/ Góc nhìn
/ Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh trong đường lối đối ngoại của Đảng, Nhà nước ta

01/01/0001 00:00 |

Với tri thức và kinh nghiệm quý báo của mình, Bác để lại cho nền ngoại giao Việt Nam hiện đại một tư tưởng ngoại giao đặc sắc – Tư tưởng Ngoại giao Hồ Chí Minh.

Vào những ngày này, với lòng biết ơn sâu sắc, cả nước ta kỷniệm 130 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ kính yêu, anh hùnggiải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Ngành Ngoại giao Việt Nam rấtvinh dự và tự hào được Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp đảm nhiệm cương vị Bộ trưởngNgoại giao đầu tiên.

Là lãnh tụ thiên tài, là nhà ngoại giao kiệt xuất đã sáng lập ra nền ngoại giao Việt Nam hiện đại, Bác đã chỉ đạo công tác ngoại giao nước nhà vượt qua muôn vàn khó khăn, góp phần giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước.

Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Từ chủ nghĩa yêu nước và truyền thống văn hóa Việt Nam, bằngkho tàng tri thức đồ sộ Đông - Tây, với bản lĩnh dạn dày và kinh nghiệm vô cùngphong phú qua hàng chục năm bôn ba hoạt động cách mạng, Bác đã để lại cho nềnngoại giao Việt Nam hiện đại một tư tưởng ngoại giao đặc sắc - Tư tưởng Ngoạigiao Hồ Chí Minh.

Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh bao hàm những nguyên lý, nộidung, phương pháp, phong cách và nghệ thuật ngoại giao. Người đề cao các quyềndân tộc cơ bản, bao gồm độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chủ quyềnquốc gia, toàn vẹn lãnh thổ, thống nhất đất nước, hòa bình và chống chiến tranhxâm lược.

Người nhấn mạnh ngoại giao “phải luôn luôn vì lợi ích củadân tộc mà phục vụ”; độc lập tự chủ, tự lực tự cường phải gắn liền với đoàn kếtvà hợp tác quốc tế, theo đó Việt Nam sẵn sàng “làm bạn với tất cả mọi nước dânchủ và không gây thù oán với một ai”.

Người hết sức coi trọng tình hữu nghị và hợp tác với các nướcláng giềng có chung biên giới; mở rộng bang giao với các nước trong khu vực vàtrên thế giới; xử lý tốt quan hệ với các nước lớn để phục vụ lợi ích cách mạng.

Trong phương pháp, Người xác định ngoại giao phải là một mặttrận, một binh chủng hợp thành của cách mạng Việt Nam, kết hợp nhuần nhuyễn “vừađánh vừa đàm”, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại để tạo nên sức mạnhtổng hợp to lớn. Người luôn đặt Việt Nam trong dòng chảy của thế giới, coi trọngcác trung tâm quyền lực, các trào lưu lớn.

Người đặc biệt đề cao “dĩ bất biến, ứng vạn biến”, lấy cáikhông thể thay đổi để ứng phó với muôn sự thay đổi, giữ vững tính nguyên tắc,kiên định, vững chắc của mục tiêu chiến lược với tính linh hoạt, uyển chuyển củasách lược cách mạng. Phương pháp ngoại giao Hồ Chí Minh còn thể hiện truyền thốngyêu hòa bình của dân tộc ta, nỗ lực giải quyết bất đồng bằng các phương cáchhoà bình.

Trên nền tảng văn hóa dân tộc, phong cách ngoại giao Hồ ChíMinh thấm đẫm giá trị tinh hoa văn hóa của nhân loại, kết hợp nhuần nhuyễn vănhoá Đông - Tây. Về tư duy, Người căn dặn phải có quan điểm toàn diện, “nhìn chorộng suy cho kỹ” để thấy rõ được xu thế chung và chiều hướng của tiến bộ xã hội.

Trong ứng xử, Người kết hợp hài hòa giữa các giá trị dân tộcvà quốc tế, làm cho mọi người cảm thấy gần gũi, thân tình. Trong giao tiếp, Ngườidùng cách thể hiện bình dị để gửi gắm hiệu quả những thông điệp ngoại giao.

Nét nổi bật trong nghệ thuật ngoại giao Hồ Chí Minh là sự vậndụng nhuần nhuyễn “năm cái biết” (biết mình, biết người, biết thời thế, biết dừngvà biết biến), là khả năng tạo dựng thời cơ và chớp thời cơ, là ngoại giao tâmcông giúp thu phục lòng người bằng chính nghĩa, tình người, lẽ phải và đạo lý.

Những thành tựu của đối ngoại Việt Nam trong sự nghiệp giảiphóng dân tộc, thống nhất đất nước và bảo vệ Tổ quốc ta đã thể hiện rõ nét sựtài tình của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng các nghệ thuật ngoại giao để đưacách mạng đến thành công.

Thực tiễn đã chứng minh Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh làdi sản vô giá, là nền tảng sức mạnh và là chìa khóa để triển khai thắng lợi, hiệuquả đường lối đối ngoại của Đảng qua các giai đoạn cách mạng. Chính nhờ sự vậndụng sáng tạo Tư tưởng ngoại giao của Người trong tình hình mới, đối ngoại ViệtNam đã giành được nhiều thành tựu quan trọng, góp phần duy trì môi trường hoàbình, thu hút các nguồn lực cho phát triển, giữ vững chủ quyền, toàn vẹn lãnhthổ của Tổ quốc và nâng cao vị thế quốc tế của nước ta.

Đến nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 189/193 quốcgia thành viên Liên hợp quốc, có quan hệ đối tác chiến lược, toàn diện với 30nước. Chúng ta hết sức coi trọng quan hệ với các nước láng giềng chung biên giới,các đối tác chiến lược, toàn diện; đã đưa quan hệ với các đối tác ngày càng đivào chiều sâu, ổn định, bền vững, từng bước xử lý ổn thoả các vấn đề phát sinh,tồn tại. Đồng thời, chúng ta đã nỗ lực phát triển quan hệ ngày càng thiết thựcvới các nước láng giềng khu vực và bạn bè truyền thống.

Tiến trình hội nhập quốc tế của nước ta ngày càng sâu rộng,hiệu quả. Về kinh tế, Việt Nam đã trở thành mắt xích quan trọng trong nhiềuliên kết kinh tế thông qua ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do, qua đó tạora những động lực to lớn cho phát triển. IMF đánh giá Việt Nam nằm trong số 20nền kinh tế có đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng toàn cầu năm 2019.

Dù dịch Covid-19 đang gây ra suy thoái kinh tế toàn cầu, nhưng Việt Nam vẫn tăng trưởng dương vào loại cao trong khu vực. Hội nhập quốc tế về chính trị - an ninh - quốc phòng, xã hội - văn hoá và các lĩnh vực khác ngày càng sâu sắc.

Với thế và lực mới, Việt Nam đã tham gia và đóng góp tích cực ở hầu hết các tổ chức, diễn đàn quốc tế quan trọng, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách, đang phát huy hiệu quả vai trò Chủ tịch ASEAN 2020 và Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2020 - 2021. Việt Nam đã và đang đóng góp tích cực trong giải quyết nhiều vấn đề quốc tế quan trọng như: góp phần bảo đảm an ninh lương thực, đẩy mạnh hợp tác quốc tế phòng chống dịch Covid-19, thúc đẩy hoà bình và hoà giải trên bán đảo Triều Tiên...

Chủ tịch Hồ Chí Minh.

Trong môi trường quốc tế ngày càng phức tạp, đối ngoại đãgóp phần hiệu quả vào bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.Chúng ta đã nỗ lực xây dựng đường biên giới trên bộ hoà bình, hữu nghị và pháttriển với Lào, Cam-pu-chia và Trung Quốc. Trước những phức tạp ở Biển Đông,chúng ta đã đánh giá đúng tình hình, đấu tranh, xử lý kịp thời, tỉnh táo, sángsuốt, kiên quyết, kiên trì bảo vệ vững chắc chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, cácquyền và lợi ích chính đáng của Việt Nam trên biển.

Bên cạnh những kết quả trên, các trụ cột và lĩnh vực quan trọngkhác của công tác đối ngoại đều đạt nhiều thành tựu. Đối ngoại Đảng, ngoại giaoNhà nước, đối ngoại nhân dân, đối ngoại Quốc hội, đối ngoại quốc phòng - anninh được triển khai hiệu quả, phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng; ngoại giao kinh tế,ngoại giao văn hóa, bảo hộ công dân, công tác người Việt Nam ở nước ngoài,thông tin đối ngoại cũng được triển khai chủ động, tích cực, góp phần quan trọngvào thành tựu đối ngoại chung của đất nước.

Bên thềm thập niên thứ ba của thế kỷ 21, thế giới đang chứng kiến những biến động to lớn, sâu sắc và khó lường. Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, song đại dịch Covid-19 đã góp phần đẩy nhanh hơn những chuyển biến sâu sắc trong cục diện quốc tế, tác động trực tiếp tới môi trường an ninh và phát triển của nước ta. Chúng ta cần tiếp tục vận dụng sáng tạo Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh để đặt Việt Nam vào đúng “dòng chảy của thời đại”, tạo sức mạnh to lớn đưa cách mạng Việt Nam tới những thắng lợi mới.

Theo đó, ngoại giao Việt Nam cần phát huy tốt vai trò là “mộtmặt trận” tiên phong nhằm củng cố vững chắc môi trường quốc tế thuận lợi và thuhút các nguồn lực phục vụ phát triển và nâng cao vị thế đất nước, bảo vệ Tổ quốctừ sớm, từ xa, từ lúc nước chưa nguy. Các “binh chủng” của đối ngoại Việt Nam,gồm ngoại giao Nhà nước, đối ngoại Đảng và đối ngoại nhân dân cần đồng tâm hiệplực để tận dụng được những cơ hội mới và xử lý hiệu quả những thách thức phức tạpđang đặt ra. Chúng ta cần vận dụng tốt nguyên tắc “dĩ bất biến, ứng vạn biến”.

Cần kiên định mục tiêu bất biến là lợi ích tối thượng của quốcgia - dân tộc với nội hàm là hoà bình, độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ,nâng cao sức mạnh và vị thế của quốc gia; đồng thời, linh hoạt, khéo léo trongsách lược, hành động để xử lý cái "vạn biến" của tình hình. Trước nhữngphức tạp ở Biển Đông, chúng ta kiên trì sử dụng các biện pháp hoà bình để giảiquyết tranh chấp, đồng thời "kiên quyết bảo vệ những quyền thiêng liêngnhất: Toàn vẹn lãnh thổ cho Tổ quốc và độc lập cho đất nước” như lời Bác căn dặn.

Chúng ta cũng cần tiếp tục thúc đẩy và nâng cao hiệu quả hộinhập quốc tế sâu rộng để đem lại nhiều lợi ích thiết thực cho người dân vàdoanh nghiệp. Thực hiện tư tưởng của Bác về đoàn kết và hợp tác quốc tế, chúngta tiếp tục coi trọng quan hệ với các nước láng giềng có chung biên giới; đưavào chiều sâu quan hệ với các nước trong khu vực và trên thế giới; đồng thời,tiếp tục đẩy mạnh và nâng tầm đối ngoại đa phương.

Trong tình hình mới, cán bộ đối ngoại cần thường xuyên phấnđấu, tu dưỡng như lời Bác dặn: "chỉ có qua học tập, qua sự cố gắng của từngcá nhân và cả ngành thì công tác ngoại giao mới đáp ứng nhu cầu của đất nước".Cán bộ đối ngoại cần vừa "hồng", vừa "chuyên" để xây dựng nềnngoại giao Việt Nam hiện đại trong thời kỳ mới. Đặc biệt, cần thực hiện lời căndặn của Bác: “phải luôn luôn vì lợi ích dân tộc mà phục vụ và nhà ngoại giao phảikhôn khéo để lợi ích đó được đảm bảo".

Dưới ánh sáng của Tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, ngoại giao Việt Nam sẽ tiếp tục viết lên những thành công mới, đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đưa nước ta sánh vai cùng các cường quốc năm châu như Bác hằng mong ước.

PHẠM BÌNH MINH
(Phó Thủ tướng, Bộ trưởng Ngoại giao)