 6. Trần Văn Minh, Hiện trạng quản lý môi trường khu công nghiệp và một số kiến nghị, giải pháp, Tạp chí Môi trường (số 3/2020). 7. https://monre.gov.vn; http://www.lapphap.vn; baotainguyenmoitruong.vn,... |
TS. HOÀNG QUỐC LÂM
Trung tâm truyền thông Tài nguyên và Môi trường Bộ Tài nguyên và Môi trường
Tách Luật GTĐB 2008 thành hai luật chuyên biệt: Nên hay không?
2. Hành vi bán thuốc điều trị Covid-19, kist test không rõ nguồn gốc bị xử lý như thế nào?
(LSVN) - Vừa qua, lợi dụng tình hình số ca nhiễm Covid-19 tăng cao, nhiều nhà thuốc đã bán các loại thuốc điều trị Covid-19, kist test, máy đo SpO2 không rõ nguồn gốc nhằm trục lợi, gây ảnh hưởng đến sức khoẻ của người dân. Vậy, theo quy định của pháp luật, việc bán, điều trị cho bệnh nhân bằng thuốc điều trị Covid-19 không rõ nguồn gốc xuất xứ sẽ bị xử lý như thế nào? Cơ quan nào có trách nhiệm xử lý những hành vi này? Bạn đọc Q.N. hỏi.

Ảnh minh họa.
Liên quan đến vấn đề này, theo Bộ Công an, hành vi bán thuốc điều trị Covid-19 không rõ nguồn gốc xuất xứ sẽ bị xử lý theo các quy định tại Điều 17 Nghị định số 98/2020/NĐ-CP ngày 26/8/2020 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong hoạt động thương mại, sản xuất, buôn bán hàng giả, hàng cấm và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng và Điều 59 Nghị định số 117/2020/NĐ-CP ngày 28/9/2020 của Chính phủ quy định xử phạt hành chính trong lĩnh vực y tế.
Nếu phát hiện việc bán, lưu hành các loại vật tư phòng, chống Covid 19 (kit test, máy đo SpO2...) không rõ nguồn gốc hoặc giá quá cao thì người dân có thể báo cho các cơ quan có trách nhiệm xử lý những hành vi này như: Công an, Quản lý thị trường, Thanh tra y tế ...
Hiện nay hành vi bán, lưu hành các loại vật tư phòng, chống Covid-19 không rõ nguồn gốc hoặc giá quá cao trong trường hợp cơ quan chức năng xác minh, thu thập đầy đủ tài liệu, chứng cứ có thể bị xử lý hình sự như sau:
- Nếu hành vi buôn bán các loại vật tư phòng, chống Covid-19 (kit test, máy đo SpO2, thuốc điều trị Covid-19 ...) không rõ nguồn gốc, xuất xứ, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam có trị giá hàng từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên thì người buôn bán sẽ vi phạm tội "Sản xuất, buôn bán hàng cấm" quy định tại Điều 190 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
- Nếu hành vi tàng trữ, vận chuyển các loại vật tư phòng, chống Covid 19 (kit test, máy đo SpO2, thuốc điều trị Covid-19...) không rõ nguồn gốc, xuất xứ, chưa được phép lưu hành, chưa được phép sử dụng tại Việt Nam có trị giá hàng từ 200.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính từ 100.000.000 đồng trở lên thì người tàng trữ, vận chuyển sẽ vi phạm tội "Tàng trữ, vận chuyển hàng cấm" quy định tại Điều 191 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Nếu hành vi buôn bán các loại vật tư phòng, chống Covid-19 (kit test, máy đo SpO2,...) không rõ nguồn gốc, xuất xứ có tài liệu chứng minh là hàng giả có giá trị từ 30.000.000 đồng trở lên hoặc thu lợi bất chính từ 50.000.000 đồng trở lên thì người buôn bán sẽ vi phạm tội "Sản xuất, buôn bán hàng giả" quy định tại Điều 192 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Nếu hành vi buôn bán thuốc điều trị Covid-19 không rõ nguồn gốc, xuất xứ có tài liệu chứng minh là hàng giả thì người buôn bán sẽ vi phạm rội "Sản xuất, buôn bán hàng giả" là thuốc chữa bệnh, thuốc phòng bệnh quy định tại Điều 194 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Nếu hành vi buôn bán các loại vật tư phòng, chống Covid-19 (kit test, máy đo SpO2, thuốc điều trị Covid-19 ...) qua biên giới hoặc từ khu phi thuế quan vào nội địa trái pháp luật có giá trị hàng từ 100.000.000 đồng trở lên thì người buôn bán sẽ vi phạm tội "Buôn lậu" quy định tại Điều 188 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
HỒNG HẠNH
Chế độ đối với cha mẹ nghỉ việc chăm sóc con là F0
3. Trường hợp nào sẽ bỏ phiếu kín hoặc bốc thăm khi xác định kết quả đấu giá?
(LSVN) - Được biết, Bộ Tài chính vừa ban hành Thông tư số 05/2022/TT-BTC hướng dẫn tái cơ cấu doanh nghiệp không đủ điều kiện cổ phần hóa và chuyển nhượng lô cổ phần kèm nợ phải thu của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ. Vậy theo quy định mới này, trường hợp nào sẽ bỏ phiếu kín hoặc bốc thăm khi xác định kết quả đấu giá? Bạn đọc P.K. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo Điều 19 Thông tư số 05/2022/TT-BTC quy định rõ về xác định kết quả đấu giá. Theo đó, giá đấu hợp lệ là mức giá không thấp hơn giá khởi điểm theo quy định tại Quy chế bán đấu giá.
Giá trúng đấu giá được xác định là mức giá hợp lệ nhà đầu tư đặt mua cao nhất.
Trường hợp có từ hai nhà đầu tư trở lên đặt mức giá cao nhất bằng nhau và không thấp hơn mức giá khởi điểm thì trong vòng tối đa 05 ngày làm việc kể từ ngày tổ chức phiên đấu giá lô cổ phần kèm nợ phải thu, doanh nghiệp mua bán nợ phối hợp với tổ chức đấu giá thực hiện bỏ phiếu kín trực tiếp giữa các nhà đầu tư cùng trả mức giá này để xác định nhà đầu tư có mức đặt giá cao nhất và duy nhất. Mức giá bỏ phiếu kín là mức giá không thấp hơn mức giá đấu mà các nhà đầu tư đã trả cao nhất bằng nhau theo bước giá quy định tại Quy chế bán đấu giá. Nhà đầu tư có mức giá đặt mua cao nhất khi bỏ phiếu kín là nhà đầu tư trúng giá và sẽ được mua lô cổ phần kèm nợ phải thu. Trường hợp khi tổ chức bỏ phiếu kín các nhà đầu tư tiếp tục trả giá bằng nhau thì tổ chức bốc thăm ngay để xác định nhà đầu tư trúng giá.
Trường hợp nhà đầu tư trả giá cao nhất bằng nhau đều từ chối bỏ phiếu kín hoặc nhà đầu tư đã xác định trúng giá nhưng từ chối mua thì xác định cuộc đấu giá không thành công để thực hiện chuyển sang phương thức chuyển nhượng khác theo quy định.
Về xử lý kết quả đấu giá, ngay sau khi kết thúc cuộc đấu giá, căn cứ kết quả đấu giá, Tổ chức đấu giá có trách nhiệm lập Biên bản xác định kết quả đấu giá; Tổ chức đấu giá, doanh nghiệp mua bán nợ đồng ký biên bản xác định kết quả đấu giá. Biên bản xác định kết quả đấu giá được lập theo mẫu quy định tại Phụ lục III ban hành kèm theo Nghị định số 140/2020/NĐ-CP .
Trong thời gian tối đa 05 (năm) ngày làm việc kể từ ngày kết thúc đấu giá, doanh nghiệp mua bán nợ/tổ chức đấu giá phối hợp công bố kết quả đấu giá tại địa điểm đấu giá, trên trang thông tin điện tử của tổ chức đấu giá, doanh nghiệp mua bán nợ và thông báo cho nhà đầu tư trúng đấu giá kết quả trúng giá.
Trong thời hạn tối đa 07 (bảy) ngày kể từ ngày công bố kết quả bán đấu giá cổ phần, căn cứ thông báo trúng đấu giá, nhà đầu tư thực hiện thanh toán phần còn lại tiền mua lô cổ phần kèm nợ phải thu theo giá trúng đấu giá sau khi trừ đi số tiền đặt cọc. Trong thời hạn này, doanh nghiệp mua bán nợ phối hợp với tổ chức bán đấu giá hoàn trả tiền đặt cọc cho các nhà đầu tư không trúng đấu giá và không vi phạm Quy chế bán đấu giá. Nhà đầu tư vi phạm Quy chế bán đấu giá thì không được hoàn trả tiền đặt cọc.
MAI HUỆ
Chấn chỉnh những hiện tượng phản cảm không phù hợp với văn hóa truyền thống
4. Một số vấn đề pháp lý liên quan đến vụ con riêng bị xâm hại, vợ cắt 'của quý' của chồng
(LSVN) -
![]()
Các bác sĩ phẫu thuật cho nạn nhân bị cắt "của quý".
Con riêng bị xâm hại, vợ cắt 'của quý' của chồng
Công an huyện Yên Châu, tỉnh Sơn La cho biết đang điều tra vụ án và các vấn đề liên quan đến người đàn ông ở xã Chiềng Hặc, huyện Yên Châu, bị vợ cắt đứt dương vật và tinh hoàn.
Theo thông tin ban đầu, sau nhiều lần nghi ngờ chồng mình là N.V.H. có hành vi xâm hại con gái riêng của mình, chị H.T.N. đã nói chuyện với chồng nhưng H. không thừa nhận.
Do không có bằng chứng nên trưa 18/3 chị N. đi mua camera rồi lắp ở đầu giường của con gái để theo dõi và phát hiện H. có hành vi đồi bại với con gái mình. Quá bức xúc với hành động của chồng, đêm 19/3, N. dùng con dao mua trước đó cắt cụt dương vật của anh H.
Sau khi gây án, nghi phạm đến cơ quan chức năng đầu thú, còn nạn nhân được đưa đi cấp cứu nhưng không còn dương vật và tinh hoàn. Hiện sức khỏe của người đàn ông này đã ổn định, qua cơn nguy kịch.
Hiện Công an huyện Yên Châu đang tiếp tục điều tra, làm rõ sự việc.
Người vợ cắt 'của quý' của chồng có thể phải đối diện với mức án đến 14 năm tù
Trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính Pháp chia sẻ đây không phải là vụ việc đầu tiên đàn ông bị cắt "của quý", trước đó đã có nhiều nạn nhân rơi vào tình huống tương tự, đây là hành vi cố ý gây thương tích, không chỉ xâm phạm đến sức khỏe của nạn nhân mà còn ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống tâm lý, sức khỏe sinh sản và hạnh phúc gia đình của họ... Bởi vậy hành vi này rất đáng trách, đáng lên án và phải bị xử lý bằng những chế tài nghiêm minh của pháp luật.
Với những thông tin ban đầu về vụ việc thì cơ quan điều tra sẽ tiếp tục lấy lời khai của nghi phạm, làm rõ nguyên nhân sự việc, làm rõ diễn biến hành vi, công cụ phương tiện gây án, mục đích thực hiện hành vi và xác định hậu quả thiệt hại đến sức khỏe của nạn nhân để giải quyết vụ việc theo quy định của pháp luật. Theo đó, cơ quan điều tra sẽ tiến hành trưng cầu giám định thương tích của nạn nhân để khởi tố vụ án hình sự về tội "Cố ý gây thương tích" theo Điều 134 Bộ luật Hình sự và củng cố hồ sơ tài liệu để tiến hành khởi tố bị can đối với người vợ của nạn nhân để điều tra theo quy định pháp luật.
Cơ quan chức năng sẽ căn cứ vào quy định tại Thông tư 22/2019/TT-BYT quy định tỷ lệ phần trăm tổn thương cơ thể để xác định tỷ lệ thương tích của nạn nhân. Tùy thuộc vào dấu vết để lại và kết quả điều trị mà thương tích sẽ ở những mức độ khác nhau, theo đó:
- Với Tổn thương niệu đạo mà trị nội khoa phục hồi tốt, không có di chứng thì tỷ lệ thương tích từ 11% đến 15%. Trường hợp hậu quả tổn thương niệu đạo mà có di chứng hẹp niệu đạo phải nong hoặc can thiệp tạo hình thì tỷ lệ thương tích từ 16% đến 45%.
- Với hậu quả mất cả hai bên tinh hoàn thì tỷ lệ thương tích sẽ là từ 36 % đến 40 %;
- Với hậu quả mất một phần dương vật thì 1.000.000.000 lệ thương tích sẽ là từ 21% đến 25 %;
- Nếu đứt hoàn toàn dương vật, không nối lại được, đã phẫu thuật tạo hình dương vật thì tỷ lệ thương tích là 31% đến 35 %;
- Nếu mất hoàn toàn dương vật thì tỷ lệ thương tích sẽ là từ 36% đến 40 %...
Sau khi xác định những thương tích cụ thể, kết quả điều trị và khả năng phục hồi thì cơ quan giám định pháp y sẽ xác định đối với từng thương tích và sẽ cộng lại theo phương pháp cộng dồn để tính tổng tỷ lệ phần trăm thương tích do hành vi trái pháp luật gây ra.
"Căn cứ vào tỷ lệ thương tích của nạn nhân sẽ làm cơ sở để áp dụng pháp luật, xác định khung, khoản điều luật áp dụng. Cụ thể Điều 134 Bộ luật Hình sự quy định rõ trường hợp ca phẫu thuật thành công thành công, để là ít di chứng thì thương tích được cộng dồn cũng sẽ khoảng từ 31% đến 60%, khi đó người phụ nữ này sẽ phải đối mặt với khung hình phạt là phạt tù từ 05 năm đến 10 năm theo khoản 3. Trường hợp nạn nhân không được cấp cứu kịp thời dẫn đến thiệt mạng thì hình phạt cũng có thể tới 14 năm tù" Luật sư Cường cho biết.
Đây là hành vi trả thù tàn nhẫn, không chỉ gây thương tích nghiêm trọng cho nạn nhân mà còn có thể khiến nạn nhân thiệt mạng nếu như không được cấp cứu kịp thời. Hậu quả của hành vi này sẽ để lại rất lâu dài đến đời sống, sức khỏe, hạnh phúc gia đình của nạn nhân. Khi áp dụng hình phạt, Tòa án sẽ cân nhắc áp dụng tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự là có tính chất côn đồ hoặc vì động cơ đê hèn, vì lý do nhỏ nhặt, ích kỷ, bội bạc mà thực hiện hành vi phạm tội.
Từ những vụ như thế này Luật sư Cường kiến nghị cơ quan chức năng cần phải tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật, giáo dục ý thức chấp hành pháp luật, tôn trọng tính mạng, sức khỏe, danh dự nhân phẩm của người khác. Những hành vi xâm phạm đến thân thể của nạn nhân như trong tình huống này thì phải chịu những mức chế tài nghiêm khắc của pháp luật, hình phạt có thể tới 14 năm tù. Nếu kết quả phẫu thuật thành công, ít để lại di chứng thì hình phạt cũng có thể tới 10 năm tù. Ngoài ra, khi thực hiện hành vi cắt "của quý" của chồng mình thì hạnh phúc gia đình sẽ chấm dứt, những thiệt thòi, thiệt hại sẽ đến với cả đôi bên chứ không riêng gì nạn nhân. Đây là cái giá phải trả quá đắt cho hành vi này, sẽ là bài học cho những ai có ý định thực hiện những hành vi như thế này.
Người chồng cũng có thể bị xử lý hình sự
Theo Luật sư, trong quá trình điều tra, nếu có căn cứ cho thấy nạn nhân cũng thực hiện hành vi vi phạm pháp luật thì tùy vào tính chất mức độ của hành vi, tùy thuộc vào hậu quả mà nạn nhân cũng sẽ bị xử lý bằng các chế tài hành chính hoặc hình sự theo nguyên tắc ai sai đến đâu thì phải xử lý đến đó.
Nếu cơ quan điều tra có căn cứ cho thấy nạn nhân đã thực hiện hành vi dâm ô hoặc các hành vi khác xâm hại tình dục đối với con riêng của vợ thì cơ quan điều tra cũng có thể xử lý hình sự người này về tội "Dâm ô với người dưới 16 tuổi" hoặc các tội danh khác về tình dục theo quy định của Bộ luật Hình sự nếu hành vi thỏa mãn các dấu hiệu cấu thành tội phạm.
Trường hợp kết quả điều tra cho thấy người đàn ông này đã có hành vi quan hệ tình dục đối với con riêng của vợ và cháu bé chưa đủ 16 tuổi thì sẽ xử lý hình sự về tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" nếu hành vi quan hệ tình dục là trái ý muốn hoặc xử lý hình sự về tội "Giao cấu với người dưới 16 tuổi" nếu không chứng minh được hành vi là trái ý muốn.
Nếu hành vi chỉ là sờ mó, đụng chạm nhưng không thực hiện hành vi quan hệ tình dục với người dưới 16 tuổi thì sẽ xử lý hình sự về tội "Dâm ô với người dưới 16 tuổi".
Trường hợp hành vi được xác định là dâm ô với người dưới 16 tuổi thì người đàn ông này phải đối mặt với khung hình phạt là phạt tù từ 03 năm đến 07 năm tù theo quy định tại khoản 2, Điều 146 Bộ luật Hình sự với tình tiết định khung hình phạt có thể áp dụng là phạm tội từ hai lần trở lên và tình tiết phạm tội với người và người phạm tội có trách nhiệm chăm sóc, giáo dục.
Trường hợp có căn cứ cho chứng minh đã có hành vi quan hệ tình dục nhưng không phải là hành vi quan hệ tình dục trái ý muốn thì người đàn ông này sẽ phải đối mặt với hình phạt là phạt tù từ 03 năm đến 10 năm theo quy định tại khoản 2, Điều 145 Bộ luật Hinh sự về tội "Giao cấu với người dưới 16 tuổi"
Trường hợp hành vi được xác định là quan hệ tình dục trái ý muốn với người dưới 16 tuổi thì người này sẽ bị xử lý hình sự về tội "Hiếp dâm người dưới 16 tuổi" với hình phạt là phạt tù từ 12 năm đến 20 năm, theo quy định tại khoản 2. Điều 142 Bộ luật Hình sự.
Trong trường hợp có căn cứ cho thấy người đàn ông này đã có hành vi xâm hại tình dục đối với con riêng của vợ dẫn đến hậu quả người vợ thực hiện hành vi cắt dương vật của người chồng thì đây sẽ được xác định là tình tiết phạm tội do tinh thần bị kích động mạnh và người vợ sẽ được áp dụng tình tiết là người phạm tội có lỗi một phần nên sẽ được giảm nhẹ một phần trách nhiệm hình sự.
Vấn đề này cơ quan điều tra sẽ tiếp tục làm rõ trong quá trình điều tra vụ án trên nguyên tắc là ai sai phạm đến đâu thì sẽ xử lý đến đó, mọi hành vi vi phạm pháp luật đều phải chịu trách nhiệm pháp lý. Hành vi xâm hại tình dục trẻ em và hành vi cố ý gây thương tích đều có thể bị xử lý hình sự theo các quy định pháp luật nêu trên.
TIẾN HƯNG
Tách Luật GTĐB 2008 thành hai luật chuyên biệt: Nên hay không?
5.

