/ Hồ sơ - Tư liệu
/ VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự

VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự

14/05/2022 11:02 |

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát xét xử giám đốc thẩm đối với Bản án số 102/2018/DS-PT, ngày 01/8/2018 của Tòa án nhân dân thành phố CT giải quyết vụ án “Tranh chấp quyền sử dụng đất”, giữa nguyên đơn là bà Trần Thị Thu N. với bị đơn bà Nguyễn Thu T. đã có hiệu lực pháp luật, VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm.

 

Ảnh minh họa.

1. Nội dung vụ án:

Bà Trần Thị Thu N. là người đứng tên trên Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất thuộc thửa 372, 373 tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại ấp TT, xã TH, huyện TN (nay là khu vực TT 1, phường TH, quận TN), thành phố CT (Thửa 372,373). Nguồn gốc đất do cụ Nguyễn Thị Z. (mẹ bà N) cho. Khi cụ Z. còn sống có cho bà Nguyễn Thu T. và ông Nguyễn Công D. ở nhờ trên Thửa 372 và bà Phạm Thị L. ở nhờ trên Thửa 373. Hiện nay, ông D., bà T. và bà L. cùng những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan đang sử dụng một phần thửa đất do bà N. đứng tên và đang lấn chiếm thêm. Bà N. yêu cầu bà T., ông D., bà L. và những người liên quan có trách nhiệm di dời nhà và trả lại đất cho bà sử dụng, đồng thời bà hỗ trợ chi phí di dời cho mỗi hộ từ 5.000.000 đồng đến 10.000.000 đồng.

Bà Phạm Thu T., ông Nguyễn Công D., bà Phạm Thị L. thống nhất với lời trình bày của bà N, đồng ý trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho bà N. với lý do gia đình các ông, bà được mẹ của bà N. là cụ Z. cho ở nhờ trên phần đất hiện nay. Các ông, bà đồng ý trả lại đất nhưng do hoàn cảnh kinh tế khó khăn, ngoài diện tích đất gia đình các ông, bà đang sử dụng thì không có diện tích đất nào khác. Hơn nữa, các ông, bà đã sử dụng diện tích đất tranh chấp từ năm 1979 cho đến nay nên đề nghị bà N tạo điều kiện cho gia đình các ông, bà có nơi ở ổn định.

2. Quá trình giải quyết vụ án

Tại Bản án số 67/2017/DS-ST, ngày 17/10/2017, TAND quận TN, thành phố CT (Bản án sơ thẩm), đã quyết định: Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Giao phần diện tích 69m2 đất tranh chấp cho bị đơn ông D., người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan bà H., ông G., ông Y., ông P., bà L. sử dụng và trả lại giá trị đất theo giá thị trường cho nguyên đơn là 58.650.000 đồng.

Giao phần diện tích 97,6 m2 đất tranh chấp cho bị đơn bà T., người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan là ông H., bà U., bà K., ông N. sử dụng và trả lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường cho nguyên đơn là 82.960.000 đồng.

Giao phần diện tích 67m2 đất tranh chấp cho bị đơn bà L., người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan ông Q., bà Đ. sử dụng và trả lại giá trị quyền sử dụng đất theo giá thị trường cho nguyên đơn là 43.550.000 đồng.

Vị trí, kích thước phần diện tích 69m2, 97,6m2 và 67m2 được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 13-2017 do Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận TN đo vẽ ngày 24/02/2017.

Các đương sự tự liên hệ Cơ quan nhà nước có thẩm quyền để xin đăng ký cấp giấy theo quy định của pháp luật, chi phí phát sinh do đương sự tự chịu.

Ngoài ra, Bản án sơ thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác.

Ngày 01/11/2017, bà Trần Thị Thu N. kháng cáo Bản án sơ thẩm.

Tại Bản án số 102/2018/DS-PT, ngày 01/8/2018 của TAND thành phố CT (Bản án phúc thẩm), đã quyết định: Chấp nhận kháng cáo của nguyên đơn, sửa toàn bộ bản án sơ thẩm. Chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn.

Buộc bị đơn ông Nguyễn Công D. và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Nguyễn Thị H., Nguyễn Công Quốc G., Nguyễn Quốc Y., Nguyễn Quốc P. và Nguyễn Thị Cẩm L. di dời và trả lại phần đất có diện tích 69m2 cho nguyên đơn. Buộc bị đơn Nguyễn Thu T và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Võ T H, Lê Thị Ngọc U, Nguyễn Thúy K., Nguyễn Hoàng N. và Nguyễn Thùy D. di dời và trả lại phần diện tích 97,6m2 đất cho nguyên đơn. Buộc bị đơn Phạm Thị L. và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan gồm Châu Đình Q. và Châu Kim Đ. di dời và trả lại phần diện tích 67m2 đất cho nguyên đơn.

Các bị đơn và những người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan được quyền cư trú với thời hạn là 06 tháng kể từ ngày án có hiệu lực pháp luật. Vị trí, kích thước, đặc điểm phần diện tích nêu trên và các tài sản trên đất tương ứng được thể hiện tại Mảnh trích đo địa chính số 13-2017 ngày 24/02/2017 của Chi nhánh Văn phòng đăng ký đất đai quận TN và Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ ngày 26/5/2016 của Tòa án nhân dân quận TN.

Ngoài ra, Bản án phúc thẩm còn quyết định về các vấn đề liên quan khác. Ngày 22/01/2018, các ông, bà: Nguyễn Công D., Nguyễn Thị H., Nguyễn Công Quốc G., Nguyễn Quốc Y., Nguyễn Quốc P., Nguyễn Thị Cẩm L., Nguyễn Thu T., Võ T H., Lê Thị Ngọc U., Nguyễn Thúy K., Nguyễn Hoàng Q. và Nguyễn Thùy D. có đơn đề nghị kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm đối với Bản án phúc thẩm.

Tại Quyết định giám đốc thẩm số 81/2021/DS-GĐT ngày 17/3/2021 của Tòa án nhân dân Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh đã chấp nhận toàn bộ Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm số 320/QĐKNGĐT-VKS-DS, ngày 30/11/2020 của Viện trưởng VKSND Cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh về việc hủy Bản án phúc thẩm, giữ nguyên Bản án sơ thẩm.

3. Vấn đề cần rút kinh nghiệm

Phần diện tích đất tranh chấp gồm 97,6m2 thuộc thửa 372c, 67m2 thuộc thửa 373A và 69m2 thuộc thửa 372b cùng tờ bản đồ số 02, tọa lạc tại khu vực TA 3, phường TA, quận TN, thành phố CT đã được UBND huyện TN cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất cho bà Trần Thị Thu N. Các bên đương sự cùng thống nhất xác định nguồn gốc diện tích đất tranh chấp là của cụ Nguyễn Thị Z., lúc còn sống cụ Z. cho ông Nguyễn Công D., bà Nguyễn Thu T. và bà Phạm Thị L. ở nhờ. Sau đó, bà Z. đã tặng cho quyền sử dụng đất lại cho con là bà Trần Thị Thu N. Quá trình quản lý, sử dụng đất, gia đình ông Nguyễn Công D. đã nhận đất quản lý, sử dụng từ năm 1979, đã xây nhà ở ổn định cho đến nay, việc xây nhà được bà Z. đồng ý. Hiện nay, gia đình ông D. đều đi làm thuê, hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, ngoài phần đất cất nhà nêu trên không còn diện tích đất nào khác để di dời nhà ở. Gia đình của bà Phạm Thị L. đã sử dụng đất ổn định từ năm 1992 cho đến nay, hoàn cảnh gia đình khó khăn, thuộc diện hộ nghèo, việc di dời nhà ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của gia đình bà L. Còn gia đình bà Nguyễn Thu T. đã sử dụng đất ổn định từ năm 1984, đã cất nhà ở kiên cố, việc buộc bà T. tháo dỡ nhà sẽ ảnh hưởng rất lớn đến cuộc sống của gia đình bà T.

Bản án sơ thẩm đã xem xét đến hoàn cảnh gia đình và nhu cầu sử dụng đất của ông D., bà T., bà L. và quyết định giao diện tích đất tranh chấp cho các ông, bà sử dụng. Đồng thời, buộc ông D., bà T., bà L. phải hoàn trả lại giá trị quyền sử dụng đất cho bà N. là phù hợp, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên đương sự.

Bản án phúc thẩm buộc ông D., bà T., bà L. phải trả lại quyền sử dụng đất tranh chấp cho bà N. là không phù hợp với thực tế sử dụng đất, gây ảnh hưởng đến quyền lợi của gia đình ông D., bà T. và bà L.

PV

Hoàn thiện quy định về tội ‘Cưỡng bức lao động’ theo Điều 297 BLHS 2015

Loan B T Thanh