/ Hồ sơ - Tư liệu
/ Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và cuộc đấu tranh vì các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam

Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và cuộc đấu tranh vì các quyền dân tộc cơ bản của nhân dân Việt Nam

31/08/2025 07:37 |

(LSVN) - Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Chủ tịch Hồ Chí Minh - Nhà cách mạng Nguyễn Ái Quốc trước đây từng gửi Bản yêu sách cho Hội Quốc Liên (1926) để đòi quyền độc lập cho dân tộc Việt Nam - đã đọc bản Tuyên ngôn độc lập, trịnh trọng tuyên bố với nhân dân Việt Nam và thế giới: Nước Việt Nam từ nay hoàn toàn độc lập và tự do, toàn thể nhân dân Việt Nam quvểt tâm bảo vệ vững chắc nền độc lập và tự do đó. Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945 là một văn kiện chính trị - pháp lý có ý nghĩa quốc tế rất to lớn. Nó biểu hiện sáng tạo vô cùng quý báu của Hồ Chủ tịch về lý luận cách mạng giải phóng dân tộc cũng như về lý luận pháp lý quốc tế hiện đại.

Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là sự phát triển logic các bản tuyên ngôn độc lập trước đó của dân tộc Việt Nam

Trong lịch sử đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân Việt Nam, bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 là bản tuyên ngôn độc lập thứ bạ sau bài “Nam quốc sơn hà" và “Bình Ngô đại cáo".

Cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Tống lần thứ nhất (981) và lần thứ hai (1076-1087) của nhân dân Việt Nam đã giữ vững độc lập chủ quyền và lãnh thổ quốc gia Việt Nam. Trong khí thế tiến công đó. Lý Thường Kiệt đã viết nên bài thơ “Thần” bất hủ. Với bài thơ trên, Lý Thường Kiệt đã nhân danh toàn thể dân tộc Đại Việt để tuyên bố, khẳng định quyền độc lập thiêng liêng và bất khả xâm phạm, quyền bình đẳng của tất cả các dân tộc. Bài thơ “Thần" được ghi vào lịch sử như bản Tuyên ngôn độc lập đầu tiên của dân tộc Việt Nam sau hơn 1.000 năm bị phong kiến phương Bắc đô hộ.Thắng lại gạnh liệt chống quân xâm lược Minh (1427) của dân tộc ta đưa nước Đại Việt đến độc lập hoàn toàn, trên nên chiến thắng lấy lừng đó, Nguyễn Trãi viết nên “Bình Ngô đại cáo”. “Bình Ngô đại cáo" được ghi vào lịch sử như là bản Tuyên ngôn độc lập lần thứ hai của dân tộc Việt Nam. Tuy nhiên, ý thức về chủ quyền dân tộc trong các bản tuyên ngôn đó vẫn bị hạn chế bởi điều kiên lịch sử bấy giờ. Các bản tuyên ngôn đó đã khẳng định chân lý chủ quyền độc lập, nhưng đó chỉ là chân lý cho một thời kỳ lịch sử nhất định.

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Ảnh tư liệu: Nguồn: qdnd.vn.

Ngày 02/9/1945, tại Quảng trường Ba Đình, Hà Nội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc Tuyên ngôn Độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, mở ra kỷ nguyên mới cho lịch sử dân tộc. Ảnh tư liệu: Nguồn: qdnd.vn.

Sau hơn 80 năm đấu tranh kiên cường, nhân dân ta đã đánh đổ ách thống trị thực dân, phát xít. Tuyên ngôn độc lập năm 1945 tuyên bố nước Việt Nam hoàn toàn độc lập và thống nhất. Đây là nền độc lập, tự do, thống nhất mới, cao hơn. Bản Tuyên ngôn độc lập năm 1945 còn mang nội dung cách mạng của thời đại mới, nó tuyên bố xóa bỏ mọi ách xâm lược áp bức dân tộc, khẳng định quyền tự quyết của một dân tộc, khẳng định những nguyên tắc dân chủ, bình đẳng trong quan hệ quốc tế.Tuyên ngôn độc lập năm 1945 còn là sự phát triển, gắn các quyền cơ bản của con người với các quyền cơ bản của các dân tộc.

Mở đầu bản Tuyên ngôn độc lập ngày 02/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh trích một câu trong bản Tuyên ngôn độc lập của Hoa Kỳ: “Tất cả mọi người đều sinh ra có quyền bình đăng. Tạo hóa cho họ những quyền không ai có thể xâm phạm được: trong những quyền ấy, có quyền được sống, quyền tự do và quyền muưu cầu hạnh phúc...", và Người đã khẳng định: “Suy rộng ra, câu ấy có nghĩa là tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng: dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do". Tiếp theo đó, Người còn dẫn lại một câu trong bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của cách mạng tư sản Pháp 1791, nói về tự do và bình đẳng của con người để tố cáo thực dân Pháp là kẻ đã lợi dụng “lá cờ tự do bình đẳng, bác ái để “cướp đất nước ta và áp bức đồng bào ta".Bản Tuyên ngôn độc lập 1776 là kết quả của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của nhân dân Bắc Mỹ. Nó là một văn kiên tiến bộ trong thời bấy giờ. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới nó tuyên bố chủ quyền thuộc về nhân dân, quyền bình đẳng của các dân tộc và quyền của mỗi dân tộc được làm cách mạng. Song do hạn chế về lịch sử bản Tuyên ngôn này không thể giải phóng triệt để con người, nó chưa và không thể là tuyên ngôn độc lập cho các dân tộc bị áp bức vùng lên để tự giải phóng mình. Điều này chỉ có thể được thực hiện khi lá cờ cách mạng năm trong tax một lực lượng cách mạng mới là giai cấp vô sản.

Bản Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền 1791 của cách mạng tư sản Pháp đã nêu lên một công thức nổi tiếng “Tự do, bình đẳng, bác ái", xứng đáng là bản khai tử đối với chế độ phong kiến và là cương lĩnh của giai cấp cầm quyền mới: giai cấp tư sản. Tuy nhiên, nó vẫn chỉ là cuong lĩnh của một giai cấp thống trị áp bức mới. Nó chỉ thay một chế độ áp bức bóc lột này bằng một chế độ áp bức bóc lột khác.

Khi Thomas Jefferson viết Tuyên ngôn độc lập 1776 của Hoa Kỳ, ông đã nhấn mạnh - và cũng chỉ mới nhấn mạnh - quyền sống của con người với tư cách cá nhân. Khi Tuyên ngôn 1791 được công bố nó đã nêu lên công thức: tự do, bình đẳng, bác ái. Nhưng đó chỉ là thứ tự do, bình đắng, bác ái cho những kẻ thống trị và áp bức chứ nó không phải dành cho người dân lao động ở ngay nước đó. Trên thực tế, quyền con người, quyền của một dân tộc thuộc địa lại bị chà đạp thô bạo. Lần đầu tiên trong lịch sử thế giới Tuyên ngôn độc lập 1945 không những đã khẳng định quyền sống của con người với tư cách từng cá nhân cụ thể mà còn với tính cách của cả một dân tộc, Quyền sống của một con người chỉ được bảo đảm khi có quyền sống của cả một dân tộc. Các quyền cơ bản của con người chỉ được thực hiện khi một dân tộc có đầy đủ các quyền ca bản của mình. Chừng nào các quyền cơ bản của một dân tộc bị chà đạp và dày xéo thì không thể nói đến việc thực hiện các quyền cơ bản của con người. Như vậy, theo nội dung và tự tưởng Tuyên ngôn độc lập, 1945, môi dân tộc đứng dâu đấu tranh giành độc lập đều phải là chủ thể của các quyền dân tộc của mình. Nếu đem so với Tuyên ngôn độc lập 1776 và Tuyên ngôn 1791 ta sẽ thấy Tuyên ngôn độc lập 1945 đã vượt xa các Tuyên ngôn trước đó, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh từ các quyền cơ bản của con người đã nâng lên thành các quyền cơ bản của các dân tộc. Tuyên ngôn độc lập 1945 là một cống hiến to lớn của Hồ Chủ tịch đối với lý luận pháp lý quốc tế hiện đại, góp phần thủ tiêu tính chất thực dân xâm lược, bất bình đẳng của luật quốc tế cũ củng cố và xây dựng những nguyên tắc và quy pham pháp lý dân chủ tiến bộ, thúc đẩy luật quốc tế phát triển. Một điều đáng lưu ý nữa là, mãi sau đó, Liên hợp quốc mới thông qua Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người ngày 10/12/1948. Đây là văn bản quốc tế đầu tiên ghi nhân các quyền và tự do cơ bản của con người một cách cụ thể (như quyền chính trị xã hội quyền kinh tế...). Nhưng văn bản này vẫn còn thiếu sót lớn, là chưa ghi nhân nguyên tắc quyền dân tộc tự quyết chưa quy định việc cấm chiến tranh xâm lược, chưa đề ra được các biện pháp cụ thể để thực hiện quyền con người... Thực tế đó càng chứng tỏ tầm vóc, sứ mệnh giá trị và ý nghĩa quốc tế to lớn mà Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945 tạo ra cho thời đại mới.Trong sinh hoạt quốc tế ngày càng có nhiều văn bản đề cập quyền con người và quyền dân tộc tự quyết, nhưng chính các nước nơi đã đưa ra những tuyên ngôn, văn bản về nhân quyền như Pháp và Mỹ - không phải chỉ ở các nước thuộc địa nơi mà quyền con người không bao giờ dues được nhắc tới, mà ngay ở “chính quốc" cũng bị vi pham.

Nếu ta chú ý đến hoàn cảnh lịch sử lúc bấy giờ lúc mà pháp lý quốc tế vẫn đặt các dân tộc thuộc địa ra ngoài các quan hệ điều chỉnh của nó. lúc mà pháp lý quốc tế không xem các dân tộc này là chủ thể mà chỉ là khách thể là đối tượng của quan hệ pháp lý, thì ta sẽ thấy rõ các quyền dân têc được nêu lên trong Tuyên ngôn độclập 1945 đã đặt cơ sở pháp lý đặc biệt quan trong cho việc thiết lập một trật tự pháp lý mới. Theo tinh thần đó, Tuyên ngôn độc lập 1945 có ý nghĩa pháp lý quốc tế tiến bộ rất to lớn. Giáo sư Shingu, Shibata (Nhật Bản) đã đánh giá; “Trong hệ thống thế giới đế quốc chủ nghĩa và các nhà nước của nó, sự đòi hỏi thực hiện phạm trù các quyền dân tộc là cần thiết để thực hiện quyền tự do của con người. Nhưng cả trong hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới, trong quan hệ giữa các nhà nước xã hội chủ nghĩa với nhau cũng như tại nội bộ các nước đó, trong quan hệ giữa các nước xã hội chủ nghĩa với các nước đang phát triển, ngày nay và cho đến tương lai xa xôi, quyền đó cũng cần phải được công nhân rõ ràng. Về điểm này, các nguyên tắc nêu trong Tuyên ngôn độc lập của nước Việt Nam Dân chủ công hòa không dừng lại ở mức độ nguyên tắc và quyền tự quyết của các dân tộc. Đây là những nguyên tắc chung có giá trị phổ biến, có thể được áp dụng chẳng những cho đến lúc chủ nghĩa đế quốc bị diệt vong. mà đó còn là những nguyên tắc, mà nếu không có chúng thì không thể thực hiện được đầy đủ quyền tự do của các dân tộc và cả hệ thống các quyền cơ bản của con người" (1).

Cuộc đấu tranh 80 năm qua của Việt Nam là quá trình đấu tranh liên tục để giành lại quyền dân tộc thiêng liêng, từng bước phát triển nội dung các quyền dân tộc cơ bản như Điều 1 Hiệp định Pa-ri ngày 27/01/1973 về Việt Nam - điều duy nhất của Chương I Hiệp định - đã trịnh trong ghi nhận: "Hoa Kỳ và các nước khác tôn trọng, độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Việt Nam như Hiệp định Giơ-ne-vo năm 1954 về Việt Nam đã công nhân". Nhân dân Việt Nam đã buộc kẻ thù của mình từ chủ nghĩa thực dân Pháp đến chủ nghĩa đế quốc Mỹ phải thừa nhận về mặt pháp lý và cam kết tôn trong các quyền dân tộc cơ bản của mình qua các Hiệp định Giơ-ne-vo 1954 và Hiệp định Pa-ri 1973 về Việt Nam.

Các Hiệp định đó là sự tiếp tục khẳng định các quyền cơ bản của một dân tộc đã được khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập 1945.

Khẳng định quyền độc lập cho dân tộc cũng có nghĩa nghĩa là là khẳng khẳng định quyền tự quyết cho dân tộc mình, thoát khỏi mọi sự nô dịch và áp bức của chủ nghĩa thực dân, để quốc, tự do quyết định lấy vẫn mệnh của mình. Cho nên, Tuyên ngôn độc lập 1945 đã tuyên bố "thoát ly hắn quan hệ với thực dân Ph Pháp, xóa bỏ hết những hiện ước mà Pháp đã ký về Việt Nam, xóa bỏ tất cả mọi đặc quyền của Pháp trên đất nước Việt Nam".

Tuyên ngôn độc lập năm 1945 và sự công nhận quốc gia và chính phủ mới thành lập do kết quả của phong trào giải phóng dân tộc

Trong thời đại hiện nay, sự xuất hiện một quốc gia găn liền với quá trình giải phóng dân tộc thoát khỏi ách thống trị thực dân đế quốc. Sự xuất hiện một quốc gia là một sự kiện lịch sử, chính trị đồng thời còn là một sự kiện pháp lý. Bởi lẽ, nó sẽ mang lại những hậu quả như xác lập, thay đổi hay định chỉ quan hệ pháp lý quốc tế. Việc xuất hiện một quốc gia có ý nghĩa trực tiếp không chỉ đối với một quốc gia hay một nhóm quốc gia đạng tồn tại mà còn đối với cả công đồng quốc tế nói chung. Vì vậy trong việc xuất hiện một quốc gia mới, những vấn đề pháp lý cơ bản, như V.N. Dudennhepxki đã lưu ý - việc công nhận quốc gia mới, là sự kế thừa của nó và tư sách thành viên của nó trong các tổ chức quốc tế (2).

Những nguyên tắc nhằm củng cố quyền tự quyết của các dân tộc ngậy càng trở thành những nguyên tắc quan trọng của luật quốc tế hiện đại. Chúng hủy bỏ các quy phạm pháp luật mang tính chất thực dân, thủ tiêu quyền tiến hành chiến tranh xâm lược tạo ra những khả năng to lớn để điều chỉnh quá trình xuất hiện các quốc gia phù hợp với luật quốc tế, Bởi vậy, nếu các phương thức làm xuất hiện một quốc gia với quyền dân tộc tự quyết, thì tự chúng đã là những tiêu chuẩn cơ bản, điều kiện cơ bản để công nhận quốc gia với tư cách là chủ thể của luật quốc tế. Nhưluật gia Balan L.Dembinxki đã khẳng định: “Việc xuất hiện một quốc gia là hình thức đầy đủ nhất của việc thực hiện quyền dân tộc tự quyết" (3).

Tuyên ngôn độc lập năm 1945, sau khi tuyên bố hủy bỏ các hiệp ước của thực dân Pháp đã ký về Việt Nam, đã yêu cầu các nước công nhận nền độc lập của Việt Nam: "Chúng tôi tin rằng, các nước Đồng minh đã công nhân những nguyên tặc dân tộc bình đăng ở các Hội nghị Têhêran và Cưu Kim Sơn quyết không thể không công nhận quyền độc lập của dân tộc Việt Nam".

Cuộc đấu tranh của nhân dân Việt Nam chống lại thực dân Pháp và phát xít Nhật là cuộc đấu tranh chính nghĩa và hợp pháp, Boi xay, Việt Nam có đủ cơ sở thực tế và cả sả pháp lý để được công nhận. Đó là “một dân tộc đã gan góc chống ách nô lệ của Pháp hơn 80 năm, một dân tộc đã gan góc đứng về phía Đông minh chống phát xít”. Rõ ràng, ở khía cạnh này, chúng ta lại thấy Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945 đã mà đầu cho quá trình phi thực dân hóa ở Việt Nam, ở Đông Dương và trên phạm vi toàn thế giới. Quá trình đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân cũ và mới để giành độc lập ở các ημάς châu Á, châu Phi và Mỹ latinh những năm 60 của thế kỷ XX đã chứng minh điều này. Riêng năm 1960 được gọi là "năm châu Phi" với 17 ngác tuyên bố độc lập và sau đó nhiều nước đã được trao trẻ độc lập. Tuyên ngôn độc lập năm 1945, một lần nữa, đã góp phần xây dựng nên một chế định công nhân mới trong luật quốc tế hiện đại - chế định công nhân các dân tộc và các quốc gia đã đấu tranh giành độc lập.

Đã 80 năm trôi qua kể từ ngày Chủ tịch Hồ Chí Mình đọc bản Tuyên ngôn độc lập, từ bấy đến nay, lịch sử đã chứng kiến những thay đổi to lớn, những đổi thay của một thời đại mà bão táp cách mạng đang làm thay đổi bản đề chính trị thế giới. Ngọn lửa đấu tranh giải phóng dân tộc không chỉ cháy sáng trên bờ biển Thái Bình Dương, ở Việt Nam mà còn hùng hực và sôi sục khắp các lục địa A, Phivà Mỹ la tình. Thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945 không chỉ tạo ra việc xóa bỏ chủ nghĩa thực dân Pháp trên đất nước Việt Nam mà còn mở đầu cho quá trình sụp để hoàn toàn của chủ nghĩa thực dân cũ trên phạm vi toàn thế giới. Phát biểu tại Lễ trao bằng Tiến sĩ danh dự luật học cho Chủ tịch Hồ Chí Minh ở Trường Đại học UNPAD, Indonesia ngày 02/3/1959, Tổng thống Sukarno đặc biệt nhấn mạnh: Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ ghi nhận kết quả đấu tranh kiên cường giành độc lập của nhân dân Việt Nam sau hon 80 năm, chống Pháp và phát xít Nhật, mà còn là nguồn động lực mạnh mẽ, cố vũ các dân tộc đạng bi ar bitc đứng dậy đấu tranh giành độc lập, giành quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh phúc trên phạm vi toàn thế giới.

Hiện nay, các thế lực độc tài hiểu chiến phản động quốc tế dưới mọi hình thức và màu sắc đang câu kết nhau để lao vào một cuộc phản kích điên cuồng phá hoại hòa bình thế giới. Các cuộc chiến tranh ủy nhiệm "qua tay người khác”, “xung đột ở cường độ thấp”, “vượt lên trên ngăn chăn" giữa Nga và Ucraina, Iran và Ixraen, An Độ và Pakistan, giữa Triều Tiên và Hàn Quốc, tiềm ẩn xung đột ở eo biển Đài Loan... những nguy cơ của một cuộc chiến tranh hạt nhân cục bộ và tổng lực đang là nguyên nhân trực tiếp đe doa quyền sống, quyền tự do của con người, đe dọa các quyền cơ bản của các dân tộc, đe dọa hòa bình và an ninh quốc tế.Ngày nay, khi mà quyền sống của mỗi người của mỗi quốc gia và của cả loài người đang bị đe dọa thì Tuyên ngôn độc lập 02/9/1945 vẫn tiếp tục là lời hiệu triệu trong cuộc đấu tranh chung của các dân tộc vì hòa bình. Tuyên ngôn độc lập 1945 với việc khẳng định quyền sống của các dân tộc và các quyền dân tộc cơ bản - là độc lập, chủ quyền thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ vân giữ nguyên ý nghĩa thời sự nóng bỏng.

1. Shingu Shibata, Chủ nghĩa Mác và ý nghĩa hiện thời của Tuyên ngôn độc lập của Mỹ. Bản dịch của Viện Thông tin khoa học xã hội, trang 20, 21.

2. V.N. Duđennheẹpxki, Những vấn đề pháp lý chủ yếu trong việc xuất hiện một quốc gia mới, M. 1959. tr. 27, tiếng Nga.

3. L. Dembinxki, Samostencwienie W pro-we I prowe, I practuke, ONZ, Warszawa, 1969. S. 172.

TS.LS NGÔ QUỐC KỲ 

Văn phòng Luật sư Ngô Quốc Kỳ

 

Các tin khác