TRỰC

20/06/2022 07:12 |

(LSVN) -

 

1. Thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong vụ án hôn nhân và gia đình

(LSVN) - Đây là một trong những đề xuất đáng chú ý tại dự thảo Nghị quyết hướng dẫn một số vấn đề về giải quyết tranh chấp hôn nhân và gia đình mà Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân Tối cao đang lấy ý kiến của nhân dân.

Cụ thể, tại Điều 14 dự thảo Nghị quyết quy định về thẩm quyền giải quyết của Tòa án trong vụ án hôn nhân và gia đình Theo đó, vụ án hôn nhân và gia đình mà nguyên đơn và bị đơn đều có cùng nơi cư trú hoặc có nơi cư trú khác nhau nhưng tài sản tranh chấp là bất động sản ở một nơi khác thì thì thẩm quyền giải quyết của Tòa án được xác định như sau:

- Vụ án ly hôn, tranh chấp về nuôi con, chia tài sản khi ly hôn mà nguyên đơn và bị đơn đều cư trú ở hai nơi khác nhau, tài sản là bất động sản lại ở nơi khác thì Tòa án có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc. 

- Trường hợp các đương sự thỏa thuận với nhau bằng văn bản yêu cầu Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn thì Tòa án nơi cư trú, làm việc của nguyên đơn có thẩm quyền giải quyết.

Trường hợp vụ án tranh chấp chia tài sản là bất động sản sau khi ly hôn mà nơi cư trú của bị đơn và nơi có bất động sản tranh chấp khác nhau thì Tòa án  có thẩm quyền giải quyết là Tòa án nơi bị đơn cư trú, làm việc theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 39 của Bộ luật Tố tụng dân sự.

Về việc cung cấp địa chỉ của nguyên đơn, dự thảo quy định trường hợp người Việt Nam ở trong nước xin ly hôn với người Việt Nam ở nước ngoài và chỉ cung cấp được địa chỉ nơi cư trú cuối cùng ở Việt Nam của bị đơn mà không cung cấp được địa chỉ của bị đơn ở nước ngoài, nếu thông qua thân nhân của bị đơn mà có căn cứ bị đơn vẫn có liên hệ với thân nhân ở trong nước nhưng thân nhân của họ không cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết để gửi lời khai về cho Tòa án thì coi đây là trường hợp bị đơn cố tình giấu địa chỉ, từ chối khai báo, từ chối cung cấp những tài liệu cần thiết. 

Nếu Tòa án đã yêu cầu đến lần thứ hai mà thân nhân của họ cũng không chịu cung cấp địa chỉ, tin tức của bị đơn cho Tòa án cũng như không chịu thực hiện yêu cầu của Tòa án thông báo cho bị đơn biết thì Tòa án đưa vụ án ra xét xử vắng mặt bị đơn theo thủ tục chung. 

TIẾN HƯNG

Xem xét tính mức lương tối thiểu giờ có cộng thêm hệ số bổ sung

2. Mức xử phạt đối với hành vi vi phạm các quy định về thực hiện nghĩa vụ quân sự

(LSVN) – Đây là một trong những nội dung đáng chú ý Nghị định số 37/2022/NĐ-CP ngày 06/6/2022 của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các Nghị định quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu; quản lý, bảo vệ biên giới quốc gia; trên các vùng biển, đảo và thềm lục địa của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Cụ thể, Nghị định số 37/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung Điều 9 Nghị định số 120/2013/NĐ-CP ngày 09/10/2013 của Chính phủ quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực quốc phòng, cơ yếu.

Theo đó, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 15.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

- Báo cáo không đầy đủ danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi; báo cáo không đầy đủ số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định;

- Cố ý báo cáo không chính xác danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân trong độ tuổi thực hiện nghĩa vụ quân sự từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi; báo cáo không chính xác số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định.

Phạt tiền từ 15.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:

- Không báo cáo danh sách công dân nam đủ 17 tuổi trong năm, công dân nữ có ngành nghề chuyên môn phù hợp với yêu cầu của Quân đội nhân dân từ đủ 18 tuổi đến hết 40 tuổi;

- Không báo cáo số lượng quân nhân dự bị và người sẵn sàng nhập ngũ ở cơ quan, tổ chức mình theo quy định.

Phạt tiền từ 20.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng đối với hành vi không tiếp nhận trở lại trường học; không tiếp nhận và bố trí việc làm cho hạ sĩ quan, binh sĩ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cơ quan, tổ chức cũ làm việc.

Biện pháp khắc phục hậu quả: Buộc thực hiện việc báo cáo theo quy định đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này. Buộc tiếp nhận trở lại trường học; tiếp nhận và bố trí việc làm cho hạ sĩ quan, binh sĩ đã hoàn thành nghĩa vụ quân sự trở về cơ quan, tổ chức cũ làm việc đối với hành vi vi phạm quy định tại khoản 3 Điều này.

DUY ANH

Xem xét việc rút quyết định truy tố hoặc kết luận về tội nhẹ hơn tại phiên tòa

 

 

SÁNG

1. Nghệ sĩ cần phải biết bảo vệ thanh danh của mình

(LSVN) - ​Mới đây, cơ quan CSĐT Công an quận 8 (TP. HCM) đã tống đạt quyết định khởi tố vụ án, khởi tố bị can, lệnh bắt tạm giam đối với Trần Hữu Tín (sinh năm 1987, diễn viên Hữu Tín) để điều tra về hành vi tàng trữ trái phép chất ma túy và tổ chức sử dụng trái phép chất ma túy. Điều này khiến khán giả yêu quý diễn viên này cảm thấy thất vọng và tiếc nuối.

Khởi tố, bắt giam diễn viên hài Hữu Tín.

​Có thể nói, nghệ sĩ là một nghề đặc thù, là người của công chúng, họ hoạt động nghệ thuật vì công chúng. Phần thưởng của họ là niềm tin yêu của công chúng và kèm theo đó là nguồn thu nhập đáng kể mang lại từ hoạt động nghệ thuật.

Nhiều nghệ sĩ họ yêu quý nghệ thuật không phải vì sự nổi tiếng và nguồn thu nhập mang lại, mà mục đích lớn nhất của họ là hoạt động nghệ thuật vì công chúng. Do đó, mọi hành vi, dù tốt hay xấu của các nghệ sĩ đều có tác động và ảnh hưởng rất lớn đến công chúng. Cho nên, nhiều nghệ sỹ họ giữ gìn hình ảnh, uy tín và sự mến mộ của khán giả bằng cách gương mẫu, có ý thức và trách nhiệm với nghệ thuật, có đạo đức tốt, có lối sống lành mạnh, luôn hành xử có văn hóa và ứng xử chuẩn mực với công chúng,…

​Tuy nhiên, bên cạnh đó, vẫn có nhiều nghệ sĩ mới nổi danh, khi mà tên tuổi của họ được công chúng yêu mến chút ít thì tự chọn cho mình lối sống buông thả, thác loạn, vi phạm pháp luật và thậm chí còn liên quan đến ma tuý. Do các nghệ sĩ này được một bộ phận khán giả yêu mến nên sẽ có tác động tiêu cực đến đời sống xã hội, đặc biệt là đến nhận thức và hành động của giới trẻ, quan ngại hơn là giới trẻ có thể "bắt chước" và tập làm theo hành vi thiếu chuẩn mực hoặc vi phạm pháp luật đó.

​Thực tế thời gian qua, rất nhiều nghệ sĩ hoạt động nghệ thuật trong và ngoài nước có hành vi vi phạm pháp luật, khi chấp hành xong hình phạt thì vẫn tiếp tục hoạt động biểu diễn nghệ thuật những trong số đó, rất nhiều người không thành công công và phải đổi nghề.

​Chính vì vậy, các nghệ sĩ nên có suy nghĩ tích cực, là tấm gương trong sáng, có lối sống mẫu mực, ứng xử có văn hóa, phải luôn xứng đáng với công chúng. Hơn ai hết, các nghệ sĩ phải nhận thức và đề cao trách nhiệm nghề nghiệp của mình, phải tự khắt khe để rèn luyện bản thân mình, không nên có lối sống buông thả, vi phạm pháp luật hoặc phát ngôn, suy nghĩ lệch lạc, sẽ tác động rất tiêu cực đến đời sống xã hội.

​Ngoài ra, khi nghệ sĩ có những hành vi vi phạm pháp luật, ứng xử thiếu chuẩn mực, thiếu đứng đắn,… nhất là trên mạng xã hội thì các cơ quan quan lý nhà nước phải can thiệp, nhắc nhở hoặc xử lý (nếu có hành vi vi phạm pháp luật) để cảnh báo và giáo dục các nghệ sĩ này để họ không đi quá xa. Qua đó, sẽ giúp nghệ sĩ thay đổi để bảo vệ thanh danh và niềm yêu mến của công chúng đối với mình.

ĐỖ VĂN NHÂN

Cần tăng cường công tác quản lý đối với nghệ sĩ sử dụng trái phép chất ma túy

2. Luật sư và Báo chí: Người bạn đồng hành vì công lý

(LSVN) - Thực tiễn đã minh chứng mối liên hệ mật thiết giữa nghề Luật sư và nghề Báo, đó vừa là quan hệ đối tác, cùng phản biện, phản biện đối nhau, và cùng hướng đến mục tiêu bảo vệ con người, bảo vệ công lý. Không quá khi cho rằng Luật sư và Báo chí là người bạn đồng hành vì công lý. 

Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang chúc mừng Tạp chí Luật sư Việt Nam.

Thứ nhất, nghề Luật sư cần Báo chí.

Người Luật sư và nghề Luật sư có nhu cầu sử dụng hoạt động Báo chí để truyền thông về con người, công việc, nghề nghiệp của mình đến với các cơ quan chức năng, tổ chức, cá nhân nói riêng và toàn thể xã hội nói chung. Điều đó đặc biệt cần thiết và quan trọng đối với nghề Luật sư trong giai đoạn hiện nay khi không gian mạng, đời sống trên không gian mạng đã trở thành xã hội thực, đời sống thực. 

Để phục vụ hoạt động nghề nghiệp, cá nhân Luật sư cần đưa ra xã hội các nguồn thông tin để quảng bá cho mình và Báo chí luôn là cách thức thông tin, truyền thông ra xã hội nhanh nhất, hiệu quả nhất, sâu, rộng nhất.

Trong các vụ án, vụ việc cụ thể, người Luật sư đôi khi cần sự hỗ trợ, đồng hành của cơ quan báo chí để bảo vệ khách hàng, nhất là với các vụ án có dấu hiệu oan sai, bỏ lọt tội phạm,… Trong những vụ án đó, Luật sư cần thêm sức mạnh, sự ủng hộ của dư luận xã hội khi tác nghiệp, thông qua hoạt động của cơ quan Báo chí. Ngược lại, nhiều khi Luật sư không mong muốn cơ quan Báo chí đưa tin, bài về khách hàng và cụ việc mình đang thực hiện. Tính độc lập, khách quan cùng yêu cầu chỉ tuân theo pháp luật trong hoạt động tư pháp đặt ra câu hỏi có nên sử dụng Báo chí và sức mạnh của Báo chí đồng hành giải quyết một vụ việc cụ thể hay không đang là vấn đề có quan điểm trái ngược trong giới Luật sư nhưng thực tế trong các vụ án lớn, phức tạp người Luật sư và Báo chí hiện vẫn đang đồng hành cùng nhau.

Người Luật sư có thiên chức bảo vệ kẻ yếu, nghề Luật sư có tính phản biện và phản biện trực tiếp rất cao, thậm chí dẫn đến sự đối đầu trực tiếp với các chủ thể có quyền lợi ích đối lập với khách hàng trong đó có nhiều chủ thể có quyền lực, có tiềm lực lớn trong xã hội. Điều đó dẫn đến những rủi ro, áp lực thậm chí cả sự đe dọa, bị tấn công về thể chất, tinh thần đối với người Luật sư khi hành nghề… Do vậy, chính Luật sư cũng cần Báo chí hỗ trợ, bảo vệ cho mình khi tác nghiệp. 

Trên thực tế các quyền tư pháp trong đó có quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư không phải lúc nào cũng được tôn trọng, bảo đảm. Sự đồng hành, vào cuộc của Cơ quan Báo chí, ngôn luận góp phần quan trọng đảm bảo các quyền tư pháp nói chung trong đó có quyền hành nghề hợp pháp của Luật sư được đảm bảo.

Nghề Luật sư có chức năng bảo vệ quyền con người, bảo vệ công lý, nghề Luật sư rất cần sự đồng hành, hỗ trợ của Cơ quan Báo chí để cùng đồng hành trên con đường xây dựng và phát triển xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Thứ hai, nghề Báo cần Luật sư.

Nghề Luật sư và người Luật sư không chỉ là nguồn cung cấp thông tin mà còn là đối tác, chủ đề quan trọng để báo chí khai thác.

Hiện nay với gần 17 nghìn thành viên, nghề Luật sư ở Việt Nam đã thâm nhập, có mặt trong tất cả các lĩnh vực của cuộc sống xã hội. Với tính chất đặc thù của nghề nghiệp, người Luật sư có thể cung cấp cho Báo chí những thông tin tức thời, thông tin nóng, đa dạng về mọi mặt của đời sống xã hội.

Là nghề có tính chất chuyên môn sâu, giải quyết tận cùng vấn đề người Luật sư cung cấp cho Báo chí các thông tin chuyên ngành, chuyên sâu trong các khác nhau của cuộc sống từ chứng khoán, đất đai, tiền bạc, tình cảm, tham ô, tham nhũng, mức án, giam - treo, các sự kiện về chính trị, kinh tế, xã hội,…

Với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình người Luật sư được tiếp cận các nguồn thông tin, chứng cứ, tài liệu có tính chất nhạy cảm, riêng tư, bí mật. Người Luật sư có thể cung cấp các thông tin này cho Báo chí khi đó không phải là tài liệu mật và việc cung cấp thông tin đó không xâm phạm quyền và lợi ích của tổ chức, cá nhân cùng sự cho phép của các bên liên quan.

Trong xã hội có nhiều nhóm chủ thể cùng nắm giữ nguồn thông tin, nhưng nghề Luật sư dễ dàng cung cấp thông tin cho Báo chí hơn so với cán bộ, công chức, đảng viên,… bởi quy định nội bộ của các ngành, nghề về chế độ cung cấp thông tin, chế độ phát ngôn, đại diện,…

Chính bản thân người Luật sư, nghề Luật sư với các câu chuyện về uy tín các nhân, thương hiệu của Luật sư, chuyện nghề, chuyện đời của Luật sư, ứng xử của Luật sư đã là chủ đề có sức thu hút với xã hội và Báo chí mong muốn khai thác.

Thứ ba, Báo chí và Luật sư có sự đồng cảm trước các vấn đề của xã hội.

Trên thực tế có nhiều ngành, nghề cũng cần Báo chí và ngược lại Báo chí cũng cần các ngành, nghề đó. Nhưng tại sao giữa Luật sư và Báo chí lại có mối quan hệ mật thiết, có lẽ phải kể đến sự đồng cảm, đồng điệu thậm chí là sự tương đồng giữa người Luật sư và người làm Báo.

Luật sư và Báo chí cùng có thiên chức và xu hướng “bảo vệ kẻ yếu”, cùng có tôn chỉ, mục đích bảo vệ công lý, công bằng. Đặc biệt, đây là hai trong số rất ít nghề thực hiện tốt chức năng phản biện xã hội và thậm chí là phản biện trực tiếp về các vấn đề trong xã hội. Người Luật sư khi đưa ra quan điểm đồng thuận hay không đồng thuận với các quyết định hành chính, hành vi hành chính, phản đối, đề nghị với các hoạt động của Cơ quan và người tiến hành Tố tụng mình cho rằng chưa phù hợp… Báo chí với các tin bài, phóng sự, điều tra làm rõ các góc khuất của cuộc sống… Đây chính là những biểu hiện của hoạt động phản biện xã hội trực tiếp, mạnh mẽ của nghề Luật sư và Nghề làm Báo. 

Bảo vệ công lý là chức năng, nhiệm vụ của cả nghề Luật sư và nghề Báo. Có lẽ vì mối liên hệ mật thiết, sự đồng cảm, đồng điệu trong tâm hồn mà hiện nay nghề Luật sư và nghề Báo không những đã tạo lập mối liên hệ công tác mà đã và đang chuyển hóa, giao thoa cả về lý trí, tình cảm, cùng nhận thức. Mà đỉnh cao  của sự giao thoa đó là hiện có nhiều phóng viên, nhà báo đang học tập và chuyển dần sang kết hợp hành nghề Luật sư và ngược lại. Luật sư vừa là Nhà báo và Nhà báo vừa là Luật sư đang trở thành một hiện tượng, xu thế hiện nay.

Thứ tư, Luật sư được quyền chủ động quan hệ với cơ quan Báo chí và quảng cáo.

Xuất phát từ tầm quan trọng cùng mối liên hệ mật thiết giữa Luật sư và Báo chí, Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam đã giành Quy tắc 31 và Quy tắc 32 quy định về quan hệ của Luật sư với Cơ quan truyền thông và quảng cáo. Theo đó, Bộ Quy tắc khẳng định người Luật sư có quyền chủ động trong quan hệ với Cơ quan Báo chí, và thực hiện Quảng cáo; Quyền chủ động cấp thông tin cho Báo chí (QT 31.1); Quyền chủ động viết bài, sử dụng mạng xã hội… (QT 31.3); Quyền chủ động thực hiện các hoạt động, loại hình quảng cáo theo quy định (QT 32).

Thứ năm, yêu cầu đối với Luật sư trong quan hệ với cơ quan Báo chí.

Pháp luật, Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam cho phép và không hạn chế quyền của Luật sư trong tiếp cận, sử dụng và phối hợp Cơ quan Báo chí. Nhưng cũng đặt ra các yêu cầu đối với Luật sư khi quan hệ với cơ quan Báo chí như yêu cầu về tuân thủ quy định Luật Luật sư, Luật Báo chí và các ngành luật khác có liên quan.

Sự trung thực, chính xác, khách quan là yêu cầu chung đối với hoạt động Luật sư và hoạt động Báo chí. Người Luật sư không thông tin sai sự thật để phục vụ Luật sư hoặc quyền lợi không hợp pháp của khách hàng; người Luật sư không  phát ngôn gây ảnh hưởng đến an ninh, lợi ích quốc gia và lợi ích công cộng. Người Luật sư không sử dụng Báo chí gây mất đoàn kết nội bộ, hạ uy tín đồng nghiệp, uy tín, vị thế của nghề Luật sư… là những yêu cầu bắt buộc đối với người Luật sư khi cung cấp thông tin cho Báo chí. Quy tắc 31 và Quy tắc 32 của Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam đã quy định rõ những yêu cầu, chuẩn mực người Luật sư phải tuân thủ trong quan hệ với cơ quan truyền thông, báo chí và thực hiện quảng cáo.

Đảm bảo quyền lợi, ích của khách hàng là yêu cầu tối cao của nghề Luật sư. Do đó, trong quan hệ với Báo chí người Luật sư phải đặt nhiệm vụ bảo vệ quyền lợi của khách hàng là yêu cầu tất yếu. Mặt khác, người Luật sư nếu thấy việc cung cấp thông tin cho Báo chí không mang lại lợi ích tốt nhất cho khách hàng của mình thì có quyền từ chối phối hợp, đây là sự chủ động của nghề Luật sư khác với việc buộc phải cung cấp thông tin của cơ quan nhà nước cho Báo chí.

Khi cung cấp thông tin cho Báo chí người Luật sư phải bảo mật thông tin của khách hàng; người Luật sư không mượn vụ việc của khách hàng chỉ với mục đích đánh bóng thương hiệu bản thân Luật sư… cung là những quy định được Bộ Quy tắc Đạo đức và Ứng xử nghề nghiệp Luật sư Việt Nam quy định.

Thứ sáu, một số gợi ý khi Luật sư làm việc cùng cơ quan Báo chí.

Người Luật sư nhất là các Luật sư trẻ cần tìm hiểu, trang bị và tích lũy kinh nghiệm, kỹ năng để có thể thu hút hoạt động của Báo chí, phối hợp có hiệu quả với Cơ quan Báo chí để phát triển nghề nghiệp của mình đồng thời tránh được các rủi ro cho bản thân, cho khách hàng hoặc ảnh hưởng không tốt đến uy tín, vị thế nghề Luật sư. Người Luật sư nên lưu ý một số vấn đề như phải kiểm soát được nội dung thông tin cung cấp cho Cơ quan Báo chí. Thực tế rằng đôi khi vì nhiều lý do chủ quan, khách quan mà người Luật sư đã cung cấp thông tin cho Báo chí không đúng như mong muốn, ý định.

Người Luật sư cần phải kiểm soát được nội dung Báo chí sử dụng trong số các thông tin người Luật sư đã cung cấp. Thực tế khối lượng thông tin người Luật sư cung cấp cho Báo chí nhiều nhưng Báo chí không thể sử dụng đầy đủ tất cả các thông tin đã khai thác. Việc sử dụng một phần lượng thông tin do Luật sư cung cấp có thể dẫn đến bản chất thông tín, sự việc hoặc mục đích Luật sư cung cấp thông tin cho Báo chí có thể sẽ được độc giả tiếp nhận và hiểu theo hướng khác. Do đó, việc sử dụng các biện pháp kỹ thuật như ghi âm buổi làm việc, trả lời bằng văn bản, xem trước nội dung bài đăng…như là cách kiểm soát nội dung thông tin mà Báo chí sẽ sử dụng là cần thiết đối với các Luật sư đặc biệt Luật sư ít kinh nghiệm làm việc cùng Báo chí.

Công việc của Luật sư là công việc lý trí gắn liền với quy định của pháp luật, có tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của một hoặc nhiều chủ thể trong xã hội. Do vậy, việc cung cấp thông tin cho Báo chí người Luật sư cần xác định rõ mục đích, mục tiêu của việc cung cấp thông tin đó là gì từ đó quyết định cách thức, lượng thông tin cung cấp cho Báo chí.

Luật sư TRẦN VĂN AN

Trưởng Ban Đạo đức nghề nghiệp Luật sư Việt Nam

Chủ nhiệm Đoàn Luật sư tỉnh Bắc Giang

Xây dựng mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan báo chí

3. Cách tính tiền nghỉ phép năm còn thừa khi nghỉ việc

(LSVN) - Theo quy định của pháp luật hiện hành, trường hợp người lao động chưa nghỉ phép năm hoặc chưa nghỉ hết phép năm thì khi nghỉ việc có được thanh toán tiền với những ngày chưa nghỉ không? Bạn đọc Q.Y. hỏi.

Ảnh minh họa.

Bộ luật Lao động 2019 quy định rõ người lao động làm việc đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì được nghỉ hằng năm, hưởng nguyên lương theo hợp đồng lao động như sau:

- 12 ngày làm việc đối với người làm công việc trong điều kiện bình thường;

- 14 ngày làm việc đối với người lao động chưa thành niên, lao động là người khuyết tật, người làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm;

- 16 ngày làm việc đối với người làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm.

Người lao động làm việc chưa đủ 12 tháng cho một người sử dụng lao động thì số ngày nghỉ hằng năm theo tỷ lệ tương ứng với số tháng làm việc.

Theo quy định tại khoản 3 Điều 113 Bộ luật Lao động 2019, nếu người lao động chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm thì được người sử dụng lao động thanh toán tiền lương cho những ngày chưa nghỉ trong trường hợp do thôi việc, mất việc làm.

Khoản 3 Điều 67 Nghị định 145/2020/NĐ-CP quy định tiền lương làm căn cứ trả cho người lao động những ngày chưa nghỉ hằng năm hoặc chưa nghỉ hết số ngày nghỉ hằng năm theo khoản 3 Điều 113 của Bộ luật Lao động là tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm.

Như vậy, tiền nghỉ phép năm còn thừa khi nghỉ việc của người lao động được tính bằng công thức sau:

Tiền nghỉ phép năm còn thừa = Tiền lương theo hợp đồng lao động của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm : Số ngày làm việc bình thường của tháng trước liền kề tháng người lao động thôi việc, bị mất việc làm x Số ngày phép còn thừa.

PHƯƠNG HOA

Đơn khiếu nại, đơn kiến nghị, phản ánh trong CAND đủ điều kiện xử lý khi nào?

4. Cội nguồn báo chí cách mạng Việt Nam

(LSVN) - Báo chí cách mạng Việt Nam luôn được soi đường bởi lý luận cách mạng là chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Có thể khẳng định chủ nghĩa Marx-Lenin, tư tưởng Hồ Chí Minh [1] là một trong những cội nguồn của báo chí cách mạng Việt Nam.

Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam.

Sự ra đời của Báo chí cách mạng Việt Nam - một tất yếu khách quan

Bước vào những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất nước Việt Nam xuất hiện một tình hình mới. Sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, những đòi hỏi chính đáng của nhân dân Việt Nam thể hiện qua bản Yêu sách tám điểm mà Nguyễn Ái Quốc thay mặt Hội những người Việt Nam yêu nước tại Pháp gửi Hội nghị Versailles, không được các nước chiến thắng xem xét. Đã thế, thực dân Pháp còn ra sức tăng cường bộ máy cai trị của chúng ở Việt Nam. Chúng ban hành một số chính sách nhằm đẩy mạnh khai thác tài nguyên phong phú ở thuộc địa, phục vụ chính quốc khôi phục kinh tế, duy trì địa vị cường quốc. "Đế quốc Pháp hứa hẹn sau chiến tranh sẽ cho nhân dân Việt Nam hưởng tự do. Nhưng chiến tranh xong, xiềng xích thực dân lại siết chặt hơn trước".

Albert Sarraut được phái trở lại Đông Dương đảm nhiệm lần thứ hai trách nhiệm Toàn quyền. Trong một bài diễn văn đọc tại Hà Nội nhân dịp đến nhậm chức, ông ta tuyên bố không úp mở về "chính sách của chúng ta (Pháp) đối với dân bản xứ" như sau:

"Việt Nam là thị trường của Pháp (…). Từ nước Pháp, xứ sở này đón nhận công ơn mang lại một nền văn minh khai sáng giúp cho nó thay hình đổi dạng: thiếu nền văn minh ấy, Việt Nam sẽ mãi lay lắt thân phận nô lệ và bấp bênh (!). Đổi lại, Việt Nam sẽ hiến cho Pháp một cái bệ tượng tuyệt vời để từ cái bệ ấy nước Pháp sẽ phóng đi xa hơn ánh sáng văn minh tại phần này của trái đất, từ Việt Nam sẽ lan tỏa ngày càng rộng khắp ảnh hưởng của nước Pháp tại châu Á"… (trích: Lịch sử Báo chí cách mạng Việt Nam - PGS.TS Đào Duy Quát, Chủ biên. Nhà xuất bản chính trị quốc gia - Hà Nội 2013).

Thực hiện chính sách ấy, người Pháp ùn ùn kéo đến Đông Dương. Mặt khác, họ cũng đào tạo một số viên chức người bản xứ nhưng những viên chức này chỉ được giữ những vị trí thấp kém hơn so với người da trắng, hưởng lương thấp hơn nhiều so với đồng nghiệp người Pháp, theo những cách sắp xếp miệt thị theo "ngạch phụ, ngạch chính", "ngạch tây, ngạch ta".

Trong khi đó, các phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam lâm vào bế tắc về đường lối. Đồng chí Trường Chinh phân tích: "Những nhà yêu nước thuộc phái Cần Vương chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp nhưng không phá bỏ chế độ phong kiến. Các nhà cách mạng tiền bối khác như Hoàng Hoa Thám, Nguyễn Thiện Thuật, Phan Bội Châu,… đều chủ trương đánh đuổi thực dân Pháp nhưng cũng không nhận rõ đối tượng của cách mạng Việt Nam là bọn đế quốc, thực dân Pháp và giai cấp địa chủ đã đầu hàng đế quốc. Còn Nguyễn Thái Học và Việt Nam Quốc dân Đảng thì theo chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn, nhưng lại không có một cương lĩnh thiết thực để thực hiện trong điều kiện cụ thể của Việt Nam".

Về kinh tế, mặc dù chủ yếu phục vụ nền kinh tế chính quốc, kinh tế Việt Nam sau Chiến tranh thế giới thứ nhất cũng có những mặt phát triển nhất định. Thực dân Pháp khai thác tối đa tiềm lực nông nghiệp nước ta.

Công cuộc khẩn hoang ở đồng bằng sông Cửu Long được đẩy mạnh, tạo nên những cánh đồng lúa "thẳng cánh cò bay". Ghi nhận "một yếu tố mới trong nền kinh tế Việt Nam" sau Chiến tranh thế giới thứ nhất, Giáo sư Trần Văn Giàu viết: "Tư bản Pháp đổ xô vào đồn điền" và "Bọn thực dân đổ xô vào đất đỏ Tây Nguyên như lũ mèo chớp phải miếng mỡ". Hàng loạt đồn điền cao su được thiết lập ở tất cả những nơi điều kiện. Cây cà phê được trồng nhiều ở phía Bắc. Than đá vùng đông bắc được khai thác mạnh. Giao thông đường thủy, đường bộ, đường sắt mở mang dần. Một số xí nghiệp cơ khí nhỏ - chủ yếu là cơ khí sửa chữa, một số nhà máy giấy, dệt, sợi, xi măng, chế biến - phần lớn xay xát gạo để xuất khẩu - lần lượt mọc lên ở đó đây theo nhu cầu tình thế. Theo số liệu ước tính của nhà kinh tế Mỹ Callis, nếu trong thời gian hơn 30 năm, từ năm 1888 tức là ngay sau khi thực dân Pháp thiết lập chế độ thực dân ở Việt Nam cho đến năm 1920, đầu tư tư nhân vào Đông Dương khoảng 500 triệu frăng vàng, thì chỉ trong vòng 5 năm, từ năm 1924 đến năm 1929, tổng đầu tư của tư bản Pháp vào đây đã lên tới hơn 3 tỷ frăng vàng. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam từ con số nhỏ nhoi là 60 triệu đồng Đông Dương mấy năm đầu thế kỷ XX đã nhích dần lên tới 230 triệu đồng năm 1929. Thống kê của Sở Thanh tra lao động của Pháp ở Đông Dương hồi ấy cho biết, đội ngũ công nhân thời gian này đã đông hơn 220.000 người, trong đó 530.000 là thợ mỏ, 86.000 thợ nhà máy, viên chức thương nghiệp và 81.000 công nhân đồn điền.

Sản xuất phát triển và sự bóc lột thậm tệ của chủ nghĩa thực dân dẫn tới việc hình thành giai cấp vô sản Việt Nam. Đó là những công nhân làm việc ở các xí nghiệp, hầm mỏ và đồn điền cao su; bên cạnh họ là một số lượng ngày càng đông những nông dân hoàn toàn không có tư liệu sản xuất, quanh năm làm thuê kiếm sống trong những điều kiện cực kỳ khó khăn. Mâu thuẫn xã hội ngày càng gay gắt giữa bọn thực dân thống trị phong kiến tay sai của chúng với đông đảo nhân dân Việt Nam; giữa những kẻ bóc lột với những người bị bóc lột. Các tầng lớp tri thức, trung lưu cũng ngày càng cảm thấy chua xót, bế tắc.

Tuy nhiên, lòng yêu nước của nhân dân Việt Nam cho dù có bị dồn nén, bóp nghẹt, bị lợi dụng bằng nhiều thủ đoạn song không chút suy giảm và vẫn bùng lên mạnh mẽ. Thông qua báo chí và nhiều kênh khác, tiếng vang của Cách mạng Tháng Mười Nga, của các cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp đòi tự do, dân chủ, cải thiện dân sinh dần dần đến được với một số người, trước hết là trí thức, nhân sĩ. Một vài tờ báo tiếng Pháp xuất bản ở Việt Nam cũng có thông tin - dù hết sức ít ỏi - về tình hình cách mạng ở nước Nga và về V.I. Lenin. Đã đến lúc phong trào yêu nước và cách mạng Việt Nam cần một đường hướng mới. Xã hội Việt Nam đã đến lúc hội đủ những điều kiện cần thiết tối thiểu để tiến tới xây dựng một tổ chức tiên phong làm sứ mệnh dẫn dắt dân tộc trên con đường tự giải phóng, giành độc lập, tự do.

Nguyễn Ái Quốc tiếp cận chủ nghĩa Marx-Lenin ngay từ cuối thập niên đầu của thế kỷ XX qua tiếp xúc với những người xã hội chủ nghĩa Pháp. Năm 1921, được sự giúp đỡ của Đảng Cộng sản Pháp vừa mới thành lập, Người cùng một số nhà cách mạng ở các thuộc địa Pháp lập ra Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân. Sau khi sang Liên Xô và ở lại một thời gian để nghiên cứu lý luận và thực tiễn vận động cách mạng, năm 1924 Nguyễn Ái Quốc về Trung Quốc để được gần Tổ quốc và có điều kiện trực tiếp chỉ đạo cách mạng hơn.

Mặc dù xa đất nước đã mười mấy năm, đi đến đâu Người cũng hết sức quan tâm theo dõi tình hình thời cuộc ở nước nhà. Người nắm khá vững hoạt động của báo chí trong nước. Ở Quảng Châu, Người quan hệ chặt chẽ với Tâm Tâm xã, một tổ chức cách mạng của các nhà yêu nước Việt Nam. Năm 1925, cuốn Bản án chế độ thực dân Pháp của Nguyễn Ái Quốc được xuất bản ở Paris. Cuốn sách dũng cảm vạch trần tội ác của thực dân Pháp đối với nhân dân ta, làm náo động dư luận nước Pháp và có ảnh hưởng sâu sắc ở các nước thuộc địa. Cũng năm ấy, ở trong nước, nhân dân ba kỳ sôi nổi đấu tranh đòi thực dân Pháp ân xá nhà cách mạng Phan Bội Châu vừa bị chúng bắt từ Trung Quốc đưa về nước kết án tử hình. Các cuộc diễn thuyết của chí sĩ Phan Chu Trinh được hoan nghênh nhiệt liệt.

Xuất phát từ lập trường của giai cấp công nhân và rút kinh nghiệm từ những việc lớn không thành của các nhà cách mạng tiền bối, Nguyễn Ái Quốc ý thức rõ, cách mạng Việt Nam muốn thành công phải đi theo một đường lối khác. Phải phát động và lãnh đạo nhân dân trong nước cùng đứng lên, phối hợp với cuộc đấu tranh của nhân dân Pháp ở chính quốc và cuộc đấu tranh của nhân dân các nước khác, lật đổ chế độ cai trị của thực dân, đế quốc cùng bè lũ tay sai, giải phóng nhân dân Việt Nam khỏi xiềng xích nô lệ, giành lại độc lập, tự do.

Nhưng, "không có lý luận cách mạng thì không có phong trào cách mạng". Không có một tổ chức tiên phong để lãnh đạo cách mạng theo đường lối và bước đi thích hợp thì cách mạng không thể thành công. Mà muốn phát động và mở rộng nhanh chóng phong trào cách mạng, muốn đi đến sự nhất trí về lý luận, chính trị và tư tưởng để xây dựng tổ chức cách mạng tiên phong thì không thể không có tờ báo cách mạng. "Tờ báo ấy – theo quan niệm của Lenin – sẽ như một bộ phận của cái lò rèn khổng lồ thổi cho mỗi tia lửa của cuộc đấu tranh giai cấp và của sự phẫn nộ trong nhân dân bùng lên thành một đám cháy lớn".

Tư duy của Nguyễn Ái Quốc về báo chí này trùng hợp với quan điểm của Lenin về vai trò của tờ báo thời kỳ trước Cách mạng Tháng Mười Nga. Lenin viết: "Theo ý chúng tôi thì điểm xuất phát của hoạt động, bước thực tiễn đầu tiên để tiến tới thành lập cái tổ chức mong muốn, và cuối cùng sợi dây chính là nếu nắm được nó thì chúng ta có thể sẽ không ngừng phát triển, củng cố và mở rộng tổ chức ấy – phải là việc thành lập tờ báo chính trị toàn Nga. Chúng ta cần trước hết là tờ báo, - không có nó thì không thể tiến hành được một cách có hệ thống cuộc tuyên truyền cổ động hết sức có nguyên tắc và toàn diện".

Cũng như Lenin, Nguyễn Ái Quốc hiểu rằng phải nắm được trong tay một tờ báo xuất bản đều thì mới có điều kiện tiến hành công tác tuyên truyền, cổ động một cách đều đặn và toàn diện Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo tư tưởng của Lenin: "Cái mà nhất thiết chúng ta cần phải có lúc này là một tờ báo chính trị. Nếu đảng cách mạng không biết thống nhất tác động của mình với quần chúng bằng tiếng nói của báo chí thì ý muốn tác động bằng các phương pháp khác, mạnh mẽ hơn, chỉ là một ảo tưởng mà thôi".

Về tổ chức, Nguyễn Ái Quốc thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí hội). Đúng như tên gọi là tổ chức này, đây chưa phải là Đảng cộng sản mà chỉ là một tổ chức quá độ để tiến lên thành lập Đảng cộng sản. Hội là cái lò giác ngộ, đào tạo, huấn luyện những thanh niên công nhân, nông dân và học sinh được tuyển từ trong nước ra nước ngoài. Sau khi dự các lớp huấn huyện do Người mở, những thanh niên này sẽ trở về nước hoạt động cách mạng. Họ là những hạt giống ưu tú của cách mạng Việt Nam.

Về tuyên truyền, nhất thiết phải ra tờ báo. Mặc dù ở xa đất nước, Nguyễn Ái Quốc nắm rõ tình hình báo chí nước nhà. Người thấu hiểu những khó khăn mà các nhà báo yêu nước, đầy nhiệt huyết phải đương đầu. Năm 1924, ở Paris, Nguyễn Ái Quốc đã từng thốt lên: "Giữa thế kỷ XX này, ở một nước có đến 20 triệu dân mà không có lấy một tờ báo! Các bạn có thể tưởng tượng được như thế không? Không có lấy một tờ báo bằng tiếng mẹ đẻ của chúng tôi… Chính quyền Pháp quyết định rằng không một tờ báo bằng tiếng An Nam nào được xuất bản nếu không được viên toàn quyền cho phép, rằng họ chỉ cho phép với điều kiện là bản thảo đưa đăng phải trình viên toàn quyền duyệt trước đã, và giấy phép ấy họ thu hồi lúc nào cũng được. Tinh thần bản sắc lệnh về báo chí là như thế đấy".

Mặc dù ở nước ngoài, Nguyễn Ái Quốc nghe rõ lời than của các nhà báo trong nước: "Có miệng không được nói, có tư tưởng không được giải bày, đó là số kiếp của 25 triệu đồng bào ta… Lịch sử báo giới ta đã trải qua mấy chục năm, những người làm báo hoàn toàn là những người miệng câm tai điếc… Mỗi khi ta cầm đến ngòi bút, cầm đến tờ báo, không khỏi bầm gan tím dạ, thẹn ruột đau lòng".

Không thể xuất bản báo chí cách mạng bằng tiếng Việt ở trong nước. Ra báo tiếng Pháp thì không thể phổ cập trong quần chúng lao động là những người ít được học, thậm chí thất học. Là người từng nghiên cứu kinh nghiệm cách mạng nhiều nước, đặc biệt là cách mạng Nga, và qua kinh nghiệm của chính bản thân, Nguyễn Ái Quốc hiểu, không thoát ra ngoài vòng cùm kẹp của chế độ kiểm duyệt thực dân, thì không thể công khai bày tỏ hết tiếng nói của mình, đặc biệt là không thể nào lớn tiếng tố cáo chủ nghĩa thực dân, đế quốc và bè lũ phong kiến để thức tỉnh đồng bào, như Người từng làm ở ngoài nước, khi viết Bản án chế độ thực dân Pháp và nhiều tác phẩm báo chí, văn học đặc sắc chiếm trọn ba tập đầu của bộ Hồ Chí Minh toàn tập. Qua các tác phẩm của K. Marx, Lenin, Người rút được kinh nghiệm: Chỉ còn có một con đường. Con đường ấy là tổ chức biên tập và thực hiện một tờ báo cách mạng ở nước ngoài, rồi bí mật đưa về lưu hành (nếu có điều kiện thì nhân lên) ở trong nước.

Sự ra đời của tờ Thanh Niên, số 1 ra ngày 21/6/1925, là một quyết định sáng suốt và đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc. Quyết định này có hiệu quả vô cùng to lớn đối với tiến trình cách mạng Việt Nam từ giữa thập niên 20 trở đi. Với gần 90 số báo ra gần như đều đặt hằng tuần trong hai năm, báo Thanh niên đã làm được một công việc to lớn là "lưu hành không hợp pháp ở trong nước và bắt đầu truyền bá tư tưởng Marx-Lenin trong nhân dân ta". Tác phẩm Đường cách mệnh, chủ yếu dựa vào những bài đã lần lượt đăng trên báo Thanh niên, đã phác họa lộ trình đưa dân tộc ta tới Cách mạng Tháng Tám thành công, và tiếp tục làm nên sự nghiệp vẻ vang như ngày nay.

Báo Thanh niên mà người sáng lập, người chỉ đạo và người biên tập chính là Nguyễn Ái Quốc, đã có công lao to lớn là chuẩn bị về lý luận, chính trị, tư tưởng và tổ chức cho sự thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam. Với sự ra đời của báo Thanh niên, trong nền báo chí Việt Nam xuất hiện dòng báo chí mới, báo chí cách mạng. Đây là một cống hiến rất quan trọng, một cái mốc vàng trong tiến trình xây dựng nền văn hóa dân tộc Việt Nam.

Sự ra đời của tờ Thanh Niên, số 1 ra ngày 21/6/1925, là một quyết định sáng suốt và đúng đắn của Nguyễn Ái Quốc.

Suy ngẫm về nguồn cội

Khi tờ Thanh niên ra số đầu tiên, nền báo chí quốc văn Việt Nam đã tồn tại được sáu mươi năm bắt đầu từ tờ Gia Định báo. Tuy nhiên, nếu tính từ ngày K. Marx sáng lập Báo Rênani mới (1/6/1848) với tư cách là cơ quan của Đồng minh những người cộng sản, mở đầu dòng báo chí cách mạng trên thế giới, thì được 77 năm. Trên Liên bang Xô viết mênh mông, báo chí cách mạng đã trở thành báo chí của đảng cầm quyền và là một bộ phận cấu thành hệ thống chính trị của đất nước.

Từ ngày ấy đến hôm nay, đã 97 năm qua. Báo chí cách mạng Việt Nam đã có những bước phát triển rất mạnh mẽ. Thời kỳ nhân dân ta chưa giành được chính quyền, trong sự đàn áp khốc liệt và chế độ thống trị hà khắc của thực dân, báo chí cách mạng phải hoạt động trong vòng bất hợp pháp, song chưa lúc nào đứt đoạn mà vẫn phát triển không ngừng. Báo của Trung ương có thể bị tịch thu, bị ngừng xuất bản vì những người lãnh đạo Trung ương đã bị bắt hết, thì báo của xứ ủy, các tỉnh ủy, huyện ủy vẫn tiếp tục lưu hành. Sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945, cứ mỗi lần cách mạng trải qua một bước ngoặt quyết định thì báo chí lại có điều kiện để phát triển lên một tầm cao mới. Qua các bước thăng trầm của thời cuộc, báo chí cách mạng Việt Nam luôn luôn nhìn thẳng vào phương hướng bất biến của mình là phấn đấu vì độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội. Đó chính là nguyên nhân cắt nghĩa vì sao báo chí cách mạng Việt Nam luôn tìm được những hình thức thích hợp để thích ứng, tồn tại và phát triển.

Bước vào thiên niên kỷ mới, nhân dân Việt Nam tự hào về những thành tựu mà báo chí cách mạng đã giành được hơn 97 năm qua. Để hiểu đầy đủ quá trình phát triển và nhất là cắt nghĩa tính kiên định và nhất quán của báo chí cách mạng Việt Nam, không thể không đi ngược thời gian để lên tìm cội nguồn của nó.

1. Báo chí cách mạng Việt Nam bắt nguồn trước hết từ khuynh hướng yêu nước, dân chủ trong báo chí hợp pháp, đặc biệt từ khi báo chí quốc văn ra khỏi giai đoạn phôi thai, nặng chất công báo để dần dần trở thành một hệ thống báo chí với đầy đủ những đặc trưng của các cơ quan thông tin ngôn luận, như xuất bản định kỳ, lưu hành rộng rãi, có độc giả ổn định, có đội ngũ người làm báo chuyên nghiệp,…

Ngay trên tờ báo tiếng Việt thứ hai ra đời tiếp sau tờ Gia Định báo vào nửa cuối thế kỷ XIX là tờ Phan Yên, đã có loạt bài công khai phê phán chính sách cai trị của thực dân Pháp. Đương nhiên nhà cầm quyền tìm cách đối phó, ngăn ngừa, đàn áp. Nhưng tiếng nói yêu nước, dân chủ, tiến bộ phản ánh ý chí quật cường của nhân dân ta không vì thế bị dập tắt mà ngược lại, vẫn tiếp tục vang lên ngày càng rõ ràng hơn, dõng dạc hơn dưới nhiều hình thức. Tác phẩm báo chí của những tên tuổi như Diệp Văn Cường, Trần Chánh Chiếu, Nguyễn An Ninh, Phan Văn Trường, Trần Huy Liệu, Phan Chu Trinh, Ngô Đức Kế,… tuy đăng tải trên báo chí hợp pháp, công khai, phần lớn được xuất bản do tiền bạc và sự bảo trợ của nhà cầm quyền, nhưng lại mang tính tố cáo và phản kháng mạnh mẽ chống lại chế độ thực dân và bè lũ tay sai phong kiến; cổ súy nhân dân yêu nước thương nòi, đề cao nhân ái, giữ vững ý chí, khuyến khích chấn hưng kinh tế, đòi hỏi tự do kinh doanh, tự do báo chí, kêu gọi bài trừ hủ tục, tố cáo bọn tham quan ô lại…

2. Trong cội nguồn nội tại – có thể gọi là truyền thống – của báo chí cách mạng Việt Nam, phải kể một nguồn rất quan trọng là thơ văn yêu nước và cách mạng cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Đó là những sáng tác của Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông, Đoàn Hữu Trưng, Trần Xuân Soạn, Phan Đình Phùng, Nguyễn Thượng Hiền… nửa sau thế kỷ XIX. Trong số những tác phẩm thời kỳ này có nhiều trường hợp khuyết danh nhưng được lưu truyền rộng rãi trong nhân dân dưới dạng dân ca, hò vè, câu đối, lời điếu, ca dao, ngạn ngữ.

Sang đầu thế kỷ XX, nội dung các tác phẩm báo chí - văn học (phần lớn lưu truyền không qua con đường báo chí hợp pháp) giảm dần sắc thái trung với vua theo quan điểm Nho giáo như hồi cuối thế kỷ XIX, mà nghiêng về hướng cách tân, yêu cầu mở mang dân trí, đòi hỏi dân quyền. Huyết thư của Phan Bội Châu gửi từ hải ngoại; bài ca Tỉnh hồn bước của Phan Chu Trinh kêu gọi "những người tuổi trẻ tài cao, rủ nhau đi học mọi điều văn minh, Ngô Đức Kế luận về chính học cùng tà thuyết, phê phán quan điểm vong quốc của Phạm Quỳnh; Đặng Nguyên Cẩn cổ động tân học; Trần Quý Cáp khuyên người trong nước học chữ quốc ngữ, Đỗ Cơ Quang điếu mười hai liệt sĩ ở Hoàng Hoa Cương… Đông Kinh nghĩa thục phát hành Văn minh tân học sách nêu lên sáu chính sách lớn: Dùng chữ quốc ngữ, hiệu đính sách mở, sửa đổi phép thi, cổ vũ nhân tài, chấn hưng công nghệ và đặc biệt nói rất kỹ, rất thiết tha về nhu cầu bức xúc xuất bản báo chí bằng quốc văn.

Những tác phẩm báo chí, thơ văn yêu nước và cách mạng hoặc được công bố qua các phương tiện thông tin, hoặc lưu truyền trong nhân dân qua nhiều kênh khác, đều là những cội nguồn trực tiếp và nội tại của báo chí cách mạng Việt Nam. Dòng báo chí, thơ văn ấy thể hiện truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, mà "yêu nước là tiêu điểm của các tiêu điểm, giá trị của các giá trị. Nó là tư tưởng chủ yếu, là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử của dân tộc Việt Nam". Từ đó, nếu ngược dòng lên nữa, có thể khẳng định báo chí cách mạng bắt nguồn sâu xa từ truyền thống yêu nước, từ tinh túy của văn hiến Việt Nam.

3. Báo chí cách mạng Việt Nam còn bắt nguồn từ báo chí cách mạng, dân chủ và tiến bộ thế giới, và chịu ảnh hưởng sâu đậm của nền báo chí ấy, trong khi trước sau nó vẫn giữ được đậm đà tính cách dân tộc.

Người sáng lập nền báo chí cách mạng Việt Nam - Nguyễn Ái Quốc khởi đầu sự nghiệp của mình ở nước ngoài. Những tác phẩm báo chí, văn học đầu tiên của Người - trong đó có những tác phẩm xuất sắc nhất được thực hiện tại Pháp và đăng tải trên báo chí tiến bộ Pháp, chủ yếu những báo và tạp chí do Đảng Xã hội (khi Đảng Cộng sản Pháp chưa thành lập) và Đảng Cộng sản Pháp chủ trương; rồi sau đó  đăng trên báo chí Nga, Trung Quốc. Có thể nói, báo chí cách mạng Pháp đã đào tạo nên cây bút Nguyễn Ái Quốc khi Người còn trẻ. Những ngày nghiên cứu lý luận và thực tiễn ở Liên Xô, Nguyễn Ái Quốc để tâm nghiên cứu kinh nghiệm của báo chí cách mạng Nga. Khi về Trung Quốc, Người vẫn giữ mối liên hệ chặt chẽ và cộng tác thường xuyên với báo chí cách mạng Trung Quốc.

Trước khi tờ báo Thanh niên ra đời, Nguyễn Ái Quốc đã cùng bạn bè, đồng chí nước ngoài ở Paris xuất bản tờ Le Paria (Người cùng khổ) số đầu tiên ra ngày 1/4/1922, mang nội dung cách mạng rõ rệt. Báo Le Paria có nhiều bài đề cập đến vấn đề Việt Nam. Nhưng dù sao, tờ báo được thực hiện bằng tiếng Pháp ở nước ngoài và ghi rõ ở tiêu đề là Diễn đàn các dân tộc thuộc địa (ít lâu sau đổi thành Diễn đàn của vô sản thuộc địa). Báo Việt Nam hồn khởi thủy từ ý định của Nguyễn Ái Quốc muốn xuất bản và lưu hành trong những người Việt Nam sinh sống ở Pháp. Song khi Người rời khỏi nước Pháp, tờ báo mới ra đời do Nguyễn Thế Truyền làm chủ bút, và càng về sau càng không giữ được đúng mục đích, tôn chỉ ban đầu. Hai tờ báo nên coi như thuộc cội nguồn ngoài nước của báo chí cách mạng Việt Nam.

4. Từ khi ra đời, báo chí cách mạng Việt Nam đã cùng với phong trào cách mạng của nhân dân ta trước Cách mạng Tháng Tám trải qua bao giai đoạn thăng trầm, lúc cao trào dâng lên cũng như lúc phong trào tạm thời lắng xuống. Sau năm 1945 điều kiện nhìn chung có thuận lợi hơn so với thời hoạt động bí mật song vẫn không tránh khỏi tác động trực tiếp của thời cuộc. Trong mọi hoàn cảnh, nó vẫn trước sau giữ được trọn vẹn, nhất quán tính cách mạng để tiếp tục phát triển không ngừng. Từ năm 1986 khi Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, báo chí cách mạng Việt Nam lại được bổ sung động lực để phát triển toàn diện mạnh mẽ. Đến 30/11/2021, báo chí cách mạng Việt Nam với 816 cơ quan báo chí, với đủ các loại hình báo chí và 17.161 phóng viên, biên tập viên, báo chí Việt Nam đã vươn lên sánh vai cùng báo chí các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới.

Được như vậy là nhờ nó luôn được soi đường bởi lý luận cách mạng là chủ nghĩa Marx-Lenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Căn cứ vào nền tảng chính trị - tư tưởng cũng như qua xem xét các đặc trưng cơ bản của báo chí cách mạng 97 năm qua, có thể khẳng định chủ nghĩa Marx-Lenin là một trong những cội nguồn của báo chí cách mạng Việt Nam.

1. Hồ Chí Minh: Toàn tập Sđd, t.1, tr.428

PGS.TS. ĐÀO DUY QUÁT/VGP

Xây dựng mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan báo chí

5. Đón đọc Tạp chí Luật sư Việt Nam số 6/2022

(LSVN) - Tạp chí Luật sư Việt Nam số ra tháng 6/2022 xoay quanh chủ đề: “Thực tiễn tố tụng hành chính hiện nay ở Việt Nam” với những bài nghiên cứu - trao đổi chuyên sâu.

Trong quan hệ pháp luật hành chính, quyền khiếu nại và khởi kiện đều là quyền của công dân khi có cơ sở cho rằng quyết định hành chính, hành vi hành chính của người, cơ quan có thẩm quyền là trái pháp luật xâm phạm trực tiếp đến quyền, lợi ích hợp pháp của công dân, cơ quan, tổ chức. Trên thực tế, không ít người vẫn hay nhầm lẫn giữa khiếu nại và khởi kiện hành chính cùng là một. Tuy nhiên, đây là hai phương thức hoàn toàn khác nhau được điều chỉnh bởi các luật khác nhau và được giải quyết theo trình tự, thủ tục khác nhau. Với bài “Phân biệt khiếu nại hành chính và khởi kiện hành chính”, Luật sư Đặng Hồng Dương (Công ty Luật TNHH Sao Sáng) đã phân tích kỹ những điểm khác nhau giữa hai phương thức này.

Thực tế cho thấy, số lượng án hành chính có liên quan đến đất đai chiếm tỷ lệ tương đối cao, đa số vụ án hành chính là khởi kiện các quyết định về thu hồi đất. Đặc thù về tính chất của những án hành chính liên quan đến đất đai thường phức tạp và rất khó. Giải quyết, xét xử án hành chính về lĩnh vực đất đai do vậy cũng gặp nhiều khó khăn. Từ thực tế này, tác giả Nguyễn Phi Hùng (Tòa án Quân sự Quân khu 4) có bài “Giải quyết các vụ án hành chính về đất đai - thực trạng và giải pháp”. Bài viết tập trung phân tích thực trạng áp dụng pháp luật giải quyết vụ án hành chính về đất đai như về chủ thể khởi kiện, đối tượng khởi kiện, thẩm quyền giải quyết…; qua đó kiến nghị một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng giải quyết vụ án hành chính về đất đai.

Do tính chất đặc thù của tố tụng hành chính dẫn đến việc bên bị kiện luôn là cơ quan hành chính nhà nước hoặc người có thẩm quyền trong cơ quan hành chính nhà nước nên bên bị kiện thường có vị thế cao hơn hẳn bên đi kiện. Mặt khác, cơ quan, tổ chức, cá nhân đi kiện thường ít hoặc không am hiểu pháp luật cũng như công việc, quy trình liên quan đến hoạt động quản lý hành chính nhà nước. Chính vì vậy, việc tham gia của Luật sư trong vụ án hành chính rất cần thiết và đương sự có quyền tự bảo vệ hoặc nhờ Luật sư hoặc người khác có đủ điều kiện theo quy định của Luật Tố tụng hành chính bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. Tuy nhiên, khác với vụ án hình sự, dân sự, kinh doanh - thương mại… , vai trò của Luật sư đã được ghi nhận từ lâu, nhưng trong vụ án hành chính mới được đề cập trong thời gian gần đây và chưa thực sự đầy đủ. Cụ thể hoạt động hỗ trợ pháp lý của Luật sư cho cơ quan, tổ chức, cá nhân trong vụ án hành chính được thực hiện thông qua các giai đoạn tố tụng cụ thể nào, khó khăn vướng mắc ra sao và hướng khắc phục như thế nào, được thể hiện đầy đủ trong bài “Vai trò của Luật sư trong vụ án hành chính” của TS.LS Ngô Văn Hiệp (Văn phòng Luật sư Hiệp và Liên danh).

Mục Nghiên cứu - Trao đổi kỳ này còn có bài “Phòng chống tham nhũng từ khía cạnh văn hóa và pháp lý” của ThS Nguyễn Văn Hợi (Trường Chính trị tỉnh Đắk Nông. Tác giả cho rằng, tham nhũng là hiện tượng của mọi nhà nước, tùy vào những đặc điểm về văn hóa, lịch sử, pháp lý, năng lực quản lý, điều hành mà có sự khác nhau về quy mô và mức độ. Dưới góc nhìn văn hóa, tham nhũng là hành vi phản văn hóa. Văn hóa, tự thân nó luôn là sự phản ánh những giá trị tốt đẹp, chân, thiện, mỹ để hướng tới một xã hội nhân văn. Tham nhũng là hành vi có ý thức đi ngược lại với văn hóa. Dưới góc độ pháp lý, tham nhũng là biểu hiện của hệ thống pháp luật lỏng lẻo, thiếu đồng bộ và việc chấp hành pháp luật chưa nghiêm, chưa có cơ chế đủ mạnh và hiệu quả để kiểm soát quyền lực và những nguy cơ để xảy ra tham nhũng. Bài viết đề xuất một số giải pháp phòng chống tham nhũng từ khía cạnh văn hóa và pháp lý.

Kỷ niệm 97 năm Ngày Báo chí Cách mạng Việt Nam (21/6/1925-21/6/2022), mục Văn hóa - Xã hội có bài “Khi Luật sư song hành cùng báo chí” của tác giả Thạc sĩ, Luật sư Đào Ngọc Lý. Tác giả nhận xét: Có nhiều vụ việc vô cùng khó khăn phức tạp, hoặc đã kéo dài rất nhiều năm, hoặc khá nhạy cảm nguy hiểm, hoặc vướng mắc tưởng chừng không thể giải quyết được… nhưng khi Luật sư song hành cùng báo chí thì không ít trường hợp đã xoay chuyển tình thế rất ngoạn mục, khiến sự việc được xem xét, giải quyết một cách vô cùng thuận lợi và nhanh chóng. Sự phối kết hợp chỉ thành công và hiệu quả khi Luật sư có thiên hướng và tố chất của nhà báo hoặc trường hợp Luật sư biết kết hợp cùng những nhà báo chân chính, có khả năng nhanh chóng phát hiện và nắm bắt bản chất sự việc, có kỹ năng nghề báo sắc sảo và thuyết phục, có phẩm chất uy tín, luôn dũng cảm kiên định trong suốt hành trình bảo vệ công lý và lẽ phải. 

Một số bài viết khác liên quan đến lý luận và thực tiễn thực hiện pháp luật và hoạt động Luật sư… cũng được đăng tải trong Tạp chí Luật sư Việt Nam số ra tháng 6/2022.

Trân trọng kính mời quý độc giả đón đọc! 

BBT

Đón đọc Tạp chí Luật sư Việt Nam số 3/2022

6. Gỡ vướng trong thực hiện giảm thuế GTGT xuống 8%

(LSVN) - Ngày 20/6/2022, Chính phủ ban hành Nghị định 41/2022/NĐ-CP sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ và Nghị định số 15/2022/NĐ-CP ngày 28/01/2022 của Chính phủ quy định chính sách miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội.

Ảnh minh họa.

Việc ban hành Nghị định 41/2022/NĐ-CP nhằm tháo gỡ các vướng mắc trong lập hóa đơn đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng giảm thuế GTGT xuống 8%. Trước đó, ngày 28/01/2022, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 15/2022/NĐ-CP quy định chính sách miễn, giảm thuế theo Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội về chính sách tài khóa, tiền tệ hỗ trợ chương trình phục hồi phát triển kinh tế - xã hội.

Theo đó, về thuế giá trị gia tăng (GTGT), giảm 2% thuế suất thuế GTGT từ ngày 01/02/2022 đến hết ngày 31/12/2022 đối với các nhóm hàng hóa, dịch vụ đang áp dụng mức thuế suất thuế GTGT 10% (còn 8%) trừ một số hàng hóa, dịch vụ.

Tuy nhiên, trong quá trình triển khai Nghị định 15/2022/NĐ-CP, Bộ Tài chính nhận được một số phản ánh của các Cục Thuế, doanh nghiệp (DN) và một số cơ quan báo chí phản ánh vướng mắc về quy định tại khoản 4 Điều 1 Nghị định 15/2022/NĐ-CP về việc lập hóa đơn riêng đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng giảm thuế GTGT.

Theo đó, việc quy định phải lập hóa đơn riêng cho hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng giảm thuế GTGT thì mới được áp dụng thuế suất 8% theo phản ánh của DN là làm tăng chi phí của DN (tăng chi phí thời gian của kế toán và chi phí sử dụng hóa đơn) vì đối với cùng một khách hàng, thay vì lập 01 hóa đơn ghi nhiều thuế suất khác nhau (5%, 8%, 10%) thì DN phải lập 02 hóa đơn: 01 hóa đơn ghi thuế suất 8% và 01 hóa đơn ghi các thuế suất khác (5%, 10%).

Để tháo gỡ các vướng mắc trong việc lập hóa đơn đối với hàng hóa, dịch vụ thuộc đối tượng giảm thuế GTGT, đảm bảo phù hợp với các nội dung trên hóa đơn, Chính phủ ban hành Nghị định 41/2022/NĐ-CP sửa đổi như sau: Trường hợp cơ sở kinh doanh tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ thì khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ áp dụng các mức thuế suất khác nhau thì trên hóa đơn giá trị gia tăng phải ghi rõ thuế suất của từng hàng hóa, dịch vụ theo quy định.

Trường hợp cơ sở kinh doanh tính thuế GTGT theo phương pháp tỷ lệ % trên doanh thu thì khi bán hàng hóa, cung cấp dịch vụ thì trên hóa đơn bán hàng phải ghi rõ số tiền được giảm theo quy định.

Ngoài ra Nghị định 41/2022/NĐ-CP cũng ban hành Thông báo về việc tiếp nhận và kết quả xử lý về việc hóa đơn điện tử đã lập có sai sót theo Mẫu số 01/TB-HĐSS thay thế Mẫu số 01/TB-SSĐT Phụ lục IB ban hành kèm theo Nghị định số 123/2020/NĐ-CP ngày 19/10/2020 của Chính phủ quy định về hóa đơn, chứng từ.

DUY ANH

Phân biệt giữa khiếu nại hành chính và khởi kiện hành chính

7. Bổ sung nội dung, mức chi đào tạo, bồi dưỡng công chức, viên chức từ xa

(LSVN) - Bộ Tài chính đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư sửa đổi, bổ sung Thông tư số 36/2018/TT-BTC hướng dẫn việc lập dự toán, quản lý, sử dụng và quyết toán kinh phí dành cho công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức.

Ảnh minh họa.

Theo đó, dự thảo đề xuất bổ sung nội dung, mức chi liên quan đến bồi dưỡng theo loại hình từ xa. Cụ thể, thực tế trong thời gian qua do tình hình dịch bệnh Covid-19, nhiều bộ, ngành, địa phương đã triển khai tổ chức các lớp bồi dưỡng đối với cán bộ, công chức, viên chức theo loại hình từ xa (học trực tuyến hoặc kết hợp trực tiếp và trực tuyến). Trên cơ sở đề xuất của Bộ Nội vụ, Bộ Tài chính đề xuất bổ sung điểm a khoản 3 Điều 4 về các chi phí phát sinh trong trường hợp đào tạo, bồi dưỡng từ xa gồm:

- Chi mua sắm, thuê thiết bị, phần mềm và các hạng mục ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ đào tạo, bồi dưỡng từ xa (phần mềm tổ chức đào tạo, bồi dưỡng trực tuyến; bài giảng, phần mềm mô phỏng, hạ tầng công nghệ thông tin, thiết bị phục vụ giảng dạy từ xa; chi phí đường truyền, chi phí phục vụ trực tiếp lớp học ảo…);

- Chi số hóa tài liệu phục vụ tập huấn, bồi dưỡng trực tuyến.

Về mức chi: Dự thảo đề xuất mức chi trên cơ sở tham khảo quy định tại khoản 1 và khoản 5 Điều 5 Thông tư số 83/2021/TT-BTC hướng dẫn quản lý kinh phí tập huấn, bồi dưỡng giáo viên và cán bộ quản lý cơ sở giáo dục để thực hiện chương trình mới, sách giáo khoa mới giáo dục phổ thông, cụ thể bổ sung vào điểm i khoản 2 Điều 5 như sau:

- Chi tạo lập mới hoặc thuê hệ thống quản lý học tập trực tuyến: Cơ quan, đơn vị được giao nhiệm vụ chủ trì căn cứ sự cần thiết quyết định việc mua sắm, thuê thiết bị, phần mềm và các hạng mục ứng dụng công nghệ thông tin theo phân cấp quản lý; tuân thủ đầy đủ các quy định của pháp luật về mua sắm, đấu thầu, chứng từ, hoá đơn, các quy định về chi phí thuê dịch vụ công nghệ thông tin.

- Chi số hóa tài liệu phục vụ tập huấn, bồi dưỡng trực tuyến: Thực hiện theo quy định về quản lý đầu tư ứng dụng công nghệ thông tin sử dụng nguồn vốn ngân sách nhà nước và quy định của pháp luật có liên quan; các định mức kinh tế - kỹ thuật trong lĩnh vực thông tin và truyền thông.

HÀ ANH

Phân biệt giữa khiếu nại hành chính và khởi kiện hành chính

8. Rà soát, phân bổ nguồn vốn phát triển kinh tế - xã hội thuộc lĩnh vực y tế bảo đảm hiệu quả

(LSVN) - Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chỉ đạo Bộ Y tế hoàn thiện tiêu chí lựa chọn dự án, gửi các Bộ, địa phương để rà soát, hoàn thiện danh mục dự án; quán triệt và hướng dẫn các địa phương để bảo đảm các dự án được lựa chọn, phân bổ vốn, thực hiện hiệu quả, đúng quy định.

Ngày 20/6/2022, Văn phòng Chính phủ có Thông báo kết luận của Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam tại cuộc họp của Tổ công tác rà soát, hoàn thiện phân bổ nguồn vốn Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội thuộc lĩnh vực y tế.

Theo đó, Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam chỉ đạo Bộ Y tế bám sát mục tiêu, nhiệm vụ tại Nghị quyết số 43/2022/QH15 của Quốc hội, Nghị quyết số 11/NQ-CP ngày 30/01/2022 của Chính phủ, ý kiến của các đại biểu dự họp để hoàn thiện tiêu chí lựa chọn dự án, gửi các Bộ, địa phương để rà soát, hoàn thiện danh mục dự án; quán triệt và hướng dẫn các địa phương để bảo đảm các dự án được lựa chọn, phân bổ vốn, thực hiện hiệu quả, đúng quy định.

Trước đó, theo Quyết định số 640/QĐ-TTg ngày 24/5/2022 của Thủ tướng Chính phủ, Tổ công tác rà soát, hoàn thiện phân bổ nguồn vốn của Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội thuộc lĩnh vực y tế có nhiệm vụ giúp Thủ tướng Chính phủ chỉ đạo, đôn đốc Bộ Y tế và các Bộ liên quan theo đúng chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của từng bộ, phối hợp chặt chẽ rà soát, hoàn thiện phương án phân bổ vốn trình cơ quan có thẩm quyền quyết định.

PV

Vốn điều lệ có phải là vốn pháp định?

9. Đề xuất tiêu chí đánh giá chất lượng thống kê nhà nước

(LSVN) - Bộ Kế hoạch và Đầu tư đang lấy ý kiến góp ý của nhân dân với dự thảo Thông tư hướng dẫn thực hiện Bộ tiêu chí chất lượng thống kê nhà nước đến năm 2030.

Ảnh minh họa.

Dự thảo Thông tư này áp dụng đối với cơ quan thống kê Bộ, ngành gồm cơ quan thống kê tại Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Tòa án nhân dân Tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Kiểm toán nhà nước; cơ quan thống kê Trung ương, cơ quan thống kê cấp tỉnh, cơ quan thống kê cấp huyện; đoàn đánh giá chất lượng thống kê; chuyên gia đánh giá chất lượng thống kê; các tổ chức và cá nhân khác có liên quan đánh giá chất lượng thống kê.

Dự thảo quy định áp dụng tiêu chí, nội dung tiêu chí chất lượng thống kê như sau:

Cơ quan thống kê Bộ, ngành áp dụng 19 tiêu chí với 85 nội dung tiêu chí.

Cơ quan thống kê Trung ương áp dụng 19 tiêu chí với 92 nội dung tiêu chí.

Cơ quan thống kê cấp tỉnh áp dụng 19 tiêu chí với 63 nội dung tiêu chí.

Cơ quan thống kê cấp huyện áp dụng 18 tiêu chí với 46 nội dung tiêu chí.

Nội dung tiêu chí chất lượng được đánh giá theo 05 mức và điểm tương ứng như sau:

Mức 1. Không đáp ứng yêu cầu của nội dung tiêu chí, tương ứng là 1 điểm.

Mức 2. Đáp ứng một phần nhỏ yêu cầu của nội dung tiêu chí, tương ứng là 2 điểm.

Mức 3. Đáp ứng phần lớn yêu cầu của nội dung tiêu chí, tương ứng là 3 điểm.

Mức 4. Đáp ứng đầy đủ yêu cầu của nội dung tiêu chí, tương ứng là 4 điểm.

Mức 5. Đáp ứng cao hơn yêu cầu của nội dung tiêu chí, tương ứng là 5 điểm.

Điểm chuẩn của mỗi nội dung tiêu chí là 4 điểm. Tổng số điểm chuẩn áp dụng đối với từng đối tượng cụ thể: Cơ quan thống kê Bộ, ngành là 340 điểm; cơ quan thống kê Trung ương là 368 điểm; cơ quan thống kê cấp tỉnh là 252 điểm; cơ quan thống kê cấp huyện là 184 điểm.

Hình thức đánh giá chất lượng thống kê gồm: Tự đánh giá chất lượng được thực hiện hằng năm; đánh giá độc lập chất lượng thống kê được thực hiện 5 năm một lần; đánh giá đột xuất chất lượng thống kê được thực hiện khi có yêu cầu của cơ quan quản lý nhà nước về thống kê.

THU HƯƠNG

Xây dựng mối quan hệ giữa Luật sư với các cơ quan báo chí

Admin