/ Hồ sơ - Tư liệu
/ VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự

VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự

05/01/2021 18:11 |

(LSO) - Thông qua kết quả xét xử phúc thẩm vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất và yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là bà Hồ Thị T với bị đơn là ông Nguyễn Bá L, Bà Nguyễn Thị B, bị TAND cấp cao tại Đà Nẵng hủy bản án sơ thẩm để giải quyết lại, VKSND cấp cao tại Đà Nẵng thông báo để các VKSND trong khu vực rút kinh nghiệm như sau:

Ảnh minh họa.
  1. Nội dung vụ án

Bà Hồ Thị T sử dụng đất có nguồn gốc từ đất hương hỏa ông bà để lại. Ngày 12/12/1992 được UBND huyện Q cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số B998965 mang tên ông Nguyễn Hữu N (chồng bà T) với diện tích 1025m2 tại thửa 1207, tờ bản đồ số 3 (trước thuộc huyện Q tỉnh Z sau tách thành thị xã Y, tỉnh Z).

Sau khi ông N chết, ngày 23/3/2009 được cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO554257 mang tên hộ bà Hồ Thị T, tờ bản đồ, số thửa và diện tích đất vẫn giữ nguyên, bao gồm cả lối đi đang tranh chấp. Trước đây, gia đình bà sử dụng lối đi này, sau không sử dụng nên rào lại. Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này bà T đang thế chấp tại Quỹ Tín dụng nhân dân xã X. Ngày 05/12/2012, UBND huyện Q cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản gắn liền với đất số BL890135 với diện tích 989,7m2, thửa số 1114, tờ bản đồ số 4, không có phần đất lối đi và đến nay gia đình bà T vẫn chưa nhận Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này, Bà T biết được nội dung này là do Tòa án cung cấp.

Thửa đất số 1028, tờ bản đồ số 3 có diện tích 364m2 của ông Nguyễn Bá L, bà Nguyễn Thị B có nguồn gốc nhận chuyển nhượng của ông Trần Quang A, bà Trần Thị K vào ngày 02/9/1989, vốn là đất màu nên không có lối đi. Sau khi mua đất, ông L bỏ hoang. Ngày 01/6/1989, ông L đến chặt phá cây cối trên lối đi vào nhà bà T trước đây, vì ông L cho rằng con đường này là lối đi vào thửa đất của ông L. Sau đó, ông L đưa cho bà T 2 triệu đồng đền bù tiền chặt cây, các con của bà T là chị H, anh K có kí giấy cam kết, bà T không rõ nội dung, sau đó, ông L xây hàng rào chắn. Năm 2009, gia đình ông L được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất tại thửa đất số 1028, tờ bản đồ số 3 có diện tích 353m2 (đo đạt chỉnh lý ngày 01/12/2009). Ngày 04/6/2012, được cấp đổi lại Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI117989 nhưng thửa đất đổi thành 1115, tờ bản đồ số 4, diện tích 400,6m2.

Ngày 09/10/2018, xảy ra tranh chấp, bà T khiếu nại đến UBND phường X, thị xã Y thì được thông báo con đường nhà bà sử dụng trước đây đã được cấp trong Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của ông L. Bà T khởi kiện yêu cầu Tòa án giải quyết hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI117989, cấp ngày 04/6/2012 mang tên ông Nguyễn Bá L, bà Nguyễn Thị B tại thửa 1115, tờ bản đồ số 4, vì cấp chồng lên phần đất và diện tích lối đi của gia đình bà vào sổ đỏ của ông L và buộc ông L trả lại lối đi cho gia đình bà.

  1. Quá trình giải quyết vụ án

Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2019/DS-ST ngày 29/11/2019 của TAND tỉnh Z, quyết định:

“Không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của bà Hồ Thị T về việc buộc ông Nguyễn Bá L, bà Nguyễn Thị B trả lại lối đi vào thửa đất ông L có diện tích 35m2 và không chấp nhận yêu cầu hủy Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số BI117989 cấp ngày 04/6/2012 mang tên Nguyễn Bá L, Nguyễn Thị B tại thửa 1115, tờ bản đồ số 4 địa chỉ xóm Chợ, phường X, thị xã Y”.

Ngày 10/12/2019, bà Hồ Thị T kháng cáo toàn bộ Bản án dân sự sơ thẩm.

Bản án dân sự phúc thẩm số 121/2020/DS-PT ngày 18/6/2020 của TAND cấp cao tại Đà Nẵng quyết định:

“Chấp nhận kháng cáo của bà Hồ Thị T, hủy Bản án dân sự sơ thẩm số 28/2019/DS-PT ngày 29/11/2019 của TAND tỉnh Z; giao hồ sơ vụ án cho TAND tỉnh Z xét xử sơ thẩm lại theo đúng quy định của pháp luật”.

  1. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất số AO554257 ngày 23/3/2009 được cấp cho hộ bà Hồ Thị T. Tòa án cấp sơ thẩm chưa xác minh, làm rõ hộ bà T có bao nhiêu người con tại thời điểm cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà để đưa họ vào tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của họ.

Theo kết quả thẩm định tại chỗ ngày 10/10/2019, xác định phần tranh chấp 63,7m2, trong đó có lối đi là 28,3m2 và phần đất khác là 35,4m2. Nguyên đơn khởi kiện yêu cầu giải quyết cả phần đất tranh chấp, nhưng Tòa án cấp sơ thẩm chỉ xem xét 35,4m2, phần đất còn lại không xem xét là giải quyết chưa triệt để.

Tài liệu tại hồ sơ thể hiện thủ tục cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất của gia đình bà T và ông L, bà B còn có thiếu sót. Nhiều tài liệu quan trọng không được chứng thực hoặc công chứng. Chưa làm rõ vì sao diện tích đất cấp đổi của ông L năm 2012 có sự tăng lên, diện tích đất cấp đổi của bà T năm 2012 giảm xuống so với Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cấp năm 2009 và bản đồ địa chính năm 2014, trong khi ông Nguyễn Hữu N là con trai cũng là đại theo ủy quyền của bà T cho rằng đất nhà ông giáp mương nước ổn định nên không thể biến động giảm.

Tòa án cấp sơ thẩm không xác minh thực tế Quỹ tín dụng nhân dân xã X có đang giữ Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất mang tên bà Hồ Thị T cấp năm 2009 hay không và vì sao cơ quan chức năng chưa thu hồi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất này mà tự ý cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho hộ bà T vào năm 2012 có diện tích ít hơn nhưng không giao cho gia đình bà T biết để thực hiện quyền khiếu nại.

Tại phiên tòa sơ thẩm, gia đình bà T đề nghị Tòa án thu thập chữ ký và giám định toàn bộ chữ ký trên các loại giấy tờ có tên của bà Hồ Thị T, bà Nguyễn Thị H và ông Nguyễn Hữu K trong Giấy cam kết ngày 01/6/2008 và hồ sơ thủ tục để cấp đổi Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất từ diện tích 1025m2 xuống còn 989,7m2 do Phòng Tài nguyên và Môi trường thị xã Y cung cấp để làm rõ nội dung vụ án nhưng không được Tòa án cấp sơ thẩm chấp nhận.

LSO

/xu-ly-chu-xe-co-lai-xe-va-phuong-tien-gay-tai-nan-giao-thong-nhu-the-nao.html