Đặt vấn đề
Tri thức khoa học, trong đó có tri thức luật học là một hiện tượng tích hợp bao gồm nhiều khối tri thức khác nhau, trong đó có tri thức đã thu nhận được về khách thể, đối tượng nghiên cứu, về phương thức nghiên cứu, được thể hiện dưới dạng tư duy, tri thức phương pháp luận, lý luận và thực tiễn nhất định đã và đang phát triển.
Biện chứng phát triển của tri thức luật học là trong quá trình phát triển, các tri thức đó ngày càng gia tăng trên nhiều phương diện, có mối quan hệ biện chứng với nhau, tạo nên kho tàng tri thức luật học ngày càng phong phú, đa dạng, phức tạp, phục vụ cho sự phát triển đất nước.
Trong kho tàng tri thức đó, tư duy, tri thức phương pháp luận nghiên cứu của luật học đóng vai trò ngày càng quan trọng đối với nghiên cứu luật học, là định hướng tư duy, xác lập và triển khai các nghiên cứu luật học, cần phải được nhận thức đầy đủ, sâu sắc và toàn diện hơn.
Câu hỏi đặt ra cần được luận giải là tri thức phương pháp luận nghiên cứu của luật học có tầm quan trọng, ý nghĩa như thế nào đối với luật học, có quy luật phát triển ra sao, có mối liên hệ như thế nào với khách thể, đối tượng, tiếp cận nghiên cứu, lý luận pháp luật và phương pháp nghiên cứu của luật học.
Bài viết này, bằng phương pháp nhận thức biện chứng, tập trung luận giải khái quát về luật học và tầm quan trọng của tư duy, tri thức phương pháp luận nghiên cứu luật học; mối quan hệ giữa tính thống nhất, sự phân hóa, tính tích hợp của tri thức luật học; mối quan hệ giữa khách thể, đối tượng và phương pháp luận nghiên cứu của luật học; nhận thức về phương pháp luận nghiên cứu của luật học; mối quan hệ giữa phương pháp luận và tiếp cận nghiên cứu của luật học; mối quan hệ giữa tiếp cận nghiên cứu, lý luận pháp luật và phương pháp nghiên cứu của luật học.
Luật học và tầm quan trọng của tư duy, tri thức phương pháp luận nghiên cứu luật học
Hiện nay, trong sách báo pháp lý thế giới và ở nước ta, có các tên gọi khác nhau về khoa học nghiên cứu pháp luật. Đó là các tên gọi như khoa học pháp lý, khoa học về pháp luật, luật học và có thể có tên gọi khác. Xét trên phương diện khoa học, về cơ bản, đó là những thuật ngữ đồng nghĩa, có thể sử dụng như nhau khi định danh khoa học nghiên cứu về pháp luật. Bài viết này sử dụng các tên gọi trên ở nghĩa đồng nghĩa. Hiểu như thế nào về luật học sẽ có cách hiểu tương hợp về phương pháp luận nghiên cứu của nó.
Luật học dưới dạng khái quát nhất được hiểu là hệ thống tri thức về pháp luật và tư duy về pháp luật, tích lũy được trong quá trình nhận thức thực tiễn, được thể hiện bằng các phạm trù, khái niệm, phán đoán, học thuyết về pháp luật. Nhiệm vụ của luật học là phát hiện ra bản chất, tính quy luật của các hiện tượng, quá trình pháp luật, từ đó dự báo về sự vận động, phát triển của chúng, định hướng cho hoạt động của con người trong lĩnh vực pháp luật. Luật học vừa là một dạng hoạt động pháp luật vừa là một công cụ nhận thức pháp luật. Mỗi luật học phát triển gồm có 4 yếu tố cơ bản: 1) Tri thức kinh nghiệm về pháp luật; 2) Tri thức lý luận về pháp luật; 3) Phương pháp, cách thức nghiên cứu pháp luật; 4) Giả thuyết và kết luận về những vấn đề pháp luật.
Luật học được hiểu ở nghĩa tổng quát với tư cách là một lĩnh vực của khoa học xã hội, ở nghĩa chỉnh thể với tư cách là hệ thống các khoa học pháp lý, ở nghĩa cụ thể với tư cách là các khoa học pháp lý cụ thể. Điều này nói về mối quan hệ giữa cái chung, cái riêng, cái cụ thể trong nhận thức về luật học. Đây cũng là một mối quan hệ biện chứng của chính bản thân luật học. Luật học gắn liền với nhà nước học, có mối quan hệ biện chứng với nhà nước học. Đương nhiên, luật học còn có mối quan hệ với các ngành khoa học khác, bao gồm khoa học tự nhiên, kỹ thuật và công nghệ.
Luật học với tư cách là một hệ thống, dưới dạng khái quát nhất, được phân thành các loại luật học khác nhau.
Theo cách phân loại phổ biến hiện nay, luật học với tư cách là một hệ thống, được phân thành các tiểu hệ thống sau đây: 1) Các luật học/ khoa học pháp lý nền tảng về pháp luật; 2) Các luật học/khoa học pháp lý chuyên ngành và liên ngành; 3) Các luật học/khoa học pháp lý ứng dụng - kỹ thuật; 4) Các luật học/ khoa học pháp lý quốc tế. Ngoài cách phân loại trên còn có các cách phân loại khác. Mỗi cách phân loại đều mang tính chất có điều kiện, tương đối.
Các luật học nền tảng về pháp luật hay gọi cách khác các lý luận - lịch sử (còn có thể được gọi là các luật học chung) về pháp luật bao gồm: lý luận pháp luật (lý luận pháp lý chuyên ngành về pháp luật); triết học pháp luật; xã hội học pháp luật; chính sách học pháp luật; luật học so sánh; tâm lý học pháp luật; kinh tế học pháp luật; lịch sử pháp luật (lịch sử pháp luật thế giới, lịch sử pháp luật Việt Nam); lịch sử các học thuyết chính trị - pháp luật. Trong quá trình phát triển có thể xuất hiện các luật học nền tảng khác, chẳng hạn như nhân học pháp luật. Đó là quá trình phân hóa luật học trên cơ sở thống nhất của chúng. Sự phân hóa luật học, tất yếu, sẽ dẫn đến sự tích hợp ở mức độ cao hơn, thống nhất cao hơn của luật học.
Các luật học/khoa học pháp lý chuyên ngành và liên ngành bao gồm: (i) nhóm các ngành khoa học pháp lý - nhà nước: khoa học luật hiến pháp, khoa học luật hiến pháp nước ngoài, khoa học luật hành chính và các khoa học pháp lý khác; (ii)nhóm các ngành khoa học pháp lý hình sự: khoa học luật hình sự, khoa học luật thi hành án hình sự, xã hội học luật hình sự, luật hình sự so sánh và các khoa học pháp lý hình sự khác; (iii) nhóm các ngành khoa học pháp lý dân sự: khoa học luật dân sự, khoa học luật hôn nhân và gia đình, khoa học luật tác giả và các ngành khoa học pháp lý dân sự khác; (iv) nhóm các ngành khoa học pháp lý kinh tế: khoa học luật kinh tế, khoa học luật thương mại, khoa học luật đất đai, khoa học luật môi trường, khoa học luật lao động, khoa học luật nông nghiệp và các ngành khoa học pháp lý kinh tế khác; (v) nhóm các ngành khoa học pháp lý tố tụng: khoa học luật tố tụng hình sự, khoa học luật tố tụng dân sự, khoa học luật tố tụng hiến pháp, khoa học luật tố tụng hành chính, khoa học luật tố tụng kinh tế, khoa học luật tố tụng lao động và các ngành khoa học pháp lý tố tụng khác. Đây là nhóm luật học đa dạng, phong phú nhất trong luật học.
Các luật học/khoa học pháp lý ứng dụng - kỹ thuật bao gồm: tội phạm học, điều tra tội phạm, tâm lý học pháp luật, tâm thần học…
Các luật học/khoa học pháp lý quốc tế bao gồm: khoa học công pháp quốc tế, khoa học tư pháp quốc tế, khoa học luật lãnh sự và các ngành khoa học pháp lý quốc tế khác.
Ngoài cách phân loại trên, luật học có thể được phân thành: luật học hàn lâm/lý luận; luật học đào tạo; luật học thực tiễn/ứng dụng.
Các luật học hay khoa học pháp lý nói trên đều nói lên sự tự phát triển của chính luật học, có mối liên hệ biện chứng với nhau, bổ sung, tương tác với nhau trong một chỉnh thể thống nhất - luật học.
Luật học thực hiện các chức năng quan trọng là: chức năng lý luận; chức năng phương pháp luận; chức năng tư tưởng; chức năng giáo dục; chức năng tổ chức - thực tiễn.
Trạng thái tư duy lý luận hiện nay được đặc trưng bởi sự quan tâm ngày càng gia tăng đối với bản thân khoa học, việc khám phá các quy luật phát triển và phân tích kết quả của nó. Những bí mật, tiềm năng của khoa học không nằm trên bề mặt; việc thâm nhập vào khoa học trước hết đòi hỏi có sự hiểu biết về những quy luật mà khoa học phải tuân theo, làm thế nào để đạt được kết quả, những triển vọng để tăng cường hơn nữa sức mạnh của nó trong việc làm chủ các lực lượng tự nhiên, xã hội, tư duy và hoạt động của con người. Chính nhu cầu giải quyết những vấn đề đó đã quyết định sự chuyển hướng tư duy lý luận sang tư duy phương pháp luận. Bản thân khoa học không còn chỉ xuất hiện dưới dạng một tập hợp ý tưởng, tư tưởng, lý thuyết, khái niệm nhất định mà còn được bổ sung bởi một tập hợp các kỹ thuật, phương tiện, phương pháp tư duy khoa học, thế giới quan nhất định mà trong sự thống nhất có hệ thống của chúng tạo thành một phương pháp luận. Với khả năng này, phương pháp luận đại diện cho một tập hợp các con đường, phương pháp và hình thức hợp lý đã được thiết lập trong lịch sử của sự chuyển động của tư duy, từ sự thiếu hiểu biết đến hiểu biết, từ hiện tượng đến bản chất, từ giả định đến sự thật…
Khối lượng tri thức khoa học ngày càng gia tăng làm gia tăng yêu cầu về tính chính xác, chặt chẽ và nhất quán mang tính logic của tư duy khoa học và điều này tất yếu liên quan đến việc nghiên cứu chính quá trình nhận thức. Nếu không có sự nghiên cứu như vậy, không những không thể nắm vững khối lượng tri thức khổng lồ mà nhân loại đã tích lũy được mà còn không thể tiếp tục thâm nhập toàn diện hơn và sâu hơn vào các bí mật, khách thể, hiện tượng, quá trình đang được nghiên cứu. Mục tiêu này được thực hiện bằng phương pháp luận, tức là tư duy hướng nội. Nó hoạt động như “logic ngược”, nhờ đó logic nhận thức và cách thức tổ chức quá trình nghiên cứu được cải thiện và các công cụ của nó được phát triển.
Nhưng “logic ngược” của tìm kiếm phương pháp luận tất nhiên không sáng tạo ra các khách thể, hiện tượng và quá trình được nghiên cứu, mà trực tiếp và trực diện tuân theo logic cơ bản (khách quan) của các khách thể, hiện tượng và quá trình thực sự tồn tại và phát triển của hiện thực. Vì vậy, phương pháp luận đóng vai trò là định hướng, sợi chỉ dẫn, kim chỉ nam cho quá trình nghiên cứu. Tư duy phương pháp luận có nhiệm vụ biến cái khách quan thành cái chủ quan, cái đang nhận thức thành cái được nhận thức, các khách thể, hiện tượng có thật, đã biết thành các quá trình, hình ảnh có ý thức của chúng. Điều này mở ra cơ hội chuyển hóa các khách thể, hiện tượng và quá trình đang được nghiên cứu thành “bản chất thứ hai” của chúng. Tinh thần, không phụ thuộc vào trật tự hiện thực, nó xâm chiếm, làm gián đoạn trật tự hiện thực và có thể thay đổi trật tự đó. Suy nghĩ, cũng như cuộc sống nói chung, không thể dừng lại được. Điều nói trên đây hoàn toàn liên quan đến tri thức phương pháp luận nghiên cứu luật học với tư cách là một trong các yếu tố của luật học.
Không thể chỉ thừa nhận tri thức thực nghiệm là khoa học và phủ nhận tính chất khoa học của việc khái quát hóa ở tầm triết học về tri thức này, vì mức độ thực nghiệm (và đặc biệt là chiêm nghiệm - cảm giác) của việc nghiên cứu các khách thể, hiện tượng và quá trình pháp luật chắc chắn dẫn đến nhận thức hợp lý về chúng. Thực tế là những khái quát hóa triết học thường “gián tiếp” theo nghĩa là chúng thể hiện những gì cốt yếu nhất trong những gì các ngành khoa học khác đã biết, hoàn toàn không loại trừ tính chất khoa học của chúng. Điều này càng đúng hơn vì khoa học đã phát triển độc lập, cung cấp cơ sở phương pháp luận cho việc nghiên cứu bất kỳ khách thể, hiện tượng, quá trình nào. Nếu xã hội học pháp luật nghiên cứu các quy luật phát triển chung của các khách thể, hiện tượng và quá trình pháp luật ở phương diện bản thể luận của chúng (trong trường hợp này chúng ta đang trừu tượng hóa khỏi nghiên cứu xã hội học cụ thể, quan trọng và cần thiết trong các ngành luật học chuyên ngành), thì triết học pháp luật tập trung vào việc xác định ý nghĩa và tầm quan trọng nhận thức luận của chúng. Thực trạng luật học hiện nay đòi hỏi phải nhận thức, khám phá những bí mật về tiềm năng nhận thức luận của nó. Đây chính xác là những gì triết học pháp luật thực hiện.
Tiếc rằng, luật học nước ta chưa quan tâm đến tư duy mang tính triết học về các hiện tượng pháp luật, chưa sử dụng một cách chuyên nghiệp các phương tiện nhận thức luận tương ứng. Có lẽ chính những hoàn cảnh này đã giải thích cho thực tế là những công trình riêng biệt dành cho tư duy triết học về pháp luật trong luật học ở nước ta chưa được coi trọng. Có thể dễ
dàng dự đoán rằng, những suy ngẫm, tìm kiếm, kết luận mang tính triết học pháp luật không tìm được sự phản hồi quan tâm từ nhiều nhà luật học và độc giả. Tuy vậy, sự lạc quan và niềm tin vẫn không rời bỏ chúng ta, vì sớm hay muộn tư duy triết học pháp luật về hiện thực pháp luật chắc chắn sẽ được thể hiện. Và khi đó tư tưởng pháp luật sẽ chuyển sang việc nghiên cứu sâu hơn các vấn đề nhận thức luận về luật học.
Tính thống nhất, sự phân hóa, tính tích hợp của tri thức pháp luật
Toàn bộ tri thức pháp luật hay tri thức pháp lý đã được hình thành và đang phát triển trong phạm vi luật học được đặc trưng bởi tính toàn vẹn và thống nhất của nó. Điều đó thể hiện ở chổ luật học làm sáng tỏ khách thể duy nhất - hiện thực pháp luật, được nhận thức về mặt lý luận trên cơ sở các nền tảng khoa học thống nhất - các nguyên tắc phương pháp luận, thế giới quan đặc trưng của nó nói chung. Đồng thời, hiện thực pháp luật cần được hiểu theo nghĩa rộng, trong sự thống nhất hữu cơ giữa các hiện tượng pháp luật và thực tiễn. Từ quan điểm này, cần hiểu rằng, các quy phạm pháp luật, thực tiễn pháp lý và thực tiễn xã hội quyết định sự hình thành sự phát triển của pháp luật tạo thành khách thể nghiên cứu của luật học (1).
Luật học trong mỗi xã hội có giai cấp là tổng thể tri thức xã hội nhất định, mà về mặt khách quan, do chính nội dung của mình, có sự phân hóa nội tại nhất định. Phân hóa của luật học thể hiện ở phân loại luật học như đã được nói ở trên.
Cơ sở chính để phân loại khoa học là đặc điểm của đối tượng nghiên cứu, sự hiện diện của một hình thức vận động riêng biệt (2) của một lĩnh vực nhất định của hiện thực khách quan. Cơ sở khách quan như vậy trong lĩnh vực luật học là những yếu tố cơ bản của khách thể nghiên cứu của khoa học pháp lý (các quy luật của pháp luật; giáo điều pháp luật; kỹ thuật pháp lý) và khi nghiên cứu trực tiếp tài liệu pháp luật - các ngành luật.
Tất nhiên, phạm vi đối tượng của mỗi khoa học pháp lý bao gồm tất cả các yếu tố nội dung của hiện thực pháp luật. Không có khoa học pháp lý nào (tất nhiên, phù hợp với khả năng được xác định bởi phương pháp luận của một khoa học nhất định và mức độ phát triển của nó) sẽ không nghiên cứu các quy luật của thực tiễn pháp lý, tài liệu quy phạm trực tiếp và các vấn đề mang tính chất kỹ thuật pháp lý. Nhưng thực chất là ở chổ, trong nhóm khoa học này hay nhóm khoa học khác, một yếu tố nhất định chiếm vị trí hàng đầu và là điểm tập trung của tất cả các sự kiện khoa học.
Cơ sở khách quan khác cũng rất cần thiết cho việc phân loại khoa học là nội dung của tri thức xã hội. Đặc điểm của đối tượng nghiên cứu chỉ dẫn đến việc hình thành một khoa học đặc biệt khi chúng được thể hiện bằng những khái niệm, tư tưởng, cấu trúc lý luận, phân loại khoa học phản ánh đặc điểm của đối tượng nghiên cứu nhất định và một bộ máy khái niệm chỉnh thể được kết nối một cách tổng thể trong tất cả các bộ phận của nó.
Lịch sử phát triển của luật học cho thấy, các bộ phận cấu thành của các khoa học pháp lý được hình thành phù hợp với nhu cầu thực tiễn, trình độ, nhiệm vụ cấp bách và tính chất của việc nghiên cứu các vấn đề pháp luật. Do đó, sự hình thành và phát triển của khoa học pháp lý gắn liền với điều kiện khách quan, nhu cầu cấp thiết của đời sống xã hội, trước hết là nhu cầu của thực tiễn pháp lý và đào tạo pháp luật.
Đó là lý do tại sao, trong các bộ phận cấu thành của luật học các khoa học ngành và liên ngành được tách ra trước hết về mặt lịch sử (các khoa học đã được tách biệt liên quan đến sự hình thành các ngành khoa học này hay các ngành khoa học khác trong hệ thống, nhu cầu thực tiễn và nhu cầu đào tạo pháp luật), cũng như các khoa học ứng dụng chuyên ngành (ví dụ: điều tra tội phạm), tức là các khoa học đề cập trước hết các giáo điều pháp luật và các kỹ thuật của luật học. Hơn nữa, sự phân hoá các khoa học pháp lý đã diễn ra và hiện đang diễn ra chủ yếu phù hợp với các bộ phận phân ngành của hệ thống pháp luật theo các chu kỳ như vậy, chẳng hạn: khoa học pháp lý về nhà nước, khoa học pháp lý dân sự, khoa học pháp lý hình sự, khoa học điều tra hình sự, khoa học tố tụng.
Nhưng sự phân hóa của khoa học pháp lý càng sâu sắc thì nhu cầu về một quá trình đối kháng - sự tích hợp tri thức pháp luật càng trở nên cấp thiết hơn. Và nhìn chung, nhu cầu của thực tiễn xã hội đòi hỏi phải tập trung sự quan tâm trực tiếp vào các quy luật của hiện thực pháp luật. Điều này giải thích về sự xuất hiện của các khoa học lý luận chung (lý luận - lịch sử). Hơn nữa, ở đây cũng vậy, phù hợp với tính đặc thù của luật học, ban đầu ở Tây Âu và Nga vào thế kỷ XVIII-XIX đã hình thành lý luận thực chứng chung, tức là một lĩnh vực khái quát hóa tri thức pháp luật, chủ yếu đề cập đến giáo điều pháp luật. Theo đó, ngày càng tách biệt khỏi triết học và xã hội học, triết học pháp luật và xã hội học pháp luật bắt đầu hình thành trong luật học, đan xen và tích hợp với lý luận pháp luật thực chứng chung. Cần phải khẳng định rằng, triết học pháp luật “mở rộng sang lý luận pháp luật” và sau đó nó trở nên đồng nhất, ngang bằng với khoa học pháp luật nói chung, chính xác là dựa trên thực tế là về mặt lý thuyết nắm vững luật thực chứng hiện có (3).
Khoa học hiện đại đang phát triển nhờ sự tích hợp, sáp nhập, thống nhất của các ngành khoa học khác nhau và các công cụ nhận thức của chúng. Quá trình này dần dần bao trùm cả khoa học pháp lý, dẫn đến những kết quả tốt đẹp, xuất hiện nhiều định hướng nghiên cứu và phương pháp luận mới và độc đáo tại sự giao thoa của các ngành khoa học.
Không thể nhận thức toàn diện về pháp luật, thâm nhập sâu vào các hiện tượng và quá trình phức tạp của nó chỉ trong khuôn khổ chủ nghĩa giáo điều pháp luật. Các quan niệm pháp lý kiểu như “học thuyết pháp luật thuần túy” đang trở nên lỗi thời. Chỉ trong sự thống nhất và gắn kết hữu cơ với các quy luật và xu hướng phát triển của xã hội nói chung thì các hệ thống pháp luật, chế định và các mối quan hệ pháp luật đáp ứng nhu cầu hiện đại của tiến bộ xã hội mới được nhận thức và giải thích, phát triển và biến đổi. Điều này đòi hỏi không chỉ có tầm nhìn pháp lý hạn hẹp mà còn có tầm nhìn rộng lớn hơn nhiều, trước hết là tầm nhìn triết học và xã hội học, lịch sử và kinh tế, chính trị học và tâm lý học, đạo đức học và giá trị học (4). Do đó, nhu cầu khách quan, tất yếu và cấp bách của thời đại chúng ta là sự hợp tác của tất cả các ngành khoa học xã hội nhằm đạt được nhận thức toàn diện, sáng tạo về các khách thể xã hội, bao gồm cả các khách thể pháp luật.
Như vậy, tính thống nhất, sự phân hóa, tính tích hợp của tri thức pháp luật là những thuộc tính nội tại của luật học, có mối liên hệ biện chứng với nhau, đồng thời là những tính quy luật phát triển của luật học. Trong quá trình phát triển, tính thống nhất, sự phân hóa, tính tích hợp của tri thức pháp luật ngày càng được nâng lên nấc thang, trình độ cao hơn, đòi hỏi phải có trình độ phương pháp luận nghiên cứu tương ứng, thể hiện mối quan hệ biện chứng giữa tính thống nhất, sự phân hóa, tính tích hợp của tri thức pháp luật và phương pháp luận nghiên cứu của luật học.
Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học
Nhận thức, tư duy về khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học là nhận thức, tư duy về việc luật học nghiên cứu cái gì?
Khách thể nghiên cứu của luật học là vấn đề có ý nghĩa nhận thức phương pháp luận rất quan trọng nhưng chưa được quan tâm đúng mức trong sách báo pháp lý nước ta. Đây là một hạn chế cần được khoa học pháp lý nước ta sớm khắc phục.
Khi nhận thức vấn đề về khách thể nghiên cứu của luật học chúng ta không thể không đề cập đến chủ thể nghiên cứu của luật học. Khách thể và chủ thể của nhận thức có mối quan hệ biện chứng với nhau, khách thể của nhận thức là cái mà chủ thể nhận thức hướng đến, chủ thể của nhận thức phản ánh khách thể nhận thức.
Hiện nay trong sách báo pháp lý có những quan điểm khác nhau về khách thể nghiên cứu của luật học. Có lẽ đây là điều bình thường.
Trên cơ sở nghiên cứu, chúng tôi cho rằng, khách thể nghiên cứu của luật học là hiện thực pháp luật, đời sống pháp luật - một bộ phận của hiện thực khách quan.
Khách thể nghiên cứu của luật học gồm ba nội dung hay ba bộ phận cấu thành:
a) Pháp luật với tư cách là một hệ thống các quy phạm được nhà nước thiết lập hoặc phê chuẩn.
b) Tất cả các hiện tượng, thể chế, thiết chế pháp luật, theo bản chất và tính chất của mình, gắn liền trực tiếp với pháp luật, theo một nghĩa nào đó phái sinh và phụ thuộc vào pháp luật, cũng như trong sự tồn tại và hoạt động hàng ngày của chúng có tác động trực tiếp hoặc gián tiếp đến pháp luật. Đó là: văn hóa pháp luật, ý thức pháp luật, hệ tư tưởng pháp luật, quan hệ pháp luật, hành vi hợp pháp, hành vi vi phạm pháp luật, pháp chế, trật tự pháp luật.
c) Các bộ phận của hiện thực xã hội có mối liên hệ và tương tác trực tiếp với pháp luật, đó là: các yếu tố chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và các hiện tượng khác có mối liên hệ trực tiếp với các hiện tượng, thể chế và thiết chế pháp luật, làm trung gian, trung chuyển và có tác động trực tiếp đến pháp luật.
Giữa khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học có mối quan hệ lẫn nhau và sự tương tác lẫn nhau, thể hiện ở chỗ:
Thứ nhất, phạm trù “khách thể nghiên cứu của luật học”, bao trùm rất rộng lớn các hiện tượng, quá trình, tư tưởng, lý luận, thể chế, thiết chế pháp luật và phi pháp luật, là nền tảng ban đầu, là nguồn tư liệu xuất phát điểm để nghiên cứu đối tượng của luật học.
Thứ hai, khách thể nghiên cứu của luật học, hay chính xác hơn là nội dung nghiên cứu của nó, không chỉ được xem xét trong trạng thái tĩnh mà còn trong trạng thái động, đóng vai trò như một định hướng trong việc xác định rõ hơn và nghiên cứu đối tượng của nó.
Thứ ba, khách thể nghiên cứu của luật học, sự phân định rõ ràng và nhất quán nó với đối tượng nghiên cứu của luật học, “cung cấp các tiêu chí khách quan để công nhận một khối tri thức khoa học cụ với tư cách là một lĩnh vực độc lập của luật học” (5). Ở đây muốn nói về sự phân chia luật học ở mức khái quát nhất thành ba ngành khoa học pháp lý độc lập hoặc độc lập tương đối, đó là lý luận chung về pháp luật (lý luận pháp lý chuyên ngành), triết học pháp luật và xã hội học pháp luật.
Xác định đối tượng nghiên cứu của luật học có nghĩa là xác định phạm vi của các hiện tượng xã hội và các hiện tượng khác, các thể chế và thiết chế mà nó nghiên cứu. Đối tượng nghiên cứu của luật học là phương diện hay lát cắt của hiện thực pháp luật, đời sống pháp luật được chọn làm khởi điểm của nghiên cứu.
Nhìn một cách tổng quát, đó là các quy luật chung về sự ra đời, hình thành, vận động và phát triển của pháp luật ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Các quy luật đó là hạt nhân của đối tượng nghiên cứu của luật học. Hay nói cách khác, hạt nhân của đối tượng nghiến cứu của luật học là các quy luật chung về sự ra đời, hình thành, vận động và phát triển của pháp luật ở các cấp độ, phạm vi khác nhau. Đối tượng nghiên cứu của luật học được nhận thức cả ở trạng thái tĩnh lẫn ở trạng thái động. Đối tượng nghiên cứu của luật học luôn luôn phát triển. Đối tượng nghiên cứu của luật học được hiểu cả ở cấp độ luật học chung và các luật học cụ thể.
Đối tượng nghiên cứu của luật học có những nội dung cơ bản sau đây:
- Các thuộc tính, dấu hiệu đặc trưng, hình thức, bản chất, nội dung và đặc điểm của pháp luật.
- Vị trí, vai trò của pháp luật trong đời sống xã hội và hệ thống chính trị.
- Pháp luật, ý thức pháp luật, tính hợp pháp và hợp hiến.
- Quá trình lập pháp và các giai đoạn của nó.
- Thực hiện pháp luật và hình thức thực hiện pháp luật.
- Hành vi hợp pháp, hành vi vi phạm pháp luật và trách nhiệm pháp lý.
- Pháp chế, trật tự pháp luật.
- Những vấn đề khác.
Như vậy, khách thể nghiên cứu của luật học là hiện thực pháp luật hay đời sống pháp luật với tư cách là một hiện thực hay đời sống trong xã hội. Đối tượng nghiên cứu của luật học là các quy luật ra đời, hình thành và phát triển của pháp luật ở các cấp độ khác nhau. Xác định đối tượng nghiên cứu của luật học là xác định phạm vi của các hiện tượng xã hội và các hiện tượng khác, các thể chế và thiết chế mà luật học nghiên cứu. Khách thể nghiên cứu của luật học là một phạm trù rộng, còn đối tượng nghiên cứu của luật học là phạm trù hẹp hơn, cụ thể hơn thuộc khách thể nghiên cứu của luật học. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của luật học có mối liên hệ biện chứng với nhau. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của luật học có mối liên hệ biện chứng với phương pháp luận nghiên cứu của luật học. Khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của luật học quyết định sự hình thành và sử dụng phương pháp luận nghiên cứu của luật học, đến lượt mình, phương pháp luận nghiên cứu của luật học tác động trở lại khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học theo hướng góp phần làm sáng tỏ khách thể nghiên cứu và đối tượng nghiên cứu của luật học. Tri thức thu nhận được về khách thể, đối tượng nghiên cứu của luật học và tri thức về phương pháp luận nghiên cứu của luật học có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Khái quát về phương pháp luận nghiên cứu của luật học Luật học không chỉ có khách
thể và đối tượng nghiên cứu mà còn có phương pháp luận nghiên cứu. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học đưa ra câu trả lời cho câu hỏi khoa học này nghiên cứu lĩnh vực nào của đời sống chính trị - xã hội và pháp luật. Phương pháp luận cho biết khoa học đó thực hiện điều này như thế nào, bằng cách nào.
Phương pháp luận nghiên cứu của luật học có vai trò, tầm quan trọng đặc biệt, thể hiện ở chổ giúp thâm nhập, hiểu biết sâu hơn, toàn diện, đầy đủ hơn về hiện thực pháp luật, đời sống pháp luật; tri thức về phương pháp luận nghiên cứu của luật học giữ vai trò “dẫn đường” trong hệ thống tri thức về pháp luật.
Phương pháp luận nghiên cứu của luật học là một bộ phận không thể thiếu của mỗi khoa học về pháp luật, là học thuyết về các phương pháp được sử dụng trong mỗi khoa học ấy, nghĩa là mỗi khoa học về pháp luật đều có phương pháp luận của mình. Phương pháp luận nghiên cứu của luật học là hệ thống các kỹ thuật, nguyên tắc và cách thức đặc biệt để nghiên cứu những quy luật chung về sự ra đời, hình thành và phát triển của các hiện tượng pháp luật.
Phương pháp luận nghiên cứu luật của học có các nội dung hay các bộ phận cấu thành sau đây: Thế giới quan pháp luật, lý luận về các phương pháp nghiên cứu của luật học, hệ thống các kỹ thuật, nguyên tắc và cách thức nghiên cứu của luật học.
Thế giới quan pháp luật là hệ thống tổng quát những quan điểm của con người về thế giới pháp luật (toàn bộ sự kiện, hiện tượng và quá trình pháp luật), về vị trí của con người trong thế giới đó và về những quy tắc xử sự do con người đề ra trong thực tiễn xã hội.
Thế giới quan của người nghiên cứu luật học là khái niệm mang một ý nghĩa khác, hẹp hơn, có thể nói là có ý nghĩa nghề nghiệp, bao gồm ba yếu tố cấu thành có mối liên hệ qua lại với nhau: thứ nhất, thái độ chung đối với khách thể của nhận thức, phụ thuộc chủ yếu vào vị trí, vai trò của người nghiên cứu trong đời sống xã hội; thứ hai, thái độ nghề nghiệp đối với các khách thể của nhận thức, được xác định bởi nhà nghiên cứu thuộc một trường phái khoa học hoặc định hướng khoa học cụ thể; thứ ba, các phương pháp, biện pháp, phương tiện được nhà khoa học lựa chọn để nhận thức các khách thể liên quan. Thế giới quan pháp luật có cấu trúc phức tạp, bao gồm nhiều yếu tố, trong đó hạt nhân là tri thức pháp luật. Trong thế giới quan pháp luật, những quan điểm triết học pháp luật, khoa học pháp lý chuyên ngành, chính trị, đạo đức, thẩm mỹ và đôi khi cả quan điểm tôn giáo đóng vai trò quan trọng nhất.
Tính chất và nội dung của thế giới quan pháp luật được quyết định chủ yếu bởi những quan điểm của triết học pháp luật. Vấn đề cơ bản trong thế giới quan pháp luật là mối quan hệ giữa vật chất pháp luật và ý thức pháp luật.
Tùy theo cách giải quyết vấn đề về mối quan hệ giữa ý thức pháp luật và vật chất pháp luật mà thế giới quan pháp luật được phân thành hai loại thế giới quan pháp luật cơ bản: Thế giới quan pháp luật duy vật và thế giới quan pháp luật duy tâm.
Trong xã hội có giai cấp, thế giới quan pháp luật mang tính giai cấp, về nguyên tắc, thế giới quan pháp luật của giai cấp thống trị là thế giới quan pháp luật thống trị; nó chi phối xã hội và lấn át thế giới quan pháp luật của các giai cấp khác. Ngoài ra, thế giới quan pháp luật còn mang bản chất xã hội, phản ánh quan điểm của xã hội về pháp luật. Trong quá trình phát triển, thế giới quan pháp luật tích hợp tính giai cấp và tính xã hội.
Thế giới quan pháp luật không chỉ là sự tổng hợp lý luận và ý nghĩa nhận thức mà còn rất quan trọng về mặt thực tiễn, nó làm kim chỉ nam cho hành động con người trong lĩnh vực pháp luật. Có thế giới quan pháp luật như thế nào thì con người hành động như thế ấy trong lĩnh vực pháp luật.
Lý luận về các phương pháp nghiên cứu của luật học luận giải hệ thống các phương pháp nghiên cứu của luật học.
Phương pháp nghiên cứu của luật học là hệ thống các nguyên tắc vận dụng những nguyên lý, lý luận phản ánh hiện thực pháp luật khách quan, nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người trong lĩnh vực pháp luật.
Về nội dung, phương pháp nghiên cứu của luật học có tính chất khách quan, do bản chất và đặc điểm của khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học quyết định, đã được đúc kết thành lý luận phản ánh nó.
Về hình thức, phương pháp nghiên cứu của luật học có tính chủ quan, bởi vì phương pháp chỉ tồn tại trong đầu óc con người, nghĩa là trong hoạt động có ý thức, chứ không tồn tại ở bên ngoài và độc lập với con người.
Phương pháp nghiên cứu của luật học bao gồm các loại: 1) Phương pháp phổ biến được áp dụng trong tất cả các khoa học pháp lý và trong hoạt động thực tiễn, đó là phương pháp biện chứng; 2) Phương pháp khoa học chung là phương pháp được áp dụng trong một số khoa học pháp lý; 3) Phương pháp khoa học riêng là phương pháp chỉ được áp dụng trong một khoa học pháp lý nhất định.
Phép biện chứng là phương pháp luận để nhận thức khoa học về pháp luật. Phép biện chứng, theo quan niệm đã được hình thành từ lâu đời và hiện nay đã trở thành ổn định, là hệ thống các quan điểm và học thuyết khoa học về những quy luật phát triển phổ biến nhất của tự nhiên, xã hội và tư duy. Có tính chất phổ biến, phép biện chứng tất nhiên được mở rộng một cách trực tiếp nhất đến mọi phương diện của đời sống pháp luật, cũng như đến toàn bộ pháp luật.
Phương pháp biện chứng là phương pháp xem xét sự kiện, hiện tượng và quá trình pháp luật trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển không ngừng. Đó là nguyên tắc/nguyên lý về mối liên hệ phổ biến, vận động và phát triển gắn liền với khách thể nghiên cứu của luật học.
Mỗi nguyên tắc/nguyên lý này giúp khám phá pháp luật từ một góc độ hay phương diện nhất định: nguyên tắc về mối liên hệ phổ biến cho phép chúng ta nghiên cứu pháp luật ở các giai đoạn tiến hóa khác nhau ở trạng thái tương đối không thay đổi, từ quan điểm tĩnh, trong khi nguyên tắc phát triển giúp nghiên cứu chúng một cách toàn diện trong tính động. Cùng với nhau, những nguyên tắc này giúp tạo ra một bức tranh thống nhất phản ánh tương ứng khách thể được nghiên cứu - bức tranh đời sống pháp luật, hiện thực pháp luật.
Phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất, áp dụng cho mọi ngành luật học là phương pháp luận triết học. Phương pháp biện chứng duy vật có những tính chất ưu việt, đáp ứng được đầy đủ nhất các yêu cầu của khoa học hiện đại, vì vậy nó là cơ sở để xây dựng phương pháp luận của luật học đúng đắn và đồng thời bản thân nó là phương pháp luận chung nhất, phổ biến nhất của mọi khoa học, trong đó có luật học. Phương pháp luận nghiên cứu của luật học bao gồm các cấp độ khác nhau: Triết học pháp luật và cấp độ lý luận chung về pháp luật.
Triết học pháp luật đóng vai trò là các chức năng phương pháp luận rất quan trọng trong nghiên cứu luật học. Đó là các phạm trù của triết học được sử dụng trong nghiên cứu luật học. Cụ thể là các phạn trù như: Phản ánh và phản ánh vượt trước trong pháp luật, lịch sử và logic trong pháp luật, cái cụ thể và cái trừu tượng trong pháp luật, hiện tượng pháp luật và bản chất của pháp luật, nội dung và hình thức của pháp luật, cấu trúc và các yếu tố của pháp luật, cái riêng và cái chung trong pháp luật, cái tổng thể và cái bộ phận trong pháp luật, tính hệ thống, tính tổng thể, hệ thống hoá trong pháp luật, hiện thực và khả năng trong pháp luật, mục tiêu, phương tiện, dự báo trong pháp luật, lý luận và thực tiễn về pháp luật và các phạm trù, khái niệm khác (6).
Lý luận chung về pháp luật là phương pháp luận cho các nghiên cứu luật học ở cấp thấp hơn. Đó là: Lý luận pháp luật thực chứng hay lý luận pháp lý chuyên ngành (7) (hệ thống tri thức về pháp luật thực chứng), lý luận xã hội học pháp luật (8) (hệ thống tri thức về xã hội học pháp luật), lý luận luật học so sánh (9) (hệ thống tri thức về luật học so sánh), lý luận chính sách pháp luật (10) (hệ thống tri thức về chính sách pháp luật), lý luận quyền con người (11) (hệ thống tri thức về quyền con người) và các lý luận khác về pháp luật (12) (các hệ thống tri thức khác về pháp luật).
Phương pháp khoa học chung bao gồm các phương pháp: Phương pháp trừu tượng khoa học, phương pháp phân tích và tổng hợp, phương pháp quy nạp và diễn dịch, phương pháp phân tích hệ thống, phương pháp phân tích cấu trúc - chức năng, phương pháp toán học (điều khiển học).
Phương pháp khoa học riêng bao gồm các phương pháp: phương pháp pháp lý hình thức (lôgic hình thức), phương pháp giải thích pháp luật (quy phạm), phương pháp phân tích quy phạm, phương nghiên cứu pháp lý - xã hội (các phương pháp xã hội học), phương pháp so sánh pháp luật.
Phương pháp luận nghiên cứu của luật học và khách thể, đối tượng nghiên cứu của luật học có mối liên hệ biện chứng với nhau, gắn liền với nhau, tương tác với nhau. Phương pháp luận nghiên cứu của luật học nói chung và các phương pháp cụ thể đều được chính khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học quyết định. Khách thể và đối tượng nghiên cứu của luật học, như phân tích ở trên, quyết định sự hình thành phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của luật học. Đây là yếu tố khách quan. Tuy nhiên, yếu tố chủ quan cũng đóng vai trò quan trọng. Vai trò đó thể hiện ở khả năng và năng lực của nhà nghiên cứu trong việc nghiên cứu các phương pháp mới hoặc sử dụng các phương pháp nghiên cứu cũ, hiệu quả nhất để nghiên cứu vấn đề (13).
Phương pháp luận còn bao gồm hệ thống các kỹ thuật, nguyên tắc và cách thức nghiên cứu của luật học.
Mối quan hệ giữa phương pháp luận và cách tiếp cận nghiên cứu của luật học
Phương pháp luận nghiên cứu và cách tiếp cận nghiên cứu của luật học có mối liên hệ biện chứng với nhau, tương tác, bổ sung cho nhau. Cách tiếp cận nghiên cứu của luật học được xác định dựa vào và xuất phát từ sự nhận thức về phương pháp luận nghiên cứu, triển khai thực hiện phương pháp luận nghiên cứu của luật học trên một phương diện tiếp cận nhất định, đồng thời mỗi cách tiếp cận nghiên cứu luật học là một hướng nghiên cứu tạo ra các tri thức để bổ sung vào việc nhận thức sâu sắc hơn, toàn diện hơn, đầy đủ hơn về phương pháp luận nghiên cứu của luật học. Ở một nghĩa nhất định, cách tiếp cận nghiên cứu của luật học là một bộ phận của phương pháp luận nghiên cứu của luật học. Tri thức về phương pháp luận nghiên cứu và tri thức về tiếp cận nghiên cứu luật học đều là những tri thức luật học, bổ sung cho nhau, làm phong phú lẫn nhau.
Nghiên cứu luật học diễn ra theo một logic nhất định. Dưới dạng khái quát nhất, logic đó thường diễn ra theo con đường: hình thành tư tưởng/ý tưởng nghiên cứu > định hình khách thể, đối tượng nghiên cứu > xác định phương pháp luận nghiên cứu (bao gồm xác định phương pháp nghiên cứu) > xác định cách tiếp cận nghiên cứu > hình thành định hướng nghiên cứu > hình thành tri thức về khách thể, đối tượng, định hướng nghiên cứu > xây dựng nên lý luận tương ứng > ứng dụng lý luận vào thực tiễn, kiểm chứng trong thực tiễn > và ngược lại.
Cách tiếp cận nghiên cứu của luật học dưới dạng khái quát nhất được hiểu là cách thức tiến hành nghiên cứu luật học từ quan điểm, phương diện nhất định hay nhiều quan điểm, phương diện đối với khách thể, đối tượng nghiên cứu của luật học. Quan điểm, phương diện đó được xác định ở tầm khái quát nhất như: Cách tiếp cận chuyên ngành, cách tiếp cận đa ngành, cách tiếp cận liên ngành, cách tiếp cận xuyên phương diện, cách tiếp cận tích hợp.
Luật học phát triển là luật học đẩy mạnh các cách tiếp cận nghiên cứu chuyên ngành, đa ngành, liên ngành, xuyên ngành, tích hợp trong nghiên cứu và đào tạo pháp luật. Cụ thể đó là các cách tiếp cận như: tiếp cận luật học thực chứng/ thực định/pháp lý chuyên ngành; tiếp cận triết học pháp luật; tiếp cận dựa trên quyền, trong đó có nhân học pháp quyền; tiếp cận xã hội học pháp luật; tiếp cận chính sách pháp luật; tiếp cận so sánh luật học so sánh; tiếp cận tâm lý học pháp luật; tiếp cận kinh tế học pháp luật; tiếp cận lịch sử pháp luật; tiếp cận văn hóa học pháp luật; và cách các tiếp cận nghiên cứu khác. Tiếp cận nghiên cứu đa ngành, liên ngành, xuyên ngành, tích hợp có thể được tiến hành ở các cấp độ: quốc gia, khu vực, toàn cầu và ở các phạm vi: quy phạm, chế định, tiểu ngành luật, ngành luật, lĩnh vực pháp luật, hệ thống pháp luật.
Mỗi cách tiếp cận nghiên cứu đều có bộ phận khách thể nghiên cứu, phạm vi đối tượng nghiên cứu, phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu tương ứng của mình, tạo thành một định hướng nghiên cứu, hình thành nên một hệ thống tri thức lý luận và thực tiễn, có nội dung và cấu trúc nhất định.
Các cách tiếp cận nghiên cứu đó của luật học tạo ra hệ thống tri thức chuyên ngành, đa ngành, liên ngành, xuyên ngành, tích hợp về pháp luật, vừa nói lên tính thống nhất trong đa dạng, sự phân hóa của luật học cũng như sự tích hợp tất yếu của tri thức về pháp luật. Như vậy, tri thức về pháp luật hay tri thức luật học là một quá trình ga tăng bảo đảm tính thống nhất, sự phân hóa và tích hợp. Tri thức tích hợp về luật học dẫn đến hình thành luật học tích hợp.
Mối quan hệ giữa cách tiếp cận nghiên cứu, lý luận pháp luật và phương pháp nghiên cứu của luật học
Trong mọi lĩnh vực khoa học, trong đó có luật học, giữa cách tiếp cận nghiên cứu, lý luận và phương pháp nghiên cứu bao giờ cũng có mối liên hệ biện chứng. Mục trên đã nói về mối quan hệ giữa phương pháp luận và cách tiếp cận nghiên cứu của luật học, ở đây nói về mối quan hệ giữa cách tiếp cận nghiên cứu, lý luận pháp luật và phương pháp nghiên cứu của luật học với tư cách là mối liên hệ, sự phát triển tiếp theo về biện chứng phương pháp luận nghiên cứu của luật học. Cách tiếp cận nghiên cứu luật học quyết định sự hình thành lý luận pháp luật, lý luận pháp luật quyết định nội dung của phương pháp song bản thân lý luận chưa phải là phương pháp; lý luận được vận dụng thành những nguyên tắc mới trở thành phương pháp nghiên cứu của luật học.
Phương pháp là kỹ thuật hoặc cách thức nghiên cứu hiện thực và thu được tri thức khách quan về nó, là hệ thống các nguyên tắc vận dụng những nguyên lý, lý luận phản ánh hiện thực khách quan, nhằm chỉ đạo hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn của con người. Về nguyên tắc, phương pháp là lý luận đã được thực tiễn xác nhận và hướng trở lại ngay thực tiễn nghiên cứu. Phương pháp có hai đặc trưng cơ bản: 1) Có nội dung khách quan sâu sắc, do bản chất và đặc điểm của khách thể nghiên cứu quyết định đã được đúc kết thành lý luận phản ánh nó; 2) Về hình thức, phương pháp có tính chủ quan, bởi vì phương pháp chỉ tồn tại trong đầu óc con người, nghĩa là trong hoạt động có ý thức, chứ không tồn tại ở bên ngoài và độc lập với con người. Phương pháp đúng đắn xuất phát từ lý luận khoa học đúng đắn và đã được thực tiễn kiểm nghiệm. Có phương pháp đúng, nhưng chưa chắc đưa đến kết quả tốt, bởi vì kết quả phụ thuộc vào kinh nghiệm sử dụng và nghệ thuật vận dụng phương pháp của con người (14).
Phương pháp biện chứng, như phân tích ở trên, là phương pháp xem xét sự vật và hiện tượng trong mối liên hệ phổ biến, trong sự vận động và phát triển không ngừng. Phương pháp biện chứng bao gồm hệ thống các nguyên tắc hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thế giới hiện thực của con người xuất phát từ lý luận biện chứng. Lý luận biện chứng là cơ sở, là hạt nhân lý luận của phương pháp biện chứng, chứ không phải là bản thân phương pháp biện chứng. Phương pháp biện chứng rút ra từ lý luận biện chứng những nguyên lý cần thiết và quan trọng nhất, thể hiện chúng dưới dạng một hệ thống các nguyên tắc, hướng dẫn, điều chỉnh, các yêu cầu mà chủ thể bắt buộc phải tuân theo trong hoạt động nhận thức và hoạt động cải tạo thực tiễn để có thể đạt đến mục đích một cách tối ưu nhất. Lý luận biện chứng được vận dụng vào phương pháp biện chứng nghiên cứu tự nhiên và xã hội. Chẳng hạn, lý luận biện chứng quan niệm xã hội là một cơ thể sống đang vận động và phát triển không ngừng, chứ không phải là một cái gì đó được kết thành một cách máy móc, không vận động và biến đổi. Phương pháp biện chứng đã áp dụng nguyên lý đó vào nghiên cứu xã hội, thể hiện thành những nguyên tắc, những yêu cầu cụ thể như cần phải phân tích một cách khách quan những quan hệ sản xuất cấu thành một hình thái xã hội nhất định, cần phải nghiên cứu những quy luật vận động và phát triển của hình thái kinh tế - xã hội đó, cần phải nghiên cứu động lực phát triển của nó, ...
Nói về phương pháp nghiên cứu của luật học, cần lưu ý rằng, trên thực tế, không một ngành khoa học, đào tạo nào bị giới hạn và không thể bị giới hạn bởi việc chỉ sử dụng một phương pháp nào đó, kể cả phương pháp “bao quát rộng rãi” hay “bao trùm tất cả”, như người ta thường gọi, đó là phương pháp biện chứng. Cùng với nó và ngoài nó, nhiều phương pháp khác được sử dụng rộng rãi trong quá trình nhận thức - phương pháp phổ biến, cụ thể, chuyên ngành và các phương pháp khác.
Do đó, những cái tên như “phương pháp nghiên cứu của luật học” hay phương pháp của bất kỳ ngành khoa học nào khác phải được coi là có điều kiện ở một mức độ nhất định, khái quát hóa quá trình sử dụng các kỹ thuật và phương pháp nhận thức khác nhau trong phạm vi môn học đó và đồng thời chỉ ra rằng trong hệ thống các phương pháp được sử dụng trong quá trình nhận thức về pháp luật hoặc vấn đề khác, phương pháp đó chiếm vị trí hàng đầu với tư cách là phương pháp cơ bản, chủ đạo.
Mỗi cách tiếp cận nghiên cứu của luật học, ngoài phương pháp luận chung đều có các phương pháp nghiên cứu tương ứng của mình.
Tiếp cận nghiên cứu triết học về pháp luật dựa trên các phương pháp, nguyên tắc, phạm trù, khái niệm triết học để luận giải về pháp luật với tư cách là một hiện thực của thế giới khách quan, thế giới pháp luật. Đó là, như nói ở trên, các nguyên tắc nhận thức chung, các phạm trù của triết học như: nguyên tắc nghiên cứu toàn diện về pháp luật, nguyên tắc lịch sử trong nghiên cứu pháp luật, nguyên tắc tổng hợp/tích hợp trong nghiên cứu pháp luật, nguyên tắc tất cả thực tiễn đã được hình thành trong quá trình vận động của các hiện tượng pháp luật, tất cả kinh nghiệm tích lũy trong quá trình này, tất cả những đặc điểm và đặc trưng vốn có trong thực tiễn phải được tính đến và phản ánh một cách thích hợp trong các phạm trù và khái niệm được sử dụng, các phạm trù như đã nói ở trên là: Phản ánh và phản ánh vượt trước trong pháp luật, lịch sử và logic trong pháp luật, cái cụ thể và cái trừu tượng trong pháp luật, hiện tượng pháp luật và bản chất của pháp luật, nội dung và hình thức của pháp luật, cấu trúc và các yếu tố của pháp luật, cái riêng và cái chung trong pháp luật, cái tổng thể và cái bộ phận trong pháp luật, tính hệ thống, tính tổng thể, hệ thống hoá trong pháp luật, hiện thực và khả năng trong pháp luật, mục tiêu, phương tiện, dự báo trong pháp luật, lý luận và thực tiễn về pháp luật (15).
Tiếp cận nghiên cứu xã hội học về pháp luật dựa trên các phương pháp, nguyên tắc, phạm trù, khái niệm của xã hội học để luận giải về pháp luật với tư cách là một hiện tượng xã hội, một hiện thực xã hội. Đó là các nguyên tắc của chủ nghĩa duy vật lịch sử, mối quan hệ giữa cơ sở hạ tầng và kiến trúc thượng tầng, mối quan hệ giữa cấu trúc xã hội và cấu trúc pháp luật, mối quan hệ giữa ý thức xã hội và ý thức pháp luật, các phương pháp nghiên cứu của xã hội học pháp luật như: các phương pháp nghiên cứu định tính và nghiên cứu định lượng, quan sát, nghiên cứu các nguồn tài liệu, thăm dò dư luận (điều tra xã hội học), thực nghiệm, tổng kết thông tin thực nghiệm và các phương pháp khác, cũng như cách thức tổ chức nghiên cứu pháp lý - xã hội (16). Tiếp cận nghiên cứu so sánh về pháp luật dựa trên các phương pháp, nguyên tắc, phạm trù, khái niệm của luật học so sánh và phương pháp so sánh để luận giải về pháp luật của các quốc gia, họ pháp luật khác nhau. So sánh pháp luật vừa là một khoa học vừa là một phương pháp. Phương pháp so sánh trong quá trình nhận thức sự vật pháp luật là một trong những bộ phận cấu thành quan trọng nhất, một thành tố không thể thiếu, thuộc tính của luật học so sánh. Xuất phát từ mối liên hệ nội tại không thể tách rời và sự thống nhất giữa phương pháp so sánh và luật học so sánh, nói thể nói rằng phần lớn những gì “gắn” trong phương pháp so sánh cũng hàm chứa trong luật học so sánh và ngược lại (17). Nghiên cứu so sánh các hệ thống pháp luật giúp có thể phân tích sâu hơn và toàn diện hơn, trước hết là bản thân các hệ thống pháp luật quốc gia, để xác định và nghiên cứu những đặc điểm, mặt tích cực và tiêu cực của chúng nhằm xác định sâu hơn và rõ ràng hơn bản chất của chúng, từ đó xác lập chính xác hơn các đặc điểm vận động và xu hướng phát triển của chúng.
Trong hệ thống các phương pháp nhận thức hiện thực pháp luật, đời sống pháp luật, các nguyên tắc của phương pháp so sánh pháp luật và luật học so sánh có vai trò quan trọng.
Trong phương pháp so sánh pháp luật và luật học so sánh, các nguyên tắc đóng vai trò là những tư tưởng và luận điểm cơ bản, xuyên suốt mọi vấn đề pháp lý so sánh. Đó là các nhóm nguyên tắc liên quan đến quá trình hình thành và phát triển của phương pháp so sánh pháp luật và luật học so sánh, cấu trúc, chức năng bên trong của chúng, cũng như chính quá trình so sánh làm cơ sở cho sự ra đời của luật học so sánh(18). Các nguyên tắc cơ bản của quá trình so sánh là các nguyên tắc xuất phát điểm, nền tảng, trên cơ sở đó luật học so sánh ra đời và phát triển.
Trước hết, đó là nguyên tắc về tính so sánh được các hiện tượng, thể chế và thiết chế đang được xem xét. Bản chất của nguyên tắc này là trong quá trình chuẩn bị và tiến hành các nghiên cứu so sánh pháp luật, yêu cầu phải được tuân thủ nghiêm ngặt là đối tượng so sánh phải “có thể so sánh được”, hay nói cách khác, giữa chúng phải có mối liên hệ trực tiếp với nhau(19).
Tiếp đến, nguyên tắc làm cơ sở cho sự xuất hiện và phát triển của luật học so sánh là nguyên tắc tương xứng chặt chẽ giữa các cấp độ, hình thức và loại yếu tố khác nhau của các hệ thống so sánh. Bản chất và nội dung của nguyên tắc này thể hiện ở việc đảm bảo rằng trong quá trình so sánh các hệ thống pháp luật, quy tắc được tuân thủ nghiêm ngặt, theo đó chỉ có các hiện tượng, thể chế và thiết chế cùng một trật tự, được thực hiện dưới các hình thức tương ứng và được xem xét ở các cấp độ thích hợp. Do vậy, sẽ không thể mong đợi những kết quả tích cực rõ ràng ngay cả khi các yếu tố được so sánh được xem xét ở các cấp độ khác nhau dưới các hình thức và loại khác nhau. Các nghiên cứu so sánh pháp luật được tiến hành ở cấp độ vĩ mô, vi mô và“cấp độ trung bình”, theo loại và hình thức so sánh “đồng bộ” và “không đồng bộ”, “so sánh nhị phân”.
Những nguyên tắc của quá trình so sánh nêu trên, làm cơ sở bảo đảm tính hiệu quả của phương pháp so sánh, cũng như sự ra đời và phát triển của luật học so sánh, được bổ sung bởi nhiều nguyên tắc khác. Trong đó có nguyên tắc cân nhắc toàn diện các điều kiện lịch sử, dân tộc, kinh tế, chính trị - xã hội và các điều kiện khác, trong đó các quy phạm pháp luật, các chế định, các ngành và hệ thống pháp luật được so sánh ra đời và phát triển; xác định không chỉ những đặc điểm, đặc trưng chung của các hệ thống pháp luật được so sánh mà còn cả những đặc điểm của chúng cũng như những đặc điểm riêng đặc trưng của từng hệ thống pháp luật; xác định các đặc điểm và dấu hiện cơ bản và không cơ bản của các hệ thống được so sánh; nghiên cứu so sánh các vấn đề pháp lý không chỉ ở dạng tĩnh mà còn ở dạng động… Là một bộ phận không thể thiếu của luật học so sánh và dựa trên một số nguyên tắc chung, phương pháp so sánh pháp luật có vai trò chức năng và phương pháp luận rất quan trọng trong cấu trúc và nội dung của nó.
Một trong những chức năng quan trọng nhất của phương pháp so sánh pháp luật và luật học so sánh là mở rộng phạm vi nhận thức. Bằng phương pháp so sánh pháp luật và luật học so sánh chúng ta không chỉ hiểu cách giải thích pháp luật quốc gia, các nguyên tắc và quy phạm pháp luật mà còn cả việc nghiên cứu các mô hình ngăn ngừa và điều chỉnh xung đột xã hội, thì rõ ràng luật học so sánh với tư cách là một phương pháp và với tư cách là một môn học có phạm vi giải quyết rộng hơn so với khoa học pháp lý khép kín trong quốc gia. Trước hết, là bởi vì các quyết định có trong hệ thống pháp luật của thế giới, do tính tất yếu khách quan, là rất đa dạng và phong phú hơn về nội dung so với các quyết định mà một nhà luật học bị giới hạn bởi khuôn khổ hệ thống quốc gia của mình có thể phát triển trong cuộc đời ngắn ngủi của mình, ngay cả khi anh ấy có trí tưởng tượng. Luật học so sánh, giống như “trường học về sự thật”, mở rộng và làm phong phú thêm “tập hợp các giải pháp” và cung cấp cho nhà nghiên cứu có tính phê phán khả năng tìm ra giải pháp tối ưu hơn trong một thời gian và địa điểm nhất định (20).
Chức năng thứ hai là chức năng đối thoại quốc tế về các vấn đề pháp lý được đưa vào đời sống pháp lý quốc tế, khu vực và quốc gia, là sự xâm phập có ý thức vào các xã hội và nền văn hóa khác nhau trên hành tinh chúng ta, khắc phục định kiến dân tộc thuần tuý và nâng cao sự hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc.
Chức năng thứ ba thể hiện ở chổ là đây là một hình thức kích thích đặc thù “thông qua nghiên cứu pháp luật so sánh, thường xuyên phê phán trật tự của mình” nhằm vượt qua “sự tranh luận giáo điều” còn hạn chế ở cấp quốc gia và sự phát triển hơn nữa của pháp luật quốc gia (21).
Chức năng thứ tư là đó là tính hữu ích đặc biệt của nghiên cứu pháp luật so sánh đối với cải cách pháp luật ở các quốc gia khác nhau. Phương pháp so sánh và luật học so sánh có tầm quan trọng, ý nghĩa to lớn đối với lĩnh vực xây dựng pháp luật, áp dụng pháp luật, giải thích các quy phạm tương tự của các hệ thống pháp luật khác nhau, đối với lĩnh vực giáo dục pháp luật cũng như trong quá trình xích lại gần nhau của các hệ thống pháp luật quốc gia và sự thống nhất hóa pháp luật khu vực và quốc tế.
Kết luận
Biện chứng của phương pháp luận nghiên cứu luật học thể hiện ở mối quan hệ biện chứng giữa tri thức luật học và tri thức về phương pháp luận nghiên cứu của luật học, mối quan hệ giữa tính thống nhất, sự phân hoá, tính tích hợp của tri thức pháp luật, mối quan hệ giữa khách thể, đối tượng và phương pháp luận nghiên cứu của luật học, mối quan hệ giữa phương pháp luận và cách tiếp cận nghiên cứu của luật học, mối quan hệ giữa tiếp cận nghiên cứu, lý luận pháp luật và phương pháp nghiên cứu của luật học, mối quan hệ giữa các phương pháp nghiên cứu của luật học.
Biện chứng của phương pháp luận nghiên cứu luật học đòi hỏi phải có tư duy nghiên cứu tổng thể, toàn diện, hệ thống, tích hợp về khách thể, đối tượng nghiên cứu của luật học, phải kết hợp một cách thích hợp các cách tiếp cận đơn ngành, đa ngành, liên ngành, xuyên ngành, tích hợp trong nghiên cứu luật học, hình thành nên tư duy phương pháp luận nghiên cứu luật học chuyên ngành, đa ngành, liên ngành, tích hợp.
Biện chứng của phương pháp luận nghiên cứu luật học đòi hỏi phải nhận thức một cách đầy đủ, sâu sắc thế giới quan pháp luật, các lý luận pháp luật, phương pháp nghiên cứu, cách thức tổ chức và tiến hành nghiên cứu của luật học và vận dụng một cách phù hợp, sáng tạo trong nghiên cứu luật học để giải quyết một cách chất lượng, hiệu quả những vấn đề được nghiên cứu.
(1) Syrykh V.M. Phương pháp khoa học pháp lý (các yếu tố cơ bản, cấu trúc), Mátxcơva, 1980, tr. 55 (bản tiếng Nga).
(2) Xem: Mác C., Ăngghen Fh. Toàn tập, T.20, tr. 564-565 (bản tiếng Nga).
(3) Xem: Sabo Impe. Khoa học pháp lý và lý luận pháp luật. Budapest, 1977, tr.27 (bản tiếng Nga).
(4) Xem: Nersesyants V.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1997, tr.53-61 (bản tiếng Nga).
(5) Syrykh V.M. Phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý (các yếu tố cơ bản, cấu trúc), Mátxcơva, 1980, tr.114 (bản tiếng Nga).
(6) Xem: Võ Khánh Vinh, Triết học pháp luật: Lịch sử và chức năng phương pháp luận, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2024.
(7) Xem: Võ Khánh Vinh, Giáo trình Lý luận chung về nhà nước và pháp luật, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2016; Hoàng Thị Kim Quế, Giáo trình Lý luận nhà nước và pháp luật, NXb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2015.
(8) Xem: Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2023.
(9) Xem: Võ Khánh Vinh, Luật học so sánh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.
(10) Xem: Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật: Lý luận và thực tiễn, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.
(11) Xem: Võ Khánh Vinh chủ biên, Quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015.
(12) Xem: Nguyễn Minh Tuấn - Nguyễn Văn Quân, Các lý thuyết pháp luật đương đại trên thế giới (Sách chuyên khảo), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2023.
(13)Napreenko A. A. Phương pháp luận và công nghệ nhận thức về nhà nước và pháp luật/Nhà nước và pháp luật: Các vấn đề về phương pháp luận, lý luận và thực tiễn hoạt động, Samara, 2001, tr.10-14 (bản tiếng Nga); Phương pháp luận nghiên cứu của khoa học pháp lý: Thực trạng, vấn đề, triển vọng, Tập 2/chủ biên M. N. Marchenko, Mátxcơva, 2008, tr.122-161 (bản tiếng Nga).
(14) Từ điển bách khoa thư Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2003, Tập 3, tr. 515.
(15) Xem: Võ Khánh Vinh, Triết học pháp luật: Lịch sử và chức năng phương pháp luận, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2024.
(16) Xem: Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2023, tr. 735-848.
(17) Xem: Võ Khánh Vinh, Luật học so sánh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013, tr. 13-56.
(18) Marchenko M. N. Lý luận nhà nước và pháp luật, tái bản lần 2, Mátxcơva, 2004, tr. 41 (bản tiếng Nga).
(19) Xem: Tille A. A., Shvekov G. V. Phương pháp so sánh trong các môn khoa học pháp lý, Mátxcơva, 1973, tr. 13 (bản tiếng Nga).
(20) Zweigert K., Ketz H. Giới thiệu về luật học so sánh trong lĩnh vực luật tư, T.1. Các nền tảng, Mátxcơva, 1995, tr. 28 (bản tiếng Nga).
(21) Zweigert K., Ketz H. Tlđd.
Tài liệu tham khảo
1.Võ Khánh Vinh, Xã hội học pháp luật, NXB Tư pháp, Hà Nội, 2023.
2.Võ Khánh Vinh, Chính sách pháp luật: Lý luận và thực tiễn, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2020.
3.Võ Khánh Vinh, Luật học so sánh, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2013.
4.Võ Khánh Vinh chủ biên, Quyền con người, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội, 2015.
5.Võ Khánh Vinh, Triết học pháp luật: Lịch sử và chức năng phương pháp luận, NXB Công an nhân dân, Hà Nội, 2024.
6.Võ Khánh Vinh, Về phương pháp luận của triết học pháp luật, Tạp chí Nhân lực khoa học xã hội, ISSN 0866-756X, số 8/2014.
7.Võ Khánh Vinh, Về tiếp cận đa ngành, liên ngành, xuyên ngành trong nghiên cứu và đào tạo luật học ở nước ta hiện nay, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, ISSN 0866-7446, số 5/2018.
8.Nguyễn Minh Tuấn - Nguyễn Văn Quân, Các lý thuyết pháp luật đương đại trên thế giới (Sách chuyên khảo), NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2023.
9.Từ điển bách khoa thư Việt Nam, NXB Từ điển bách khoa, Hà Nội, 2003, Tập 3.
10.Kerimov D.A. Phương pháp luận pháp luật: Đối tượng, chức năng, những vấn đề triết học pháp luật, Mátxcơva, 2000 (bản tiếng Nga).
11.Kelsen G.S. Học thuyết thuần túy về pháp luật của Gans Kesen, Mátxcơva, 1987 (bản tiếng Nga).
12.Sabo Impe. Khoa học pháp lý và lý luận pháp luật. Budapest, 1977 (bản tiếng Nga).
13.Nersesyants V.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1997 (bản tiếng Nga).
14.Nersesyants V.S. Triết học pháp luật, Mátxcơva, 1997 (bản tiếng Nga).
15.Syrykh V.M. Phương pháp nghiên cứu khoa học pháp lý (các yếu tố cơ bản, cấu trúc), Mátxcơva, 1980 (bản tiếng Nga).
16.Napreenko A. A. Phương pháp luận và công nghệ nhận thức về nhà nước và pháp luật/Nhà nước và pháp luật: Các vấn đề về phương pháp luận, lý luận và thực tiễn hoạt động, Samara, 2001 (bản tiếng Nga).
17.M. N. Marchenko chủ biên, Phương pháp luận nghiên cứu của khoa học pháp lý: Thực trạng, vấn đề, triển vọng, Mátxcơva, 2008, Tập 2 (bản tiếng Nga).
18.Marchenko M. N. Lý luận nhà nước và pháp luật, tái bản lần 2, Mátxcơva, 2004 (bản tiếng Nga).
19.Tille A. A., Shvekov G. V. Phương pháp so sánh trong các môn khoa học pháp lý, Mátxcơva, 1973 (bản tiếng Nga).
20.Zweigert K., Ketz H. Giới thiệu về luật học so sánh trong lĩnh vực luật tư, T.1. Các cơ sở, Mátxcơva, 1995 (bản tiếng Nga).
GS.TS VÕ KHÁNH VINH
Trường Đại học Kiểm sát
Nguyên Phó Chủ tịch Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam