Bộ Tài chính phối hợp Bộ Công an xử lý dịch vụ 'đặt 1 ăn 70'
(LSVN) - Ngày 30/3, Bộ Tài chính đã phát đi thông cáo về hoạt động kinh doanh xổ số. Theo đó, Bộ khẳng định việc doanh nghiệp cung cấp dịch vụ "đặt 1 ăn 70", kết quả tính theo hai số cuối giải đặc biệt xổ số miền Bắc và một số trang mạng, nhà cung cấp dịch vụ mua hộ vé xổ số là hành vi vi phạm các quy định về hoạt động kinh doanh xổ số.
![]()
Ảnh minh họa.
Theo Bộ Tài chính, trong thời gian qua, Bộ đã nhiều lần gửi thông cáo báo chí về việc doanh nghiệp cung cấp dịch vụ “Đặt 1 ăn 70,” kết quả tính theo hai số cuối giải đặc biệt xổ số miền Bắc và một số trang mạng, nhà cung cấp dịch vụ mua hộ vé xổ số.
Bộ Tài chính đang phối hợp với Bộ Công an và Bộ Thông tin và Truyền thông để xử lý các vụ việc này theo quy định của pháp luật.
Bộ Tài chính cũng đã có Công văn chấn chỉnh gửi các Công ty Xổ số kiến thiết các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương, Công ty Trách nhiệm hữu hạn một thành viên Xổ số điện toán Việt Nam đồng thời gửi ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương để phối hợp, quản lý giám sát hoạt động kinh doanh xổ số, đảm bảo theo đúng quy định của pháp luật.
Theo quy định về pháp luật kinh doanh xổ số, vé xổ số truyền thống chỉ được phép phân phối vé xổ số theo phương thức quy định tại Giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh được Bộ Tài chính cấp hoặc theo hợp đồng đại lý đã ký với doanh nghiệp kinh doanh xổ số (bán trực tiếp cho khách hàng hoặc phân phối qua hệ thống đại lý xổ số).
Bộ Tài chính nhấn mạnh doanh nghiệp cung cấp dịch vụ “Đặt 1 ăn 70,” kết quả tính theo hai số cuối giải đặc biệt xổ số miền Bắc và một số trang mạng, nhà cung cấp dịch vụ mua hộ vé xổ số có thể là nơi để lợi dụng kinh doanh lô đề một cách hợp pháp, tiềm ẩn tổ chức đánh bạc.
DUY ANH
Đề xuất bổ sung quy định đấu giá quyền sử dụng đất
Dàn cảnh tai nạn gây ảnh hưởng đến người khác có thể đối diện với những tội danh nào?
(LSVN) - Tôi là lái xe chở thực phẩm, vừa qua có chở thực phẩm tươi sống vào khu vực chợ Vĩnh Điện, thị xã Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam để nhập hàng cho các tiểu thương ở chợ. Khi đang chở vào chợ thì có một nhóm người dàn cảnh gây tai nạn giao thông, làm trễ thời gian giao hàng của tôi nhiều giờ đồng hồ, khiến cho thực phẩm hư hỏng và các tiểu thương trong chợ đã không nhận số hàng đó, gây thiệt hại lên đến 160 triệu đồng. Tuy nhiên, tôi được biết mục đích cuối cùng của các đối tượng trên là không cho xe của tôi vào phân phối thực phẩm tươi sống vào chợ. Vậy, theo quy định của pháp luật hành vi của nhóm đối tượng trên có căn cứ để khởi tố vụ án hình sự không và có thể đối diện với những tội danh nào? Bạn đọc N.T. hỏi.
![]()
Ảnh minh họa.
Trả lời vấn đề này, Luật sư Lê Ngô Hoài Phong, Trưởng văn phòng luật sư PHONG & PARTNERS cho biết theo Điều 143 Bộ luật Tố tụng hình sự quy định về các căn cứ khởi tố vụ án hình sự, cơ quan điều tra chỉ được khởi tố vụ án khi đã xác định có dấu hiệu tội phạm.
Theo đó, qua những thông tin bạn cung cấp, để đánh giá có hay không có cơ sở pháp lý cho việc khởi tố vụ án hình sự đối với nhóm đối tượng trên, Luật sư Phong phân tích rõ các dấu hiệu cấu thành tội phạm đối với hành vi trên có liên quan đến 03 tội danh cụ thể dưới đây.
Thứ nhất, về tội "Cản trở giao thông đường bộ"
Tại điểm d khoản 1 Điều 261 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
“Điều 261. Tội cản trở giao thông đường bộ
1. Người nào đào, khoan, xẻ, san lấp trái phép công trình giao thông đường bộ; đặt, để, đổ trái phép vật liệu, phế thải, rác thải, vật sắc nhọn, chất gây trơn hoặc chướng ngại vật khác gây cản trở giao thông đường bộ; tháo dỡ, di chuyển trái phép, làm sai lệch, che khuất hoặc phá hủy biển báo hiệu, đèn tín hiệu, cọc tiêu, gương cầu, dải phân cách hoặc thiết bị an toàn giao thông đường bộ khác; mở đường giao cắt trái phép qua đường bộ, đường có dải phân cách; sử dụng trái phép lề đường, hè phố, phần đường xe chạy, hành lang an toàn đường bộ hoặc vi phạm quy định về bảo đảm an toàn giao thông khi thi công trên đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
d. Gây thiệt hại về tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng”.
Chủ thể: Các đối tượng thực hiện hành vi là các cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự.
Khách thể: Hành vi của nhóm đối tượng trên đã xâm phạm đến khách thể là an toàn giao thông đường bộ, ảnh hưởng đến an toàn, hoạt động của phương tiện tham gia giao thông và người điều khiển phương tiện trong quá trình lưu thông trên đường.
Mặt khách quan:
- Hành vi khách quan: Khu vực anh bị chặn là phần đường dành cho xe chạy, khu vực dành cho các phương tiện giao thông qua lại trên đường, không ai được phép để chướng ngại vật lên đó để cản trở lưu thông của người tham gia giao thông. Các đối tượng trên đã có hành vi đặt trái phép chướng ngại vật trên đường bộ khiến anh không thể tiếp tục lưu thông trên đường và gây cản trở giao thông, mất an toàn cho các phương tiện và người điều khiển phương tiện tham gia giao thông trên đường.
Hành vi trên là hành vi bị nghiêm cấm theo khoản 2 Điều 8 Luật Giao thông đường bộ: “Đào, khoan, xẻ đường trái phép; đặt, để chướng ngại vật trái phép trên đường; đặt, rải vật nhọn, đổ chất gây trơn trên đường; để trái phép vật liệu, phế thải, thải rác ra đường; mở đường, đấu nối trái phép vào đường chính; lấn, chiếm hoặc sử dụng trái phép đất của đường bộ, hành lang an toàn đường bộ; tự ý tháo mở nắp cống, tháo dỡ, di chuyển trái phép hoặc làm sai lệch công trình đường bộ”.
- Hậu quả của tội phạm: Hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của tội này. Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả phải là quan hệ trực tiếp. Trong tình huống này, việc xác định mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả rất phức tạp vì chưa đủ cơ sở chắc chắn để khẳng định quan hệ trực tiếp giữa hành vi và hậu quả. Cơ quan điều tra phải tiến hành các hoạt động điều tra, kiểm tra, xác minh trong giai đoạn giải quyết tố giác tội phạm để xác định chắc chắn hậu quả tội phạm và mối quan hệ nhân quả trực tiếp thì mới có cơ sở đánh giá cấu thành dấu hiệu tội phạm. Với những thông tin hiện có thì chúng tôi đánh giá có ít nhất 2 quan điểm về quan hệ nhân quả như sau:
Quan điểm thứ nhất: Nhóm đối tượng trên có hành vi đặt chướng ngại vật trái phép trên đường, hậu quả là anh không thể tiếp tục lưu thông trên đường. Sau khi giải quyết xong, anh vẫn được tiếp tục lưu thông trên đường, số thịt bò trên xe chưa thực sự bị hư hỏng, chưa gây nên thiệt hại trực tiếp. Các chủ cơ sở kinh doanh không nhận hàng có thể do hàng giao trễ và không đủ độ tươi, đây là hậu quả gián tiếp từ hành vi cản trở giao thông của nhóm đối tượng. Từ đó chưa được xem hành vi này đã đủ cấu thành tội phạm vật chất là gây thiệt hại tài sản từ 100.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng như quy định tại Điểm d Khoản 1 Điều 261 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Quan điểm thứ hai: Nhóm đối tượng trên có hành vi đặt chướng ngại vật trái phép trên đường nhằm hướng đến mục đích cụ thể ngăn cản, cản trở phương tiện của anh đi vào giao hàng cho tiểu thương ở chợ Vĩnh Điện. Các đối tượng trên biết rõ chủ phương tiện đang chở hàng hóa đi giao cho khách hàng (không phải chờ hàng hóa về nhà tiêu dùng) và mong muốn cản trở phương tiện giao thông để chủ phương tiện không thể giao được hàng hóa đang vận chuyển trên phương tiện đó. Vì vậy, chính hành vi trái pháp luật đặt chướng ngại vật trái phép trên đường là nguyên nhân trực tiếp gây ra hậu quả là chủ phương tiện không thể giao hàng hóa đang vận chuyển trên phương tiện cho khách hàng theo thỏa thuận, gây thiệt hại về tài sản cho anh 160 triệu đồng. Do vậy, đã thoả mãn cấu thành tội phạm vật chất.
Mặt chủ quan: Trong trường hợp này, nhóm đối tượng phạm tội với Lỗi cố ý trực tiếp. Bởi các đối tượng tuy thấy hành vi của mình có thể ra hậu quả cản trở giao thông, thiệt hại về mặt tài sản cho người khác, các đối tượng có đầy đủ nhận thức được về sự sai trái của hành vi do mình thực hiện nhưng vẫn cố ý thực hiện và mong muốn cho hậu quả đó xảy ra.
Luật sư Phong đánh giá hành vi của nhóm đối tượng trên có dấu hiệu của tội "Cản trở giao thông đường bộ” theo điểm d khoản 1 Điều 261 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017. Tuy nhiên, với thông tin và tài liệu hiện tại thì chưa đủ cơ sở chắc chắn để khẳng định thỏa mãn dấu hiệu mặt khách quan của tội phạm (hậu quả và mối quan hệ trực tiếp giữa hành vi vi phạm và hậu quả). Do đó, để xác định có cơ sở khởi tố hình sự hay không thì phải qua giai đoạn giải quyết tố giác tội phạm, Cơ quan điều tra sẽ tiến hành một số hoạt động điều tra, kiểm tra, xác minh, thu thập lời khai của nhóm đối tượng (người bị tố giác), người làm chứng để làm rõ hậu quả tội phạm và mối quan hệ nhân quả trực tiếp giữa hành vi phạm tội và thiệt hại tài sản của chủ phương tiện.

Luật sư Lê Ngô Hoài Phong – Trưởng VPLS Phong & Partners.
Thứ hai, về tội "Gây rối trật tự công cộng"
Tại điểm a khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 quy định:
“Điều 318. Tội gây rối trật tự công cộng
1. Người nào gây rối trật tự công cộng gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội hoặc đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi này hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm, thì bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 02 năm hoặc phạt tù từ 03 tháng đến 02 năm.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;”
Tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao đã hướng dẫn:
“5.1. Hành vi gây rối trật tự công cộng mà để hậu quả xảy ra thuộc một trong các trường hợp sau đây bị coi là "gây hậu quả nghiêm trọng" và phải chịu trách nhiệm hình sự theo khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự:
a. Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ;
c. Thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên;”
Có thể thấy, hành vi khách quan là tập trung đông người ở gần phương tiện và dàn cảnh tai nạn để chặn xe của anh, làm ảnh hưởng đến tâm lý, công việc làm ăn chân chính của anh và những người khác xung quanh, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, hoạt động bình thường của người dân sinh sống trên địa bàn và các tiểu thương kinh doanh tại chợ Vĩnh Điện.
Hậu quả: Tiểu mục 5.1 Nghị quyết số 02/2003/NQ-HĐTP ngày 17/4/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đã hướng dẫn về các trường hợp được coi là “gây hậu quả nghiêm trọng” và phải chịu trách nhiệm hình sự về tội gây rối trật tự công cộng theo Khoản 1 Điều 245 Bộ luật Hình sự 1999 (cũ). Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017 (hiện này) đã thay đổi cụm từ “gây hậu quả nghiêm trọng” thành “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” trong “tội gây rối trật tự công cộng”. Đến nay chưa có văn bản hướng dẫn các trường hợp nào được xem là “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” và chưa có văn bản nào bãi bỏ Nghị quyết số 02/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao.
Vì vậy vẫn có thể áp dụng tiểu mục 5.1 của Nghị quyết 02/2003 hướng dẫn về tình tiết “gây hậu quả nghiêm trọng”, quy định tại Điều 245 Bộ luật Hình sự năm 1999 để giải quyết các vụ án gây rối trật tự công cộng với tình tiết “gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội” quy định tại Điều 318 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Xét hậu quả “Cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ”: Hành vi gây náo loạn, tập trung nơi đông người của các đối tượng trên đã gây cản trở, ách tắc giao thông đến dưới 2 giờ, cụ thể, nhóm đối tượng đã làm cản trở giao thông khu vực bị dàn cảnh, chặn xe gần 2 giờ đồng hồ. Như vậy đã cấu thành hậu quả vật chất là làm cản trở giao thông đến dưới 2 giờ.
Xét thêm hậu quả “thiệt hại về tài sản có giá trị từ mười triệu đồng trở lên”, chưa đủ cơ sở chắc chắn để khẳng định quan hệ trực tiếp giữa hành vi và hậu quả thiệt hại tài sản. Cơ quan điều tra phải tiến hành các hoạt động điều tra, kiểm tra, xác minh trong giai đoạn giải quyết tố giác tội phạm để xác định chắc chắn mối quan hệ nhân quả trực tiếp.
Với những thông tin hiện có thì chúng tôi đánh giá có ít nhất 2 quan điểm về quan hệ nhân quả như sau:
- Quan điểm thứ nhất: Nhóm đối tượng trên có hành vi gây rối trật tự công cộng, ảnh hưởng đến an ninh khu vực tại chợ Vĩnh Điện, làm cho anh không thể tiếp tục lưu thông trên đường. Sau khi giải quyết xong, anh được tiếp tục lưu thông trên đường thì số thịt bò trên xe chưa thực sự bị hư hỏng, chưa gây nên thiệt hại trực tiếp. Các tiểu thương trong chợ không nhận hàng có thể là do hàng giao trễ và không đủ độ tươi là hậu quả gián tiếp từ hành vi gây rối trật tự công cộng của những đối tượng trên. Từ đó chưa được xem hành vi này có quan hệ trực tiếp đến hậu quả thiệt hại tài sản để cấu thành tội phạm vật chất là gây thiệt hại tài sản từ 10 triệu đồng trở lên.
- Quan điểm thứ hai: Hành vi tập trung đông người ở gần phương tiện và dàn cảnh tai nạn để chặn xe của anh, làm ảnh hưởng đến tâm lý, công việc làm ăn chân chính của anh và những người khác xung quanh, ảnh hưởng xấu đến an ninh trật tự, hoạt động bình thường của người dân sinh sống trên địa bàn và các tiểu thương kinh doanh tại chợ Vĩnh Điện. Đồng thời, hành vi này cũng hướng đến mục đích cụ thể là ngăn cản, cản trở phương tiện của anh đi vào giao hàng cho tiểu thương ở chợ Vĩnh Điện. Các đối tượng trên biết rõ anh đang chở hàng hóa đi giao cho khách hàng (không phải chờ hàng hóa về nhà tiêu dùng) và mong muốn cản trở anh giao hàng cho khách hàng. Vì vậy, chính hành vi trái pháp luật gây rối trật tự công cộng là nguyên nhận trực tiếp gây ra hậu quả là anh không thể giao hàng hóa đang vận chuyển trên phương tiện cho khách hàng theo thỏa thuận, gây thiệt hại về tài sản cho anh là 160 triệu đồng, thoả mãn cấu thành tội phạm vật chất liên quan đến thiệt hại tài sản từ 10 triệu đồng trở lên.
Lỗi: Các đối tượng phối hợp có tổ chức, dàn cảnh, phối hợp với nhau gây náo loạn và cố ý thực hiện hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp.
- Về lí trí: Các đối tượng nhận thức rõ mức độ nguy hiểm ảnh hưởng cho xã hội, đến trật tự, an ninh, lối sống lành mạnh, ổn định của người dân tại khu vực và đặc biệt thấy được hậu quả xảy ra sẽ ảnh hưởng đến an ninh trật tự, an toàn khu vực tại nơi công cộng, cản trở giao thông.
- Về ý chí: Các đối tượng mong muốn chặn xe của anh để xe không thể di chuyển được, nhằm gây cản trở giao thông, đình trệ hoạt động công cộng bình thường của người dân địa phương.
Mục đích: Cố ý gây rối trật tự tại khu vực chợ Vĩnh Điện để anh không giao nhận được hàng cho các hộ kinh doanh và làm mất an ninh khu vực tại địa phương.
Theo Luật sư Phong, hành vi của nhóm đối tượng trên có dấu hiệu của tội "Gây rối trật tự công cộng” theo điểm a khoản 2 Điều 318 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
Thứ ba, về tội "Cố ý làm hư hỏng tài sản"
Theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017:
“Điều 178. Tội hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản
Người nào hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản của người khác trị giá từ 2.000.000 đồng đến dưới 50.000.000 đồng hoặc dưới 2.000.000 đồng nhưng thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm:
a) Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi quy định tại Điều này mà còn vi phạm;
b) Đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm;
c) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;
d) Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ;
đ) Tài sản là di vật, cổ vật.
2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm:
a) Có tổ chức;
b) Gây thiệt hại cho tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;”
Theo đó, các đối tượng thực hiện hành vi là các cá nhân có đủ năng lực trách nhiệm hình sự. Hành vi của nhóm đối tượng trên đã xâm phạm đến tài sản là số thịt tươi của anh.
Các đối tượng đã dàn cảnh tai nạn để chặn xe của anh, khiến cho anh không thể giao thịt kịp thời gian, cố ý làm hư hỏng số thịt trên xe mà anh đang tiến hành đi giao hàng, khiến thịt không còn đảm bảo độ tươi, mất giá trị sử dụng.
Hậu quả: Khi kết thúc hành vi dàn cảnh gây tai nạn, số thịt trên xe của anh không còn đảm bảo độ tươi, hậu quả khiến cho anh không thể giao hàng cho tiểu thương ở chợ, thiệt hại lên đến 160 triệu đồng.
Mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả của tội phạm: Hành vi dàn cảnh, cản trở giao thông của nhóm đối tượng đã làm cho anh không thể giao hàng đúng giờ, số thịt trên xe lúc giao hàng không còn đảm bảo được độ tươi nên các tiểu thương đã từ chối nhận hàng, thiệt hại lên đến 160 triệu đồng. Như vậy đã có mối quan hệ nhân quả giữa hành vi và hậu quả trong trường hợp này.
Khi thực hiện hành vi, nhóm đối tượng đã phạm tội với lỗi cố ý trực tiếp. Các đối tượng rõ ràng đã biết việc anh đang trên đường đi giao hàng, nếu tiếp tục bị cản trở, giao hàng trễ thì số thịt lúc giao không còn đảm bảo độ tươi, các tiểu thương sẽ từ chối nhận hàng. Tuy nhiên, các đối tượng vẫn cố ý thực hiện hành vi đến cùng, mong muốn cho hậu quả xảy ra là số thịt trên không còn giá trị sử dụng.
Hành vi của nhóm đối tượng nhằm mục đích cố ý làm hư hỏng tài sản là số thịt trên xe của anh, khiến cho anh không thể giao hàng cho các tiểu thương trong chợ như đã hẹn.
Vì vậy, hành vi của nhóm đối tượng trên có dấu hiệu của “Tội cố ý làm hư hỏng tài sản” theo Điều 178 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017.
PV
Đề xuất bổ sung quy định đấu giá quyền sử dụng đất
CHIỀU
1. Cẩn trọng khi thu thập, sử dụng thông tin cá nhân của người khác
(LSVN) - Theo quy định của pháp luật thì hành vi thu thập, sử dụng trái phép thông tin cá nhân của người khác có thể sẽ bị xử phạt hành chính, nếu gây hậu quả nghiêm trọng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
![]()
Ảnh minh họa.
Hiến pháp và pháp luật Việt Nam ghi nhận, bảo đảm và bảo vệ quyền tự do cá nhân, quyền nhân thân của mọi công dân theo đó việc sử dụng thông tin cá nhân của người khác thì phải được người đó đồng ý, nếu sử dụng trái phép gây thiệt hại thì phải bồi thường thiệt hại theo quy định của pháp luật. Trường hợp sử dụng thông tin, hình ảnh của người khác mà không được người có thông tin hình ảnh đồng ý thì phải gỡ bỏ, nếu gây thiệt hại thì phải bồi thường, nếu bị kiện thì có thể sẽ phải chịu chế tài của pháp luật.
Cụ thể theo quy định tại khoản 1 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 thì cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Đây là quy định rất rõ ràng cụ thể về quyền hình ảnh của cá nhân. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh là quyền nhân thân gắn liền với mỗi cá nhân được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận và bảo vệ.
Cá nhân là người có quyền đối với hình ảnh của mình, quyền của cá nhân được thể hiện như: cá nhân được trực tiếp sử dụng hình ảnh, quảng bá hình ảnh của bản thân, được đăng tải, công khai hình ảnh với các mục đích hợp pháp của cá nhân... hoặc cá nhân được quyền cho phép hoặc không cho phép người khác sử dụng hình ảnh của mình. Khi muốn sử dụng hình ảnh của người khác thì phải được người đó đồng ý.
Pháp luật quy định trong một số trường hợp cụ thể thì có thể sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác mà không cần sự cho phép. Cụ thể, theo khoản 2 Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 quy định, việc sử dụng hình ảnh trong trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ:
- Hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng;
- Hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.
Như vậy, trường hợp sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác vì lợi ích chung của quốc gia, dân tộc, lợi ích cộng đồng thì không phải xin phép. Ngoài ra hình ảnh có được từ các hoạt động công cộng như hội nghị, hội thảo, thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật công khai và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự nhân phẩm uy tín của người có hình ảnh thì mọi người cũng được phép sử dụng.
Những hình ảnh mà người khác đã công khai trên mạng xã hội, trước công chúng thì người khác cũng có quyền sử dụng, viện dẫn nhưng không làm tổn hại đến danh dự uy tín của họ. Việc sử dụng hình ảnh của người khác nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm uy tín của người khác hoặc sử dụng vào mục đích trái pháp luật thì sẽ bị xử phạt hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ngoài những trường hợp quy định tại khoản 2, Điều 32 Bộ luật Dân sự nêu trên thì việc thu thập thông tin, sử dụng hình ảnh của người khác trái phép là hành vi vi phạm pháp luật. Trường hợp phát hiện quên hình ảnh của mình bị xâm phạm thì người có hình ảnh có quyền căn cứ vào khoản 3, Điều 32 Bộ luật Dân sự để bảo vệ quyền của mình. Cụ thể, việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.
Khi phát hiện thông tin cá nhân, hình ảnh của mình đang bị sử dụng trái phép thì nạn nhân có quyền tự bảo vệ quyền nhân thân của mình bằng cách thông tin đối với người đang sử dụng trái phép, yêu cầu gỡ bỏ hình ảnh và xin lỗi công khai. Trường hợp người đã thực hiện hành vi sử dụng trái phép hình ảnh không dừng hành vi của mình thì có quyền trình báo sự việc với cơ quan chức năng để được xem xét giải quyết, có thể là cơ quan Công an hoặc khởi kiện đến Tòa án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Quy định về bảo vệ quyền hình ảnh của cá nhân ngày càng chặt chẽ và có những chế tài nghiêm khắc hơn, theo đó từ ngày 27/01/2022, người có hành vi sử dụng trái phép thông tin cá nhân của người khác sẽ bị phạt lên đến 60 triệu đồng, đồng thời có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc hủy bỏ thông tin cá nhân do thực hiện hành vi vi phạm theo Nghị định 14/2022/NĐ-CP.
Cụ thể, khoản 30 Điều 1 Nghị định 14/2022/NĐ-CP sửa đổi mức phạt đối với một số hành vi vi phạm về thu nhập, sử dụng thông tin cá nhân quy định tại khoản 2 Điều 84 Nghị định 15/2020/NĐ-CP như sau:
"Phạt tiền từ 40 triệu đồng đến 60 triệu đồng đối với một trong các hành vi sau:
- Sử dụng không đúng mục đích thông tin cá nhân đã thỏa thuận khi thu thập hoặc khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân;
- Cung cấp hoặc chia sẻ hoặc phát tán thông tin cá nhân đã thu thập, tiếp cận, kiểm soát cho bên thứ ba khi chưa có sự đồng ý của chủ thông tin cá nhân;
- Thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân của người khác".
Đây là mức phạt mới đã được tăng lên rất nhiều so với quy định trước đây. Mức phạt trước đây theo khoản 2 Điều 84 Nghị định 15/2020/NĐ-CP chỉ từ 20 triệu đến 30 triệu đồng. Ngoài ra, áp dụng mức phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 20 triệu đồng đối với những hành vi vi phạm về thu nhập, sử dụng thông tin cá nhân khác, bao gồm:
- Thu thập thông tin cá nhân khi chưa có sự đồng ý của chủ thể thông tin cá nhân về phạm vi, mục đích của việc thu thập và sử dụng thông tin đó;
- Cung cấp thông tin cá nhân cho bên thứ ba khi chủ thể thông tin cá nhân đã yêu cầu ngừng cung cấp.
Như vậy, từ ngày 27/01/2022, người có hành vi sử dụng trái phép thông tin cá nhân của người khác sẽ bị phạt lên đến 60 triệu đồng, đồng thời có thể áp dụng biện pháp khắc phục hậu quả là buộc hủy bỏ thông tin cá nhân do thực hiện hành vi vi phạm.
Ngoài ra, nếu việc sử dụng thông tin hình ảnh của người khác nhằm xúc phạm danh dự nhân phẩm của người có hình ảnh khiến người đó bị ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống, tâm lý, sức khỏe thì hành vi vi phạm trong trường hợp này con có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Làm nhục người khác" theo Điều 155 Bộ luật Hình sự. Cụ thể, người nào xúc phạm nghiêm trọng nhân phẩm, danh dự của người khác, thì bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Pháp luật quy định quyền tự do ngôn luận, tự do bày tỏ quan điểm, thái độ, ý kiến của mình đối với các vấn đề xã hội. Pháp luật cũng cho phép công dân lên án những hành vi vi phạm đạo đức xã hội, vi phạm thuần phong mỹ tục, vi phạm pháp luật. Tuy nhiên nếu lợi dụng quyền tự do dân chủ mà xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì đó là hành vi vi phạm pháp luật. Bởi vậy mọi người cần biết giới hạn của quyền tự do ngôn luận, giới hạn của việc bày tỏ quan điểm thái độ của mình về một vấn đề. Nếu lợi dụng việc bày tỏ quan điểm để xúc phạm đến danh dự nhân phẩm của người khác thì đây là hành vi vi phạm pháp luật.
Hành vi lợi dụng quyền tự do dân chủ xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của nhà nước, của tổ chức, của cá nhân cũng có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo Điều 331 Bộ luật Hình sự nếu hành vi làm mất an ninh trật tự, an toàn xã hội, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể khác. Hành vi truy cập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của người khác để đánh cắp thông tin dữ liệu cũng là hành vi vi phạm pháp luật có thể bị xử lý hình sự theo Điều 288 hoặc Điều 289 Bộ luật Hình sự.
Nếu người nào thu thập trái phép thông tin, hình ảnh, clip có tính chất đồi trụy của người khác rồi phát tán lên không gian mạng. Ví dụ như đăng những clip sex của những nghệ sĩ, những người nổi tiếng hoặc của người khác lên mạng xã hội, mạng internet thì có thể bị truy cứu hình sự trách nhiệm hình sự theo Điều 326 Bộ luật Hình sự.
Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Trưởng văn phòng Luật sư Chính pháp
Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp
2. Quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi
(LSVN) - Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.
![]()
Ảnh minh họa.
Vừa qua, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.
Cụ thể, việc lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại Điều 188, Điều 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018.
Trường hợp người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý, Điều tra viên có thể mời thêm người thân trong gia đình, đại diện nhà trường, chuyên gia tâm lý, đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc các tổ chức, cá nhân khác tham gia khi lấy lời khai để phối hợp hỗ trợ ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục. Người được mời tham gia có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Điều tra viên ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục và phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc lấy lời khai.
Hoạt động lấy lời khai người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 183, 186, 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 và quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.
Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lấy lời khai, hỏi cung của Điều tra viên; nếu thấy lời khai chưa rõ, còn mâu thuẫn, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung bổ sung; nếu phát hiện có vi phạm trong việc lấy lời khai, hỏi cung thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục ngay. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên. Nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung. Điều tra viên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung theo quy định pháp luật.
Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.
TIẾN HƯNG
Thực hiện dự án xử lý rác thải có phải thành lập doanh nghiệp không?
3. Trình tự, thủ tục để nhận hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động
(LSVN) - Được biết, Phó Thủ tướng Lê Minh Khái vừa ký Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg quy định về việc thực hiện chính sách hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Vậy, người lao động cần thực hiện trình tự, thủ tục như thế nào để nhận hỗ trợ tiền thuê nhà theo quy định mới này?
Tại Điều 7 Quyết định số 08/2022/QĐ-TTg quy định rõ về trình tự, thủ tục thực hiện để nhận hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động. Theo đó, người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà theo Mẫu số 01 tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này (sau đây gọi là Mẫu số 01) và chịu trách nhiệm về tính chính xác thông tin theo quy định tại khoản 1 Điều 4 Quyết định này để gửi doanh nghiệp tổng hợp.
Về hồ sơ đề nghị hỗ trợ, danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà có xác nhận của cơ quan bảo hiểm xã hội theo Mẫu số 02 tại Phụ lục ban hành kèm theo Quyết định này (sau đây gọi là Mẫu số 02).
Trường hợp trong danh sách có người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc thì hồ sơ đề nghị cần có thêm bản sao danh sách trả lương của tháng liền kề trước thời điểm doanh nghiệp lập danh sách lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà.
Trên cơ sở đề nghị của người lao động, doanh nghiệp tổng hợp danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà theo Mẫu số 02 và niêm yết công khai tại nơi làm việc ít nhất 03 ngày làm việc.
Trường hợp có ý kiến phản ánh về đối tượng và điều kiện hỗ trợ, doanh nghiệp tiến hành xác minh đảm bảo đúng đối tượng và điều kiện hỗ trợ theo quy định tại Điều 4 Quyết định này trong vòng 02 ngày làm việc.
Doanh nghiệp gửi danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà theo Mẫu số 02 đến cơ quan bảo hiểm xã hội để xác nhận người lao động đang tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc. Doanh nghiệp chịu trách nhiệm về tính chính xác, trung thực thông tin của người lao động quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 4 Quyết định này. Doanh nghiệp lập danh sách người lao động đề nghị hỗ trợ tiền thuê nhà theo từng tháng và có thể đề nghị cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận gộp 02 tháng hoặc 03 tháng.
Trong 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đề nghị, cơ quan bảo hiểm xã hội xác nhận việc tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc của người lao động.
Doanh nghiệp gửi hồ sơ theo quy định tại Điều 6 Quyết định này đến Ủy ban nhân dân cấp huyện nơi đặt trụ sở chính hoặc chi nhánh, văn phòng đại diện, địa điểm sản xuất, kinh doanh. Doanh nghiệp có thể gửi hồ sơ đề nghị hỗ trợ gộp 02 tháng hoặc 03 tháng.
Thời gian tiếp nhận hồ sơ chậm nhất đến hết ngày 15 tháng 8 năm 2022.
Trong 02 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp huyện thẩm định trình Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Trong 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh ban hành quyết định phê duyệt danh sách và kinh phí hỗ trợ; đồng thời chỉ đạo thực hiện chi trả hỗ trợ.
Trường hợp không phê duyệt, Ủy ban nhân dân cấp tỉnh thông báo bằng văn bản và nêu rõ lý do.
Trong 02 ngày làm việc kể từ ngày nhận được kinh phí hỗ trợ của Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, doanh nghiệp thực hiện chi trả cho người lao động.
TIẾN HƯNG
Chính thức hỗ trợ tiền thuê nhà cho người lao động
SÁNG
1. Những quy định mới về tiền lương có lợi cho người lao động
(LSVN) - Vừa qua, Chính phủ đã ban hành Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định nhiều mức phạt mới đối với các vi phạm liên quan đến tiền lương của người sử dụng lao động (doanh nghiệp). Qua đó, nhằm hạn chế tình trạng vi phạm của doanh nghiệp, giúp quyền lợi của người lao động được đảm bảo hơn.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, theo điểm c khoản 4 Điều 12 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định rõ, doanh nghiệp phải trả cho người lao động một khoản tiền tương ứng với tiền lương theo hợp đồng lao động nếu cho người lao động thôi việc do thay đổi cơ cấu, công nghệ hoặc vì lý do kinh tế mà không trao đổi trước với người lao động hoặc tổ chức đại diện người lao động hoặc không thông báo trước 30 ngày cho UBND cấp tỉnh.
Trước đây, doanh nghiệp chỉ bị phạt tiền từ 5 - 10 triệu đồng mà không phải trả tiền cho người lao động nếu vi phạm trong trường hợp nêu trên.
Tại điểm a khoản 1 Điều 17 Nghị định 12/2022/NĐ-CP quy định không công khai thang lương, bảng lương, mức lao động, quy chế thưởng tại nơi làm việc trước khi thực hiện, doanh nghiệp bị phạt từ 5 - 10 triệu đồng. Trước đây, doanh nghiệp chỉ bị phạt từ 2 - 5 triệu đồng.
Không xây dựng thang lương, bảng lương, định mức lao động, doanh nghiệp bị phạt từ 5 - 10 trệu đồng (điểm b khoản 1 Điều 17). Trước đây, quy định doanh nghiệp chỉ bị phạt từ 2 - 5 triệu đồng.
Không thông báo bảng kê trả lương hoặc có thông báo bảng kê trả lương cho người lao động nhưng không đúng quy định, doanh nghiệp bị phạt từ 05 - 10 triệu đồng (điểm d khoản 1 Điều 17). Trước đây quy định không có quy định xử phạt đối với hành vi này.
Quy định xử phạt này được bổ sung nhằm phù hợp với quy định tại khoản 3 Điều 95 của Bộ luật Lao động 2019, trong đó yêu cầu mỗi lần trả lương, doanh nghiệp phải thông báo bảng kê trả lương cho người lao động, trong đó ghi rõ tiền lương, tiền lương làm thêm giờ, tiền lương làm việc vào ban đêm, nội dung và số tiền bị khấu trừ (nếu có).
Ngoài ra, theo điểm đ khoản 1 Điều 12, doanh nghiệp không trả lương bình đẳng hoặc phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau sẽ bị phạt từ 5 - 10 triệu đồng . Trước đây quy định không quy định xử phạt đối với hành vi này.
Quy định này cũng được nhấn mạnh tại khoản 3 Điều 90 của Bộ luật Lao động 2019: Doanh nghiệp phải bảo đảm trả lương bình đẳng, không phân biệt giới tính đối với người lao động làm công việc có giá trị như nhau.
Trong trường hợp doanh nghiệp không trả hoặc trả không đủ cùng lúc với kỳ trả lương một khoản tiền cho người lao động tương đương với mức người sử dụng lao động đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp theo quy định, thì người lao động còn được hưởng thêm một khoản tiền lãi của số tiền đó tính theo mức lãi suất tiền gửi không kỳ hạn cao nhất của các ngân hàng thương mại nhà nước công bố tại thời điểm xử phạt (điểm b khoản 5 Điều 17).
Trước đây quy định người lao động chỉ được trả đủ khoản tiền tương đương với mức đóng bảo hiểm xã hội bắt buộc, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp.
Đáng chú ý, theo điểm b khoản 3 Điều 28 quy định không cho lao động nữ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi nghỉ 60 phút mỗi ngày (trừ trường hợp hai bên có thỏa thuận khác), ngoài bị xử phạt tiền, doanh nghiệp buộc phải trả tiền lương cho người lao động nữ tương ứng với thời gian mà người lao động không được nghỉ trong thời gian nuôi con dưới 12 tháng tuổi. Trước đây quy định vi phạm quy định này, doanh nghiệp chỉ bị phạt tiền.
HỒNG HẠNH
Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp
2. Quy định về xử lý tài chính doanh nghiệp tái cơ cấu
(LSVN) - Vừa qua, Bộ Tài chính đã ban hành Thông tư 05/2022/TT-BTC hướng dẫn tái cơ cấu doanh nghiệp không đủ điều kiện cổ phần hóa và chuyển nhượng lô cổ phần kèm nợ phải thu của doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ có chức năng mua, bán, xử lý nợ. Trong đó, quy định về xử lý tài chính doanh nghiệp tái cơ cấu.
![]()
Ảnh minh họa.
Cụ thể, về xử lý tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp, doanh nghiệp tái cơ cấu thực hiện xử lý tài chính khi xác định giá trị doanh nghiệp theo quy định tại Nghị định số 126/2017/NĐ-CP, Nghị định số 140/2020/NĐ-CP và Thông tư số 46/2021/TT-BTC ngày 23 tháng 6 năm 2021 của Bộ Tài chính hướng dẫn một số nội dung về xử lý tài chính và xác định giá trị doanh nghiệp khi chuyển doanh nghiệp nhà nước và công ty trách nhiệm hữu hạn một thành viên do doanh nghiệp nhà nước đầu tư 100% vốn điều lệ thành công ty cổ phần (sau đây gọi là Thông tư số 46/2021/TT-BTC) và các văn bản sửa đổi, bổ sung (nếu có).
Xử lý tài chính theo phương án tái cơ cấu
Thông tư quy định rõ nguyên tắc xử lý tài chính:
- Việc xử lý tài chính đối với doanh nghiệp tái cơ cấu phải gắn với phương án tái cơ cấu đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt. Việc giảm trừ nghĩa vụ trả nợ phải gắn liền với việc Công ty Mua bán nợ Việt Nam chuyển nợ, tài sản thành vốn góp tại doanh nghiệp và không làm thay đổi trách nhiệm của tổ chức, cá nhân đã gây ra tổn thất tài chính trước đây.
- Đảm bảo công khai, minh bạch và chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Trường hợp các tổ chức, cá nhân có liên quan khi thực hiện xử lý tài chính không chấp hành đúng chế độ Quy định, gây thất thoát vốn, tài sản thì tổ chức, cá nhân đó chịu trách nhiệm bồi thường và xử lý trách nhiệm theo quy định của pháp luật.
Nội dung xử lý tài chính:
- Tại thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp, căn cứ phương án tái cơ cấu đã được cơ quan đại diện chủ sở hữu phê duyệt: Công ty Mua bán nợ Việt Nam xem xét, giảm trừ nghĩa vụ trả nợ tối đa bằng số âm vốn chủ sở hữu theo Quyết định của cơ quan đại diện chủ sở hữu về xác định giá trị doanh nghiệp trừ đi phần giảm trừ nghĩa vụ trả nợ của các chủ nợ khác (nếu có) và không vượt quá số chênh lệch giữa giá trị số sách khoản nợ mua và giá vốn mua nợ tính đến thời điểm quyết định giảm trừ nghĩa vụ trả nợ; Các chủ nợ khác quyết định giảm trừ nghĩa vụ trả nợ cho doanh nghiệp tái cơ cấu theo thỏa thuận giữa các bên.
- Từ thời điểm xác định giá trị doanh nghiệp đến thời điểm chính thức chuyển thành công ty cổ phần, doanh nghiệp tái cơ cấu tiếp tục xử lý tài chính theo quy định. Trong đó:
+ Lợi nhuận phát sinh được phân phối theo quy định hiện hành đối với doanh nghiệp do Nhà nước nắm giữ 100% vốn điều lệ.
+ Doanh nghiệp thực hiện các nghĩa vụ với ngân sách nhà nước theo quy định hiện hành (nếu có).
+ Trường hợp phát sinh lỗ thì cơ quan đại diện chủ sở hữu chỉ đạo doanh nghiệp tái cơ cấu làm rõ nguyên nhân, trách nhiệm của tập thể, cá nhân có liên quan để có biện pháp khắc phục, bồi thường theo quy định, số lỗ còn lại được Công ty Mua bán nợ Việt Nam và các chủ nợ tham gia tái cơ cấu xem xét, thực hiện tiếp việc giảm trừ một phần nghĩa vụ trả nợ nếu còn nguồn chênh lệch giữa giá vốn mua nợ và giá trị sổ sách khoản nợ.
Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày 01/4/2022.
DUY ANH
Ban hành Kế hoạch Triển khai thực hiện Điều 55, 56, 57 Luật Thi hành án dân sự
3. Chồng có được nghỉ theo chế độ thai sản khi vợ sinh con?
(LSVN) - Vợ tôi sắp sinh, tôi đang đi làm, có đóng bảo hiểm xã hội đầy đủ, vậy tôi có được hưởng các chế độ liên quan đến thai sản và có được nghỉ chăm sóc vợ hay không?
![]()
Ảnh minh họa.
Theo quy định tại Điều 31 Luật Bảo hiểm xã hội (BHXH) năm 2014, người lao động tham gia BHXH bắt buộc được hưởng chế độ thai sản nếu thuộc một trong các trường hợp: Lao động nữ mang thai; Lao động nữ sinh con; Lao động nữ mang thai hộ và người mẹ nhờ mang thai hộ; Người lao động nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi; Lao động nữ đặt vòng tránh thai, triệt sản; Lao động nam đang đóng bảo hiểm xã hội có vợ sinh con.
Ngoài ra người lao động cũng cần đáp ứng thêm điều kiện về thời gian tham gia để được hưởng chế độ thai sản:
- Lao động nữ sinh con, nuôi con nuôi dưới 6 tháng tuổi hay người mang thai hộ và người nhờ mang thai hộ phải đóng BHXH từ đủ 6 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh hoặc nhận nuôi con nuôi.
- Lao động nữ sinh con đã đóng BHXH từ đủ 12 tháng trở lên mà khi mang thai phải nghỉ việc để dưỡng thai theo chỉ định của bác sĩ thì phải đóng BHXH từ đủ 3 tháng trở lên trong 12 tháng trước khi sinh.
Người lao động đáp ứng đủ các điều kiện nêu trên mà chấm dứt hợp đồng lao động hoặc thôi việc trước khi sinh hoặc nhận con nuôi dưới 6 tháng tuổi thì vẫn được hưởng chế độ này.
Về thời gian hưởng chế độ khi vợ sinh con, lao động nam đang đóng BHXH khi vợ sinh con được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản như sau:
- 5 ngày làm việc: Trường hợp thông thường.
- 7 ngày làm việc: Vợ sinh con phải phẫu thuật, sinh con dưới 32 tuần tuổi.
- 10 ngày làm việc: Vợ sinh đôi; từ sinh ba trở lên thì cứ thêm mỗi con được nghỉ thêm 03 ngày làm việc.
- 14 ngày làm việc: Vợ sinh đôi trở lên mà phải phẫu thuật.
Thời gian nghỉ việc này không tính ngày nghỉ lễ, nghỉ tết, ngày nghỉ hàng tuần.
Như vậy, căn cứ theo quy định trên, lao động nam cũng được hưởng các chế độ thai sản và thời gian nghỉ chế độ căn cứ theo quy định trên.
HỒNG HẠNH
Người lao động được nghỉ thế nào dịp Giỗ Tổ Hùng Vương và 30/4 - 01/5?
4. Công nhận lẫn nhau trong ASEAN về dịch vụ kế toán, kiểm toán và cơ chế thực hiện tại Việt Nam
(LSVN) - Công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ là cơ chế cho phép nhà cung cấp dịch vụ của quốc gia này có đủ điều kiện để cung cấp dịch vụ tại quốc gia khác, qua đó góp phần tạo ra sự tự do di chuyển lao động, giải quyết tình trạng thiếu hụt lao động quốc gia, đặc biệt là lao động chất lượng cao. Bài viết phân tích làm rõ cơ chế công nhận lẫn nhau về dịch vụ kế toán, kiểm toán của ASEAN và thực tiễn thực hiện tại Việt Nam.

Khái niệm về công nhận lẫn nhau
Cùng với hoạt động tự do hóa thương mại dịch vụ, các quốc gia luôn có nhu cầu hợp tác để tạo ra một cơ chế phù hợp cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể tiếp cận được với thị trường dịch vụ của quốc gia mình, đặc biệt là đối với các lĩnh vực ngành nghề có điều kiện, chịu sự quản lý của nhà nước. Công nhận lẫn nhau là cơ chế được các quốc gia trên thế giới cũng như ASEAN xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu này. Công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ được hiểu là hoạt động của quốc gia này công nhận các điều kiện để được cung cấp một dịch vụ nhất định theo quy định của quốc gia khác nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ và nhà cung cấp dịch vụ của quốc gia được công nhận tiếp cận với thị trường dịch vụ của quốc gia công nhận. Các quốc gia thường thực hiện các hoạt động công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ thông qua việc ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau (Mutual Recognition Agreement - MRA) dưới hình thức song phương hoặc đa phương(1). Các MRA thường chứa đựng những điều khoản hỗ trợ cho các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài có thể tiếp cận thị trường, giảm bớt thời gian, chi phí cần thiết để có được sự phê chuẩn cho các sản phẩm dịch vụ hoặc chứng nhận đủ trình độ chuyên môn cho các nhà cung cấp dịch vụ để thực hiện cung cấp dịch vụ tại các quốc gia ký kết thoả thuận(2). Các MRA sẽ thiết lập những điều khoản về yêu cầu, thủ tục xác minh các điều kiện được phép hành nghề có tính tương đương tại các nước tham gia ký kết để bảo đảm rằng những dịch vụ được cung cấp cho người tiêu dùng sẽ đáp ứng các điều kiện tối thiểu về chất lượng dịch vụ cung cấp tại quốc gia tiếp nhận dịch vụ.
Việc ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau trong các ngành nghề cung cấp dịch vụ sẽ mang lại nhiều lợi ích cho các quốc gia. Có thể thấy được vai trò của công nhận lẫn nhau trong thương mại dịch vụ ở các điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, giúp thúc đẩy hoạt động tự do hóa thương mại dịch vụ giữa các quốc gia. Các thỏa thuận công nhận lẫn nhau cho phép các văn bằng, chứng chỉ của những nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp được công nhận bởi cơ quan có thẩm quyền nước sở tại của họ cũng được công nhận tại các quốc gia thành viên khác. Điều này sẽ góp phần cắt giảm chi phí, thời gian, công sức của các nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài và của cả cơ quan quản lý ngành nghề của quốc gia tiếp nhận dịch vụ.
Thứ hai, góp phần nâng cao chất lượng dịch vụ và chất lượng nhà cung cấp dịch vụ tại các quốc gia tham gia ký kết. Các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ nước ngoài thường lựa chọn giải pháp hợp tác với các công ty trong nước hoặc các chuyên viên trong nước trong bước đầu phát triển công ty của mình tại một thị trường mới và chưa có nhiều kinh nghiệm. Vì vậy, việc ký kết các thỏa thuận công nhận lẫn nhau có thể góp phần thiếp lập các hình thức hợp tác chặt chẽ giữa những chuyên viên đến từ các nước đối tác. Điều này mang lại lợi ích rất lớn cho các quốc gia thực hiện ký kết các MRA, đặc biệt là đối với các quốc gia đang phát triển sẽ có cơ hội giao lưu, trao đổi, nhận được sự hỗ trợ từ các quốc gia phát triển.
Thứ ba, các thỏa thuận công nhận lẫn nhau có thể được sử dụng như một công cụ hữu ích để giải quyết sự thiếu hụt nguồn nhân lực chất lượng cao trong thị trường cung cấp dịch vụ nội địa, đồng thời tăng cường sự cạnh tranh và đổi mới, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ở những thị trường đã trở nên bão hòa và trì trệ. Việc tạo điều kiện thuận lợi cho nhà cung cấp dịch vụ nước ngoài thông qua ký kết các MRA sẽ cung cấp nguồn nhân lực chất lượng tốt, bổ sung cho các quốc gia đang thiếu hụt nhân lực trong các lĩnh vực cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp trong nước thông qua việc tuyển dụng nhà cung cấp dịch vụ chuyên nghiệp từ các quốc gia khác.
Công nhận lẫn nhau trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán trong ASEAN
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nói chung và chất lượng lao động có kỹ năng nghề nói riêng mang lại lợi ích cho tất cả các quốc gia, đặc biệt trong nền kinh tế tri thức hiện nay. ASEAN cũng không nằm ngoài xu hướng đó. Để nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tận dụng tối đa nguồn nhân lực chất lượng cao, tạo đà cho sự phát triển của toàn khối, ASEAN chủ trương hài hòa hóa các tiêu chuẩn kỹ năng, năng lực giữa các quốc gia thành viên, tiến tới công nhận lẫn nhau về trình độ, chứng chỉ, văn bằng, kinh nghiệm… nhằm thúc đẩy phát triển kỹ năng nghề, tạo thuận lợi cho việc tự do di chuyển lao động khu vực. Thỏa thuận công nhận lẫn nhau là công cụ chính để di chuyển lao động trong khuôn khổ AEC. Những thỏa thuận này giúp những người có bằng cấp, chứng chỉ, kỹ năng, kinh nghiệm… phù hợp tại một quốc gia thành viên được công nhận tại các quốc gia thành viên khác trong khu vực ASEAN, từ đó tạo điều kiện để họ có thể làm việc tại các quốc gia này. Đến nay, đã có thỏa thuận trong 8 lĩnh vực nghề được ký kết trong ASEAN, bao gồm: dịch vụ kỹ thuật (12/2005); dịch vụ điều dưỡng (12/2006); dịch vụ kiến trúc, dịch vụ khảo sát (11/2007); y khoa, nha khoa và dịch vụ kế toán, kiểm toán (02/2009); du lịch (11/2012). ASEAN hiện nay cho phép tự do di chuyển đối với lao động lành nghề, chứ chưa cho phép tự do di chuyển đối với tất cả các loại hình lao động như Liên minh châu Âu (EU) bởi những khác biệt quá lớn về sự phát triển kinh tế, thu nhập, quy mô dân số, diện tích… của các quốc gia thành viên.
MRA đối với lĩnh vực kế toán, kiểm toán hình thành từ tháng 02/2009 và sau đó được sửa đổi và ký chính thức vào ngày 13/11/2014 tại Nay Pyi Taw, Myanmar(3). MRA trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán được xây dựng nhằm:
- Thúc đẩy chất lượng và hiệu quả của các tiêu chuẩn nghề kế toán, kiểm toán trong ASEAN;
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán giữa các quốc gia thành viên ASEAN;
- Tôn trọng và tuân thủ pháp luật của các quốc gia thành viên ASEAN trên cơ sở bảo đảm tuân thủ các tiêu chuẩn và yêu cầu của nghề kế toán, kiểm toán trong từng quốc gia thành viên ASEAN;
- Bảo đảm nguyên tắc khách quan, công bằng và có đi có lại trong quá trình xây dựng và thực thi MRA(4).
Dịch vụ kế toán, kiểm toán thuộc phạm vi điều chỉnh của MRA là các dịch vụ được đề cập đến trong Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm (CPC) của Liên hợp quốc cũng như các dịch vụ khác liên quan nếu được đồng thuận giữa các quốc gia thành viên ASEAN qua đàm phán song phương hoặc đa phương(5). MRA này cũng quy định loại trừ việc áp dụng đối với dịch vụ ký báo cáo kiểm toán độc lập và các dịch vụ yêu cầu cấp phép ở các quốc gia thành viên ASEAN. Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm được MRA đề cập là một hệ thống phân loại sản phẩm hoàn chỉnh của Liên hợp quốc, bao gồm tất cả hàng hóa và dịch vụ. Hệ thống này như một tiêu chuẩn quốc tế để tổng hợp và thống kê tất cả các loại dữ liệu về chi tiết sản phẩm, bao gồm số liệu thống kê về sản xuất công nghiệp, thương mại hàng hóa trong và ngoài nước, thương mại dịch vụ quốc tế, cán cân thanh toán, tiêu dùng, thống kê giá cả và các dữ liệu khác. Nó cung cấp một khuôn khổ để so sánh quốc tế và thúc đẩy sự hài hòa của các loại thống kê khác nhau liên quan đến hàng hóa và dịch vụ. Dịch vụ kế toán, kiểm toán được đề cập trong MRA này thuộc nhóm 862 (dịch vụ kế toán, kiểm toán và sổ sách kế toán) của Hệ thống phân loại sản phẩm trung tâm tạm thời Liên hợp quốc, được xuất bản vào năm 1991. Hiện nay đã có phiên bản CPC 2.1 được phát hành vào năm 2015.
ASEAN cũng đã thành lập Ủy ban Điều phối kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp ASEAN để thực hiện MRA này. Mỗi nước ASEAN cũng thành lập một Ủy ban giám sát về dịch vụ kế toán tại nước mình để thực hiện quy trình đánh giá và đăng ký cấp phép kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp đủ điều kiện theo ASEAN.
Kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp thuộc đối tượng công nhận lẫn nhau đề cập trong MRA là thể nhân mang quốc tịch một quốc gia thành viên ASEAN có chuyên môn, đạo đức, hợp pháp và được cơ quan quản lý ngành nghề quốc gia thừa nhận, cấp phép đủ điều kiện để hành nghề kế toán chuyên nghiệp độc lập. Quy trình để một kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp tại một quốc gia thành viên đăng ký để được hành nghề tại một quốc gia thành viên khác trong ASEAN được quy định như sau:
+ Bước 1: Kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp đủ điều kiện về trình độ và kinh nghiệm theo quy định trong MRA nộp đơn đăng ký lên Ủy ban giám sát về dịch vụ kế toán, kiểm toán của nước mình để xin cấp chứng nhận kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp đủ điều kiện theo ASEAN (ACPA).
+ Bước 2: Uỷ ban giám sát xem xét đơn đăng ký và lập Bản đánh giá, sau đó gửi lên Ủy ban điều phối kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp ASEAN để quyết định cấp phép hay không cấp phép chứng nhận ACPA.
+ Bước 3: Kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp đã được cấp chứng nhận ACPA sẽ đủ điều kiện để đăng ký với cơ quan có thẩm quyền quản lý ngành nghề kế toán, kiểm toán ở một nước ASEAN khác để được cấp phép là kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp nước ngoài có đăng ký (RFPA) tại nước đó, nhưng phải tuân theo các quy định và pháp luật liên quan của nước đó.
+ Bước 4: Kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp có RFPA được phép hành nghề nhưng phải phối hợp với kế toán, kiểm toán chuyên nghiệp của nước sở tại.
Cơ chế thực hiện tại Việt Nam
Trên cơ sở Thỏa thuận công nhận lẫn nhau đối với dịch vụ kế toán, kiểm toán năm 2014, Bộ Tài chính ban hành Quyết định số 1529/QĐ-BTC ngày 09/8/2021 về Quy chế đánh giá đối với kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN. Quyết định số 1529/QĐ-BTC cùng với Luật Kế toán, Luật Kiểm toán độc lập, Nghị định số 174/2016/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Kế toán đã tạo ra khung khổ pháp lý thuận lợi cho việc di chuyển của các chuyên gia cung cấp dịch vụ kế toán, kiểm toán giữa các nước thành viên ASEAN. Quy chế đánh giá đối với kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN được xây dựng dựa trên các cam kết của Việt Nam tại Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ kế toán, kiểm toán ASEAN. Cụ thể như sau:
Tiêu chuẩn để được công nhận là kế toán, kiểm toán viên ASEAN (ASEAN CPA)
Để một kế toán, kiểm toán viên đang hành nghề tại Việt Nam có thể được công nhận là kế toán, kiểm toán viên đủ tiêu chuẩn ASEAN phải đáp ứng được các điều kiện:
- Có chứng chỉ kế toán, kiểm toán viên Việt Nam;
- Có thời gian công tác thực tế về kế toán, kiểm toán, tài chính ít nhất ba (3) năm trong giai đoạn năm (5) năm liên tục kể từ khi được cấp bằng tốt nghiệp đại học tới thời điểm nộp đơn đăng ký công nhận là ASEAN CPA. Để chứng minh về thời gian thực tế làm kế toán, kiểm toán, tài chính, kế toán, kiểm toán viên phải có giấy xác nhận thời gian công tác thực tế do người đại diện theo pháp luật hoặc người được ủy quyền của người đại diện theo pháp luật của cơ quan, đơn vị nơi mình đã thực tế làm việc ký xác nhận.
- Tuân thủ và bảo đảm chương trình cập nhật kiến thức (CPD). Mục tiêu của chương trình cập nhật kiến thức là tăng cường nhu cầu học tập lâu dài và cung cấp nền tảng kiến thức, qua đó kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp có thể duy trì và nâng cao trình độ chuyên môn trong việc thực hiện công việc. Mỗi kế toán, kiểm toán viên khi nộp hồ sơ đăng ký công nhận là ASEAN CPA phải bảo đảm các quy định hiện hành về yêu cầu giờ cập nhật kiến thức như áp dụng đối với người đăng ký hành nghề kế toán, kiểm toán tại Việt Nam. Chậm nhất là ngày 31/8 hàng năm, để duy trì chức danh ASEAN CPA thì mỗi ASEAN CPA phải bảo đảm quy định hiện hành về giờ cập nhật kiến thức và nộp báo cáo duy trì chức danh ASEAN CPA hàng năm cho Bộ Tài chính theo quy định.
- Không vi phạm nghiêm trọng các quy định về chuyên môn và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán của Việt Nam và quốc tế. Tất cả các ứng viên đăng ký công nhận là ASEAN CPA và các ASEAN CPA đều phải tuân thủ chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán của Việt Nam và quốc tế; tuân thủ các quy định về đạo đức, hành vi do Việt Nam và các nước khác nơi ASEAN CPA hành nghề đã lập ra và có hiệu lực. ASEAN CPA sẽ phải chịu trách nhiệm cá nhân đối với các hoạt động trong quá trình hành nghề kế toán, kiểm toán. Trong quá trình hành nghề kế toán, kiểm toán, ứng viên không được vi phạm nghiêm trọng các quy định về chuyên môn và chuẩn mực đạo đức nghề nghiệp kế toán, kiểm toán ở Việt Nam hoặc ở nước khác.
Trường hợp cần làm rõ các thông tin trong hồ sơ đăng ký công nhận là ASEAN CPA, Ủy ban giám sát Việt Nam có quyền yêu cầu ứng viên giải trình hoặc cung cấp tài liệu (sổ bảo hiểm xã hội, tài liệu khác) phục vụ cho việc kiểm tra, đối chiếu, xác minh quá trình làm việc và các thông tin khác trong hồ sơ đăng ký công nhận là ASEAN CPA.
Hồ sơ và quy trình đăng ký để được công nhận là ASEAN CPA
Hồ sơ đăng ký công nhận là ASEAN CPA gồm: đơn đăng ký công nhận là kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN; bản sao chứng chỉ kiểm toán viên Việt Nam hoặc bản sao chứng chỉ kế toán viên Việt Nam; giấy xác nhận thời gian công tác thực tế về kế toán, kiểm toán, tài chính; tài liệu chứng minh giờ cập nhật kiến thức; 2 ảnh màu cỡ 3x4cm được chụp trên nền trắng trong thời hạn không quá sáu (6) tháng tính đến ngày nộp hồ sơ đăng ký công nhận là ASEAN CPA.
Hồ sơ đăng ký được lập nộp cho Ủy ban giám sát của Việt Nam thực hiện Thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau về dịch vụ kế toán, kiểm toán trong ASEAN (gọi tắt là Ủy ban giám sát của Việt Nam) do Bộ Tài chính quyết định thành lập. Ủy ban giám sát của Việt Nam thay mặt Ủy ban điều phối kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN tiến hành tiếp nhận hồ sơ và thực hiện quy trình đăng ký theo quy định của Thỏa thuận. Ứng viên sẽ được thông báo bằng văn bản về kết quả chấp thuận của Ủy ban điều phối kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN.
Giấy chứng nhận ASEAN CPA sẽ được ACPACC cấp cho ứng viên có đầy đủ và bảo đảm tiêu chuẩn, điều kiện theo quy định.
Để tiếp tục được công nhận chức danh ASEAN CPA, ứng viên phải luôn đáp ứng điều kiện của ASEAN CPA, bao gồm cả điều kiện về cập nhật kiến thức theo quy định.
Bên cạnh đó, Việt Nam cũng quy định một ASEAN CPA đến từ một nước thành viên ASEAN khác tham gia Thỏa thuận phải đăng ký với Bộ Tài chính để được làm việc với tư cách là kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp nước ngoài có đăng ký tại Việt Nam. Sau khi được chấp thuận, kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp nước ngoài có đăng ký không được hành nghề độc lập mà phải làm việc trong doanh nghiệp dịch vụ kế toán, kiểm toán; chi nhánh doanh nghiệp kế toán, kiểm toán nước ngoài tại Việt Nam hoặc các doanh nghiệp, tổ chức khác có chấp nhận RFPA; không được ký báo cáo kiểm toán, báo cáo về dịch vụ bảo đảm khác và các dịch vụ liên quan (dịch vụ phi bảo đảm) và các dịch vụ kế toán, kiểm toán đòi hỏi phải có giấy phép hành nghề trừ khi người đó đã được cấp giấy phép hành nghề bởi Bộ Tài chính Việt Nam theo quy định của Luật Kế toán hoặc Luật Kiểm toán độc lập. Bộ Tài chính Việt Nam sẽ giám sát và đánh giá hoạt động thực tiễn chuyên môn của kế toán, kiểm toán viên chuyên nghiệp nước ngoài có đăng ký để bảo đảm tuân thủ Thỏa thuận. Bộ Tài chính Việt Nam trong phạm vi quyền hạn của mình cũng có thể ban hành những quy định không đi ngược lại hoặc làm thay đổi bất cứ điều khoản nào của Thỏa thuận nhằm mục tiêu duy trì các tiêu chuẩn cao về hành nghề và đạo đức trong lĩnh vực kế toán, kiểm toán. Đây cũng là những quy định phù hợp với Thỏa thuận công nhận lẫn nhau về dịch vụ kế toán, kiểm toán ASEAN mà Việt Nam là thành viên(6).
(1) Các quốc gia hoàn toàn có thể thực hiện hành vi đơn phương công nhận các bằng cấp, chứng chỉ hành nghề,... của quốc gia khác. Trong phạm vi bài viết này chỉ đề cập đến vấn đề công nhận lẫn nhau giữa các quốc gia.
(2) Shintaro Hamanaka and Sufian Jusoh, The Emerging ASEAN Approach to Mutual Recognition: A Comparison with Europe, Trans-Tasman, and North America, IDE Discussion Paper, No.618, http://www.ide.go.jp/English/Publish/Download/Dp/pdf/618.pdf, 20/5/2019.
(3) Nguồn: https://aecvcci.vn/tin-tuc-n1637/hiep-dinh-asean-ve-di-chuyen-the-nhan-va-cac-thoa-thuan-thua-nhan-lan-nhau-mnp.htm, 21/01/2022.
(4) Xem: Điều 1 MRA về dịch vụ kế toán, kiểm toán. Nguồn: https://aecvcci.vn/Uploaded/Users/Admin/files/2018/11/ASEAN%20Mutual%20Recognition%20Arrangement%20Framework%20on%20Accountancy%20Services.pdf, 23/01/2022.
(5) Xem: Điều 2 MRA về dịch vụ kế toán, kiểm toán. Nguồn: https://aecvcci.vn/Uploaded/Users/Admin/files/2018/11/ASEAN%20Mutual%20Recognition%20Arrangement%20Framework%20on%20Accountancy%20Services.pdf, 23/01/2022.
(6) Điều 8 Quyết định số 1529/QĐ-BTC về Ban hành quy chế đánh giá đối với kế toán viên chuyên nghiệp tiêu chuẩn ASEAN.
TS VŨ NGỌC DƯƠNG
KHOA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ, TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI
Ban hành Kế hoạch Triển khai thực hiện Điều 55, 56, 57 Luật Thi hành án dân sự
5.

