Ảnh minh họa.
Nội dung vụ án
Nguồn gốc thửa đất tranh chấp tại thôn TQ, xã CH, thành phố HA, tỉnh QN là của vợ chồng cụ Lê G và cụ Nguyễn Thị K (chết năm 2005) tạo lập. Trên thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9, diện tích 422m2 (thửa đất tranh chấp) có ngôi nhà của vợ chồng cụ G và cụ K. Hai cụ có 06 người con: Ông Lê M, Lê T, Lê E, Lê Hồng P, bà Lê Thị L và bà Lê Thị H. Cụ G và cụ K chết không để lại di chúc.
Ngày 07/5/2009, ông Lê T đã lập Văn bản phân chia thừa kế có nội dung, giao cho ông Lê T toàn quyền sử dụng, định đoạt đối với di sản là nhà, đất nêu trên, được Ủy ban nhân dân xã CH, thành phố HA, tỉnh QN chứng thực. Nhưng ông Lê T đã giả mạo chữ ký của Ông (Lê E) và ông Lê Hồng P. Bà Lê Thị H ký thay cho bà Lê Thị L vào biên bản phân chia thừa kế để ông Lê T đã được hưởng toàn bộ di sản thừa kế do cha mẹ Ông để lại.
Ngày 07/8/2009, ông Lê T được UBND thành phố HA, tỉnh QN cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với thửa đất 408, tờ bản đồ số 9, diện tích 422m2 (đất ở nông thôn). Sau đó ông Lê T đã làm thủ tục tách thửa và chuyển nhượng quyền sử dụng đất, cụ thể:
Ngày 21/11/2014, ông Lê T lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 1198, diện tích 178,2m2 cho ông Lê Quang N và ông Nguyễn Quang C tại Phòng công chứng số 2, tỉnh QN. Ngày 03/12/2014, ông Lê Quang N và ông Nguyễn Quang C đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố HA chỉnh lý sang tên.
Ngày 05/10/2016, ông Lê T lập Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 1208, diện tích 99,1m2 cho ông Lê Quang N tại Phòng công chứng số 2, tỉnh QN. Ngày 13/10/2016, ông Lê Quang N đã được Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai thành phố HA chỉnh lý sang tên.
Ông Lê E khởi kiện yêu cầu hủy Văn bản phân chia di sản thừa kế, hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đã cấp cho ông Lê T, hủy các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất và hủy chỉnh lý biến động sang tên ông N, ông C và hủy chỉnh lý biến động sang tên ông N như đã nêu trên.
Bị đơn ông Lê T cho rằng, ngày 07/5/2009, các anh, chị, em Ông có lập Văn bản phân chia thừa kế. Ông đã giả chữ ký, chữ viết của ông Lê E và ông Lê Hồng P. Ông Lê E và Lê Hồng P không biết gì về văn bản này. Văn bản phân chia thừa kế ngày 07/5/2009 được UBND xã CH chứng thực. Ông Lê T đã được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất đối với toàn bộ di sản là quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất đối tại thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9, diện tích 422m2 do cha, mẹ Ông để lại.
Sau đó, Ông đã tách thửa và chuyển nhượng cho ông Nguyễn Quang C và ông Lê Quang N đối với thửa đất 1198, diện tích 178,2m2 và chuyển nhượng cho ông Lê Quang N đối với thửa đất số 1208, tờ bản đồ số 13, diện tích 99,1m2. Ông đề nghị Tòa án giải quyết theo quy định của pháp luật.
Người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan ông Lê Quang N và ông Nguyễn Quang C đề nghị Tòa án bảo vệ quyền lợi vì các Ông đã nhận chuyển nhượng thửa đất của ông Lê T là đúng quy định của pháp luật.
Quá trình giải quyết vụ án
Bản án dân sự sơ thẩm số 51/2021/DS-ST ngày 24/9/2021 của Tòa án nhân dân tỉnh QN, quyết định:
“1. Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê E về việc:
Tuyên bố Văn bản phân chia tài sản thừa kế số chứng thực 121, quyển số 02/09/TP/SCT/HĐGD do UBND xã CH, thành phố HA, tỉnh QN chứng thực ngày 07/5/2009 bị vô hiệu.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AQ 085646 do UBND thành phố HA, tỉnh QN cấp ngày 07/8/2009 cho ông Lê T đối với diện tích đất còn lại 144,7m2, tại thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9, thôn TQ, CH, thành phố HA, tỉnh QN (nay là thửa đất số 348, tờ bản đồ số 13, diện tích 144,7m2, loại đất ở tại nông thôn).
- Không chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê E về việc:
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông Lê T và bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Quang C, ông Lê Quang N đối với thửa đất số 1198, tờ bản đồ số 13 (được tách từ thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9) vô hiệu;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BT 697477 do Ủy ban nhân dân thành phố HA, tỉnh QN cấp ngày 13/11/2014 cho ông Lê T;
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông Lê T và bên nhận chuyển nhượng ông Lê Quang N đối với thửa đất số 1208, tờ bản đồ số 13 (được tách từ thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9) vô hiệu;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CC 909561 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh QN cấp ngày 29/8/2016 cho ông Lê T;
- Hủy đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất ngày 03/12/2014 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai HA sang tên ông Nguyễn Quang C và ông Lê Quang N (do ông Lê T chuyển nhượng);
- Hủy đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất ngày 13/10/2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai HA sang tên ông Lê Quang N (do ông Lê T chuyển nhượng)”.
Ngoài ra bản án còn tuyên về án phí theo quy định.
- Ngày 06/10/2021, nguyên đơn ông Lê E kháng cáo một phần bản án dân sự sơ thẩm đối với các yêu cầu chưa được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận.
- Ngày 05/10/2021, Viện trưởng VKSND tỉnh QN ban hành Quyết định kháng nghị phúc thẩm số 22/QĐKNPT-VKS-DS đối với bản án dân sự sơ thẩm theo hướng đề nghị sửa Bản án dân sự sơ thẩm chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Tại phiên tòa phúc thẩm, đại diện VKSND cấp cao tại Đà Nẵng đề nghị, căn cứ khoản 2 Điều 308 Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015: Chấp nhận kháng nghị phúc thẩm của Viện trưởng VKSND tỉnh QN và chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn ông Lê E; sửa bản án dân sự sơ thẩm theo hướng chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.
Bản án dân sự phúc thẩm số 59/2022/DS-PT ngày 09/3/2022 của Tòa án nhân dân cấp cao tại Đà Nẵng, quyết định:
“Căn cứ khoản 2 Điều 308: Chấp nhận kháng nghị số 22/QĐKNPT-VKS-DS ngày 05/10/2021 của Viện trưởng VKSND tỉnh QN và kháng cáo của ông Lê E, sửa bản án sơ thẩm...
- Chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn ông Lê E về việc:
Tuyên bố Văn bản phân chia tài sản thừa kế số chứng thực 121, quyển số 02/09/TP/SCT/HĐGD do UBND xã CH, thành phố HA, tỉnh QN chứng thực ngày 07/5/2009 bị vô hiệu.
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AQ 085646 do UBND thành phố HA, tỉnh QN cấp ngày 07/8/2009 cho ông Lê T đối với diện tích đất còn lại 144,7 m2, tại thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9, thôn TQ, CH, thành phố HA, tỉnh QN (nay là thửa đất số 348, tờ bản đồ số 13, diện tích 144,7m2 loại đất ở tại nông thôn).
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông Lê T và bên nhận chuyển nhượng ông Nguyễn Quang C, ông Lê Quang N đối với thửa đất số 1198, tờ bản đồ số 13 (được tách từ thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9) vô hiệu;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BT 697477 do Ủy ban nhân dân thành phố HA, tỉnh QN cấp ngày 13/11/2014 cho ông Lê T;
- Tuyên bố Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa bên chuyển nhượng ông Lê T và bên nhận chuyển nhượng ông Lê Quang N đối với thửa đất số 1208, tờ bản đồ số 13 (được tách từ thửa đất số 408, tờ bản đồ số 9) vô hiệu;
- Hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số CC 909561 do Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh QN cấp ngày 29/8/2016 cho ông Lê T;
- Hủy đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất ngày 03/12/2014 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai HA sang tên ông Nguyễn Quang C và ông Lê Quang N (do ông Lê T chuyển nhượng);
- Hủy đăng ký chỉnh lý biến động quyền sử dụng đất ngày 13/10/2016 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai HA sang tên ông Lê Quang N (do ông Lê T chuyển nhượng)”.
Ngoài ra, bản án còn tuyên về án phí theo quy định.
Những vấn đề cần rút kinh nghiệm
Tòa án cấp sơ thẩm đã xác định Văn bản phân chia tài sản thừa kế số chứng thực 121, quyển số 02/09/TP/SCT/HĐGD do UBND xã CH, thành phố HA, tỉnh QN chứng thực ngày 07/5/2009 bị vô hiệu là đúng quy định tại Điều 122, Điều 127 Bộ luật Dân sự năm 2005, bởi vì ông Lê T đã giả chữ ký của ông Lê E và ông Lê Hồng P và UBND xã chứng thực khi không có mặt và không phải chữ ký của ông Lê E, ông Lê Hồng P là không đúng quy định của pháp luật.
Về Hợp đồng chuyển nhượng đối với thửa đất 1198, diện tích 178,2m2 của ông Lê T cho ông Lê Quang N và ông Nguyễn Quang C ngày 21/11/2014 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất đối với thửa 1208, diện tích 99,1m2 ngày 05/10/2016 của ông Lê T cho ông Lê Quang N, mặc dù các thửa đất này đã được chỉnh lý biến động sang tên ông N và ông C, nhưng các hợp đồng chuyển nhượng không đúng quy định của pháp luật và không thuộc trường hợp ngay tình được pháp luật bảo vệ, bởi vì:
Ông Lê T đã giả chữ ký của ông Lê E và ông Lê Hồng P để lập Văn bản phân chia di sản thừa kế ngày 7/5/2009 và Văn bản này đã bị vô hiệu nên các hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất cũng bị vô hiệu theo khoản 2 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Việc chuyển nhượng các thửa đất giữa ông Lê T với ông Lê Quang N, ông Nguyễn Quang C chưa hoàn thành. Các bên chưa giao tài sản cho nhau. Ông Nam và ông C cũng chưa giao đủ tiền nhận chuyển nhượng thửa đất cho ông Lê T. Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 23/2/2022, ông N và ông C khai thửa đất 1198 mua với giá 623.700.000 đồng, nhưng ông C và ông N chỉ mới đưa tiền cọc là 190.000.000 đồng cho ông Lê T;
- Sau khi xảy ra tranh chấp, ông Lê T đã trả lại số tiền 190.000.000 đồng cho ông N và ông C. Ông N và ông C đã nhận lại số tiền này nên các bên chưa bàn giao tài sản cho nhau, chưa trả tiền từ năm 2014 đến nay. Nhà đất vẫn do bà L (vợ ông T) quản lý, sử dụng;
- Khi ông Lê T chuyển nhượng các thửa đất này, bà Nguyễn Thị L là vợ ông Lê T, nhưng bà L không biết việc chuyển nhượng và bà L cũng không ký vào bất cứ giấy tờ chuyển nhượng và không nhận được khoản tiền từ việc chuyển nhượng đất là vi phạm Điều 109 Bộ luật Dân sự năm 2005;
- Trên thửa đất 1198 ông Lê T chuyển nhượng cho ông Lê Quang N và Nguyễn Quang C có ngôi nhà cấp 4 do cha mẹ là ông Lê G và bà Nguyễn Thị K để lại, quá trình sinh sống bà Nguyễn Thị L có xây dựng thêm khu vệ sinh và sân để phục vụ sinh hoạt, nhưng khi chuyển nhượng các bên chỉ chuyển nhượng quyền sử dụng đất, không đề cập đến tài sản trên đất là ảnh hưởng đến quyền lợi của những người thừa kế tài sản và bản án cũng không thể thi hành án được;
- Tại phiên tòa phúc thẩm ngày 23/2/2022, ông N và ông C còn khai khi nhận chuyển nhượng thửa đất thứ nhất (thửa 1198), các Ông biết có nhà trên đất nên không giao mặt bằng được. Ông Lê T và ông N, ông C mới thực hiện chuyển nhượng thửa đất thứ hai (thửa 1208) để thay thế thửa đất thứ nhất. Do đó, việc chuyển nhượng đối với thửa đất 1208 là giả tạo nên bị vô hiệu theo quy định tại Điều 129 Bộ luật Dân sự năm 2005.
Như vậy, việc chuyển nhượng các thửa đất giữa ông Lê T với ông Lê Quang N và Nguyễn Quang C đối với 02 thửa đất đều bị vô hiệu, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm lại áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 để xác định Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê T với các ông Lê Quang N, Nguyễn Quang C ngày 21/11/2014 và Hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất giữa ông Lê T với các ông Lê Quang N ngày 05/10/2016 là ngay tình và không tuyên vô hiệu đối với 02 hợp đồng này; không tuyên hủy các Giấy chứng nhận quyền sử đất; không hủy chỉnh lý biến động sang tên cho ông N, ông C là không đúng quy định của pháp luật.
Mặt khác, Tòa án cấp sơ thẩm áp dụng khoản 2 Điều 133 Bộ luật Dân sự năm 2015 để giải quyết vụ án cũng không đúng, vì thời điểm các bên chuyển nhượng, Bộ luật Dân sự năm 2005 đang có hiệu lực nên phải áp dụng Điều 129 và khoản 2 Điều 138 Bộ luật Dân sự năm 2005 để giải quyết mới đúng quy định của pháp luật.
PV
Hướng dẫn lập hóa đơn giảm thuế GTGT theo Nghị định số 15/2022/NĐ-CP