(LSO) - Căn cứ vào kết luận của Cơ quan điều tra Bộ Công an, “toàn bộ chữ ký, chữ viết tên “Bùi Thế Sơn tại hồ sơ thay đổi đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH Thiên Phú, do Sở Kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương cung cấp cho Cơ quan điều tra đều không phải do bị can Bùi Thế Sơn ký và viết” cho thấy hiện nay, chỉ có ông Sơn mới là người có quyền và lợi ích hợp pháp tại Công ty Thiên Phú, và có quyền đề nghị TAND quận 7 đình chỉ vụ án.
Ông Bùi Thế Sơn mới là người có quyền và lợi ích hợp pháp tại Công ty Thiên Phú
Mới đây (ngày 05/10), bà Bùi Thị Lương người đại diện theo ủy quyền của Công ty CP Dịch vụ Đấu Giá Nam Sài Gòn, đã có đơn gửi Thẩm phán Lê Thị Phơ, TAND quận 7; và Viện trưởng VKSND quận 7, TP. HCM đề nghị “đình chỉ vụ án” liên quan đến “Dự án Hòa Lân”.
Theo phân tích của Công ty CP Dịch vụ Đấu Giá Nam Sài Gòn, ngày 18/5/2020 ông Bùi Thế Sơn, Giám đốc Công ty TNHH SXTM Thiên Phú, là người có 99% vốn góp của Công ty đã đề nghị rút đơn khởi kiện và rút yêu cầu khởi kiện.
Căn cứ theo giấy chứng nhận ĐKDN và Điều lệ của Công ty TNHH SXTM Thiên Phú thì ông Bùi Thế Sơn chiếm 99% vốn điều lệ, tương đương là 89.1 tỉ đồng, còn ông Trương Thành Phú chỉ có 1% vốn điều lệ, tương đương 900 triệu đồng. Theo quy định tại khoản 1 Điều 35 Luật Doanh nghiệp 2014 và Điều 105 Bộ luật Dân sự 2015 quy định 99% vốn điều lệ của Công ty TNHH SXTM Thiên Phú thuộc về tài sản của cá nhân ông Bùi Thế Sơn.
Theo quy định tại Điều 50 Luật Doanh nghiệp 2014 thì với số vốn góp lên đến 99% ông Bùi Thế Sơn có toàn quyền quyết định mọi vấn đề liên quan đến Công ty Thiên Phú, với tư cách là quyền của thành viên theo quy định của pháp luật. Căn cứ Điều 13 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định, và có bản án kết tội của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật”. Vì vậy, ông Bùi Thế Sơn mới chỉ là bị can, chưa phải là tội phạm nên vẫn có đầy đủ quyền công dân, quyền tài sản theo quy định của Hiến pháp 2013 và pháp luật liên quan.
Căn cứ “Đơn đề nghị” ngày 15/9/2020 của ông Bùi Thế Sơn đã khẳng định ông Trương Thành Phú: “Không có bất kỳ quyền gì đối với công ty Thiên Phú. Tôi cũng không ủy quyền cho ông Phú quyết định gì và ông Phú chỉ là tài xế của tôi” và ông Bùi Thế Sơn đề nghị: “Cơ quan điều tra và tòa án quận 7 điều tra làm rõ sự việc trên và bác bỏ các nội dung ông Phú đã ủy quyền hoặc yêu cầu tòa án nhân dân quận 7, và đặc biệt ông Bùi Thế Sơn vẫn là “Chủ tịch của Hội đồng thành viên”.
Trong trường hợp Tòa án không chấp nhận “Đơn đề nghị” của ông Bùi Thế Sơn vì hình thức không đủ điều kiện là “Nghị quyết của Hội đồng thành viên”, thì căn cứ theo quy định tại khoản 6 Điều 13 Luật Doanh nghiệp và căn cứ theo nội dung, ý chí quyết định của ông Bùi Thế Sơn trong “Đơn đề nghị” nếu ông Trương Thành Phú muốn được tiếp tục làm người đại diện theo pháp luật của công ty Thiên Phú, thì bắt buộc phải được sự đồng ý của ông Bùi Thế Sơn thông qua bằng “Nghị quyết của Hội đồng thành viên”.
Theo đơn đề nghị ngày 15/9/2020 của ông Bùi Thế Sơn: “Đối với việc ông Phú ký nhận tiền của bà Phạm Thị Hường và bà Kim Châu để chuyển nhượng phần vốn góp trên danh nghĩa tại Công ty Thiên Phú, ký vào các tài liệu giả mạo chữ ký của tôi, nếu có dấu hiệu lừa đảo chiếm đoạt thì tôi đề nghị TAND quận 7 có văn bản kiến nghị cơ quan điều tra vào cuộc để làm rõ bảo vệ quyền lợi cho tôi và pháp nhân cho Công ty Thiên Phú”.
Căn cứ công văn trả lời kết quả phối hợp xác minh số 3469/CSKT-P10 ngày 14/09/2020 của Cơ quan CSĐT Bộ Công an gửi TAND quận 7 ghi rõ: Căn cứ Kết luận giám định số 2921/C09B ngày 18/8/2020 của phân viện khoa học hình sự tại TP. Hồ Chí Minh thể hiện: “Tại hồ sơ thay đổi đăng ký kinh doanh của Công ty TNHH Thiên Phú so Sở kế hoạch và đầu tư tỉnh Bình Dương cung cấp cho Cơ quan điều tra, toàn bộ chữ ký, chữ viết tên “Bùi Thế Sơn” đều không phải do bị can Bùi Thế Sơn ký và viết”.
Từ những chứng cứ rõ ràng nêu trên, nếu ông Trương Thành Phú vẫn yêu cầu tòa án giải quyết và giữ nguyên yêu cầu khởi kiện là làm sai lệch ý chí của ông Bùi Thế Sơn, và ông Phú có dấu hiệu xâm phạm đến quyền tài sản của ông Bùi Thế Sơn (giả chữ ký) và quyền và lợi ích hợp pháp của công ty Thiên Phú. Đã có dấu hiệu vi phạm pháp luật vi phạm trách nhiệm của người đại diện theo pháp luật được quy định tại khoản 1 Điều 71 Luật Doanh nghiệp 2014.
Không có căn cứ tuyên Hợp đồng mua bán tài sản vô hiệu
Cũng trong đơn kiến nghị, Công ty CP Dịch vụ Đấu Giá Nam Sài Gòn đưa ra hàng loạt bằng chứng thuyết phục, chứng minh việc TAND quận 7 tuyên Hợp đồng mua bán tài sản đấu giá 01-10/2017/ HĐMBTSĐG ngày 01/7/2017 vô hiệu là trái quy định pháp luật, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của doanh nghiệp.
Theo Công ty CP Dịch vụ Đấu Giá Nam Sài Gòn, cCăn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 72 Luật Đấu giá tài sản quy định: để yêu cầu tòa án tuyên hợp đồng mua bán tài sản đấu giá 01-10/2017/HĐMBTSĐG ngày 01/7/2017 vô hiệu thì bên nguyên đơn phải có chứng cứ, tài liệu để chứng minh được trong quá trình đấu giá, đấu giá viên có hành vi: Thông đồng, móc nối với người có tài sản đấu giá, người tham gia đấu giá, tổ chức thẩm định giá, tổ chức giám định tài sản đấu giá, cá nhân, tổ chức khác để làm sai lệch thông tin tài sản đấu giá, dìm giá, làm sai lệch hồ sơ đấu giá hoặc kết quả đấu giá tài sản.
Tuy nhiên, từ khi nộp đơn khởi kiện ngày 14/02/2019, đến nay Công ty Thiên Phú đã không đưa ra được bất kỳ một căn cứ, chứng cứ nào chứng minh Công ty đấu giá Nam Sài Gòn có hành vi vi phạm theo khoản 2 Điều 72 Luật Đấu giá đối với yêu cầu khởi kiện của mình.
Mặt khác, trong Kết luận thanh tra số 62/KL-TTR ngày 24/12/2018 của Thanh tra Bộ Tư pháp kết luận: “Qua thanh tra nhận thấy quá trình tổ chức bán đấu giá tài sản theo Hợp đồng số 10/2015/HĐĐG ngày 17/6/2015, Công ty Đấu giá về cơ bản đã thực hiện trình tự thủ tục theo quy định pháp luật về bán đấu giá tài sản như đăng tải trên phương tiện thông tin đại chúng, niêm yết thông báo bán đấu giá, tổ chức điều hành phiên đấu giá”.
Ngày 15/3/2019 Văn phòng Chính phủ gửi công văn số 2059/VPCP-V.I đến Bộ Tư pháp. truyền đạt ý kiến chỉ đạo của Thủ tướng Nguyễn Xuân Phúc, yêu cầu Bộ Tư pháp báo cáo kết quả thanh tra vụ bán đấu giá trên.
Ngày 29/3/2019 Bộ Tư pháp đã gửi Báo cáo số 91/BC-BTP gửi Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc. Báo cáo nêu rõ đề nghị hủy kết quả đấu giá là không có căn cứ vì: “Việc thực hiện trình tự, thủ tục đấu giá của công ty đấu giá không có vi phạm pháp luật nghiêm trọng. Hợp đồng chuyển nhượng đã được các bên ký kết, việc hủy hay tiếp tục thực hiện hợp đồng thuộc trách nhiệm của bên có tài sản đấu giá (Agribank)”. Và “sau khi Thanh tra Bộ Tư pháp ban hành kết luận thanh tra, không có cá nhân, tổ chức nào khiếu nại kết luận này”.
Mặt khác, Công ty Thiên Phú không có quyền yêu cầu khởi kiện Công ty Nam Sài Gòn, bởi lẽ theo quy định của Bộ luật Dân sự thì Công ty Thiên Phú không phải là chủ thể trong quan hệ pháp luật giao kết các hợp đồng nêu trên với Công ty Nam Sài Gòn, nên không có đủ điều kiện về chủ thể, do đó không có quyền yêu cầu khởi kiện Công ty Nam Sài Gòn.
Căn cứ Điều 4 của Hợp đồng thế chấp tài sản số 6220-LAV201100301/TC ngày 15/3/2011 giữa Ngân hàng Agribank Chợ Lớn và Công ty Thiên Phú đã cam kết về việc xử lý tài sản thế chấp: Trong trường hợp quá hạn trả nợ Bên A (Ngân hàng Agribank Chợ Lớn) có quyền bán tài sản thế chấp để thu hồi nợ mà không cần có ý kiến của Bên B (Công ty Thiên Phú). Phương thức bán do bên ngân hàng chủ động quyết định.
Căn cứ “Biên bản thỏa thuận về việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ của Công ty Thiên Phú” ngày 17/4/2015 giữa Công ty Thiên Phú và Agribank Chợ Lớn: Công ty Thiên Phú tự nguyện bàn giao, toàn bộ tài sản thế chấp là quyền sử dụng đất, tài sản, công trình khác (nếu có) gắn liền với đất của Dự án khu dân cư Hòa Lân cho ngân hàng Agribank Chợ Lớn toàn quyền xử lý, bán tài sản kèm theo hồ sơ pháp lý của dự án trên thông qua tổ chức bán đấu giá để thu hồi nợ cho ngân hàng theo quy định của pháp luật.
Công ty Thiên Phú đã đồng ý cho ngân hàng Agribank Chợ Lớn tự lựa chọn tổ chức bán đấu giá tài sản và ủy quyền cho ngân hàng được toàn quyền ký kết hợp đồng, phụ lục hợp đồng, biên bản bán đấu giá tài sản có sự tham gia chứng kiến của Công chứng viên để chứng nhận cho những văn bản này và những văn bản, giấy tờ khác có liên quan đến việc định đoạt tài sản thế chấp nói trên để ngân hàng thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. Từ những căn cứ nêu trên, ngân hàng Agribank Chợ Lớn đã trở thành người có tài sản bán đấu giá theo quy định của pháp luật.
Từ tài liệu, chứng cứ đã được thẩm tra và căn cứ nêu trên, cho thấy về điều kiện chủ thể Công ty Thiên Phú không có quyền khởi kiện quan hệ hợp đồng vì không phải chủ thể tham gia giao kết làm phát sinh quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng; Không có quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng theo quy định của Bộ luật Dân sự; Không có phát sinh tranh chấp, thiệt hại về dân sự từ hợp đồng trên theo quy định của pháp luật đấu giá.
Tất cả các nội dung trên còn được thể hiện ý chí của Công ty Thiên Phú xuyên suốt quá trình bàn giao tài sản để xử lý nợ, bán tài sản hoàn thành hơn 01 năm mà không có ý kiến, kiến nghị, khiếu nại, tranh chấp nào liên quan đến các giao dịch trên. Ngoài ra, còn thể hiện việc đại diện của Công ty Thiên Phú ký biên bản đấu giá thành, Hợp đồng bán tài sản đấu giá thành, đo đạc bàn giao quyền sử đụng đất trên thực địa.
Do đó, những nội dung tài liệu chứng cứ chứng minh của nguyên đơn đối với yêu cầu khởi kiện của mình là không có căn cứ pháp luật. Do đó Công ty CP Dịch vụ Đấu Giá Nam Sài Gòn đề nghị thẩm phán bác yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn đối với yêu cầu tuyên vô hiệu hợp đồng mua bán tài sản đấu giá số 01/2017 và hủy kết quả bán đấu giá.
PV