/ Trao đổi - Ý kiến
/ Về thời hiệu yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017

Về thời hiệu yêu cầu bồi thường theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước năm 2017

07/12/2021 03:04 |

(LSVN) - Tại các Điều 155, 156 và 588 Bộ luật Dân sự năm 2015, Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (Luật TNBTCNN) năm 2017 quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường.

Ảnh minh họa.

Theo Luật TNBTCNN 2009, thời hiệu yêu cầu bồi thường là 02 năm kể từ ngày cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường (Điều 5). Thời hiệu khởi kiện ra Tòa án là 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn ra quyết định giải quyết bồi thường (GQBT) mà cơ quan có trách nhiệm không ra quyết định GQBT hoặc kể từ ngày người bị thiệt hại nhận được quyết định GQBT nhưng không đồng ý. Trường hợp do trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng mà không thể khởi kiện đúng thời hạn thì thời gian có trở ngại khách quan hoặc sự kiện bất khả kháng không tính vào thời hiệu khởi kiện (khoản 1 Điều 22).

Quy định này đã hạn chế quyền của người bị oan trong tố tụng hình sự khi họ không biết, không được nhận được quyết định, văn bản làm căn cứ yêu cầu GQBT, đến khi nhận biết thì không được thụ lý giải quyết, với lý do “Hết thời hiệu”!

Điển hình là vụ cụ ông Huỳnh Chiếm Phái trong một thời gian dài không nhận được quyết định đình chỉ điều tra (15 năm - từ năm 1984 đến 2009) của VKSND tỉnh Phú Khánh. Vụ việc khiếu kiện kéo dài cho đến nay. Ngày 10/12/2021, TAND tỉnh Khánh Hòa sẽ mở phiên tòa xét xử sơ thẩm vụ kiện “Yêu cầu bồi thường theo Luật TNBTCNN" với nguyên đơn là ông Huỳnh Chiếm Hoạnh - con ông Huỳnh Chiếm Phái (đã chết); bị đơn là VKSND tỉnh Khánh Hòa.

Khắc phục những hạn chế bất cập nêu trên, Luật TNBTCNN 2017 quy định thời hiệu yêu cầu bồi thường là 03 năm kể từ ngày người có quyền yêu cầu bồi thường nhận được văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường, trừ một số trường hợp sau (khoản 1 và khoản 2 Điều 6): Trường hợp người yêu cầu bồi thường đã yêu cầu GQBT tại cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ thì thời hiệu khởi kiện yêu cầu bồi thường tại Tòa án là 15 ngày kể từ ngày người yêu cầu bồi thường nhận được quyết định GQBT; hoặc kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng thành mà cơ quan trực tiếp quản lý người thi hành công vụ không ra quyết định GQBT; hoặc kể từ ngày có biên bản kết quả thương lượng không thành.

Đối với trường hợp yêu cầu phục hồi danh dự thì không áp dụng thời hiệu vì đây là quyền nhân thân. Điển hình cũng là  vụ ông Huỳnh Chiếm Phái và Trần Bê bị bắt tạm giam oan về  tội “Giết người“ xảy ra cách đây 40 năm tại Ninh Giang – Ninh Hòa (Khánh Hòa), do quy định về thời hiệu và thủ tục giải quyết theo Luật TNBTNN 2009 không phù hợp với Hiến pháp và Bộ luật Dân sự, gây khó khăn trong việc giải quyết yêu cầu của người bị oan. Trong thời gian dài, VKSND không giải quyết chỉ vì thủ tục tố tụng hạn chế này. Cho đến khi  áp dụng Luật TNBTCNN 2017, đến tháng 8/ 2019, VKSND tỉnh Khánh Hòa mới thực hiện việc đăng báo Khánh Hòa về việc xin lỗi, cải chính và niêm yết lời xin lỗi đối với ông Huỳnh Chiếm Phái (đã chết) tại trụ sở UBND phường Ninh Giang và đến ngày 05/9/2019, lãnh đạo VKSND và Cơ quan An ninh điều tra Công an tỉnh Khánh Hòa đã công khai xin lỗi, phục hồi danh dự cho ông Trần Bê tại UBND phường Ninh Giang (thị xã Ninh Hoà, tỉnh Khánh Hoà).

Luật TNBTNN năm 2017 đã sửa đổi, giải thích thuật ngữ “Văn bản xác định hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ” theo khoản 3 Điều 3 Luật TNBTCNN 2009 được sửa đổi thành “Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường”, đồng thời, giải thích rõ hơn về loại văn bản này.

Cụ thể, khoản 5 Điều 3 Luật TNBTCNN 2017 quy định: Văn bản làm căn cứ yêu cầu bồi thường là văn bản đã có hiệu lực pháp luật do cơ quan nhà nước, người có thẩm quyền ban hành theo trình tự, thủ tục pháp luật quy định, trong đó xác định rõ hành vi trái pháp luật của người thi hành công vụ; bản án,quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định rõ người bị thiệt hại thuộc trường hợp được Nhà nước bồi thường.

Luật sư Nguyễn Hồng Hà (bên phải) tham dự Hội thảo góp ý dự thảo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước (sửa đổi) do Bộ Tư pháp tổ chức tại TP. Nha Trang năm 2016.

Luật TNBTCNN năm 2017 đã bổ sung quy định phạm vi bồi thường của Nhà nước đối trong tố tụng hình sự. Đó là trường hợp người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp mà không có căn cứ theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự và người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (khoản 1 Điều 18); Người bị bắt mà có quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự quyết định trả tự do, không phê chuẩn lệnh bắt, quyết định gia hạn tạm giữ vì người đó không thực hiện hành vi vi phạm pháp luật (khoản 2 Điều 18).

Thay thế quy định “không thực hiện hành vi phạm tội” bằng “không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm”. Theo đó, các trường hợp bị khởi tố, truy tố, xét xử thi hành án không bị tạm giữ tạm giam,thi hành phạt tù mà có quyết định của cơ quan có thẩm quyền trong hoạt động tố tụng hình sự xác định thuộc một trong các trường hợp: không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã  thực hiện tội phạm thuộc phạm vi trách nhiệm bồi thường của Nhà nước.  

Đây là trường hợp Cơ quan Cảnh sát điều tra hoặc VKSND ban hành quyết định hủy bỏ quyết định khởi tố bị can, với lý do “không có sự việc phạm tội hoặc hành vi không cấu thành tội phạm hoặc đã hết thời hạn điều tra vụ án mà không chứng minh được bị can đã thực hiện tội phạm”. Thời hiệu yêu cầu bồi  thường tính từ ngày bị khởi tố oan nhận được quyết định tố tụng này. Người bị khởi tố oan có quyền nhận các quyết định tố tụng. Việc chỉ thông báo việc đã ban hành hủy quyết định, không giao quyết định tố tụng  cho người bị khởi tố oan là vi phạm nghiêm trọng quyền của người bị tội theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015.

Luật TNBTCNN 2017 với một số quy định mới đảm bảo quyền con người quyền tự do, dân chủ của công dân theo Hiến pháp 2013 và các đạo luật tư pháp mới theo tinh thần cải cách tư pháp, cần tuyên truyền phổ biến cho nhân dân biết.

Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ

Một số vấn đề pháp lý về bảo vệ cổ đông thiểu số theo quy định pháp luật hiện hành

Lê Minh Hoàng