/ Góc nhìn
/ Xã hội hóa giáo dục, tại sao không?

Xã hội hóa giáo dục, tại sao không?

05/01/2021 17:54 |4 năm trước

LSVNO - Trong khi ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục còn nhiều bất cập, việc huy động các nguồn lực xã hội một cách tự nguyện để đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục là chính đáng và hết sức cần th...

LSVNO - Trong khi ngân sách Nhà nước dành cho giáo dục còn nhiều bất cập, việc huy động các nguồn lực xã hội một cách tự nguyện để đầu tư nâng cao chất lượng giáo dục là chính đáng và hết sức cần thiết.

Đầu tư ngân sách chưa đồng đều

Đảng và Nhà nước ta luôn xem phát triển giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu. Theo đó, lĩnh vực, giáo dục đào tạo được ưu tiên đầu tư với nguồn lực lớn từ ngân sách nhà nước. Từ năm 2013 đến năm 2017, quy mô chi ngân sách cho giáo dục luôn tăng, từ 155.604 tỷ đồng năm 2013 đến năm 2017 là 248.118 tỷ đồng.

 

 Hiện nay việc đầu tư cho giáo dục vẫn chưa có sự đồng đều giữa các cấp học.

Tuy nhiên, việc đầu tư cho giáo dục vẫn còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế. Trong đó thể hiện ở cơ cấu chi cho các nhiệm vụ, giữa các bậc học, nội dung chi trong từng bậc học và ngành nghề trong từng bậc học.

Chất lượng đội ngũ giáo viên chưa được quan tâm đúng mức, dẫn đến chất lượng giáo dục thấp. Học sinh tốt nghiệp còn hạn chế về tư duy sáng tạo, kỹ năng thực hành, năng lực vận dụng những kiến thức được học vào giải quyết các vấn đề thực tiễn, thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết cho hội nhập, khả năng thích ứng với công việc, ý thức tổ chức kỷ luật còn hạn chế.

Cơ cấu chi tiêu cho giáo dục, đào tạo có sự không tương xứng trong đầu tư cho các bậc học. Theo Báo cáo của Vụ kế hoạch – Tài chính, tính đến năm 2017 chi ngân sách địa phương tập trung cho mầm non và phổ thông. Trong đó, THCS và THPT tương đối ổn định qua các năm (khoảng 25,3% đối với THCS, 12% đối với THPT), tiểu học được ưu tiên nhất (trung bình là 32,7%).

Mầm non có tốc độ tăng đều về cơ cấu chi trong cả giai đoạn, từ 18% năm 2013 đến 20% năm 2015. Chi ngân sách địa phương chiếm tỷ trọng nhỏ hơn là đại học (khoảng 2%) và các trình độ khác (khoảng 9%).

Định mức phân bổ ngân sách cho dạy nghề hiện nay quá thấp, đào tạo chưa thật gắn kết với mục tiêu, không dựa vào căn cứ hiệu quả đầu ra. Theo Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội quy định, mức chi cho mỗi học sinh học nghề trong một năm chỉ là 4,3 triệu đồng, tuy nhiên không phải tất cả học sinh đều được hưởng như vậy. Bất cập này dẫn đến hệ thống trường nghề ít được nâng cấp đầu tư, chất lượng đào tạo nghề thấp, không đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp.

Trong Báo cáo gửi Quốc hội vừa qua, Bộ Giáo dục và Đào tạo cho biết nguồn lực tài chính đầu tư cho giáo dục còn eo hẹp, chi phí thấp nếu so sánh với các nước trên thế giới.

Chi ngân sách nhà nước cho toàn ngành Giáo dục hiện ở mức gần 20% tổng chi, nhưng chủ yếu là chi thường xuyên (chi lương, phụ cấp, các khoản có tính chất lương và chi hoạt động bộ máy) chiếm khoảng 86,7%. Chi cho đầu tư chỉ chiếm 13,3% tổng chi ngân sách cho giáo dục. Trong đó, Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ trực tiếp quản lý chưa đến 5% tổng chi ngân sách nhà nước cho lĩnh vực giáo dục và đào tạo, 95% còn lại do các bộ, ngành và địa phương quản lý và sử dụng.

Xã hội hóa giáo dục là cần thiết

Theo Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo Phùng Xuân Nhạ, trong thời gian tới ngoài việc tăng cường đầu tư, đổi mới thì việc huy động nguồn lực xã hội hóa đầu tư cho giáo dục là hết sức cần thiết, ngân sách nhà nước chỉ đầu tư vào một số lĩnh vực, đồng thời đẩy mạnh đổi mới các đơn vị sự nghiệp công lập trong lĩnh vực giáo dục, mở rộng nhiều nguồn lực cho lĩnh vực này.

 

 Việc xã hội hóa giáo dục bước đầu đã đem lại những kết quả khả quan.

Xã hội hóa giáo dục không chỉ là vấn đề xã hội tham gia vào việc dựng trường, mở lớp, hay tài trợ, mà xã hội cần được tham gia vào quá trình xây dựng các chương trình giáo dục.

Trước thực tế xã hội đã và đang phải chịu rất nhiều bất cập trong giáo dục như tệ nạn dạy thêm, học thêm, bệnh thành tích, chương trình và sách giáo khoa ít nhiều còn áp đặt, chủ quan lên mọi vùng miền, và mọi đối tượng... Cùng với đó là tính cạnh tranh trong giáo dục còn rất thấp.

Tất cả những vấn đề nêu trên tạo sức ép rất lớn lên giáo dục công lập trong khi năng lực quản lý và nguồn kinh phí của Nhà nước không đủ để đáp ứng giải quyết những phát sinh ngày càng gia tăng đó.

Nhìn nhận từ thực tế và yêu cầu của xã hội hiện nay thì cần phải thúc đẩy xã hội hóa giáo dục theo dòng chảy của kinh tế thị trường dưới sự quản lý của Nhà nước. Để làm điều này, trước hết cần phải xây dựng  một hệ thống luật pháp phù hợp, một chương trình dạy và học hợp lý giúp cho việc hình thành các không gian giáo dục mở, mà ở đó sự cạnh tranh lành mạnh và thực chất về chất lượng giáo dục được thực thi. Thêm nữa, nó còn tạo điều kiện để mọi công dân đều có thể tham gia và đóng góp vào giáo dục giúp đa dạng hoá, hiện đại hóa chương trình, nhằm đáp ứng được những đòi hỏi phong phú của xã hội.

Nhằm tháo gỡ bế tắc trong giáo dục, cũng như để hội nhập thành công cần phải đón nhận và vun đắp cho thị trường giáo dục, và xem nó như một thị trường đặc thù, hình thành các không gian giáo dục mở, mà ở đó sự cạnh tranh lành mạnh và thực chất về chất lượng giáo dục được thực thi. Cùng với đó là nâng cao vai trò của quản lý nhà nước, để thị trường này phát triển đúng với yêu cầu xã hội, vừa đảm đương được sứ mệnh lịch sử của nó.

Trong việc xã hội hóa giáo dục cần tạo một sân chơi thật sự bình đẳng giữa hệ công lập và hệ thống dân lập. Hai hệ thống này cần phải hoàn toàn bình đẳng trước pháp luật, và đặc biệt là bình đẳng theo đúng luật chơi của kinh tế thị trường toàn cầu. Vì chỉ có như vậy mới có cạnh tranh lành mạnh về chất lượng giáo dục giữa các cơ sở giáo dục, mang lại tiến bộ không ngừng cho chất lượng giáo dục.

Theo Bộ Lao động Thương binh và Xã hội, tính đến tháng 3/2018, cả nước có 1.954 cơ sở giáo dục nghề nghiệp gồm 1.299 cơ sở công lập, chiếm 63% tổng số; 648 cơ sở tư thục, chiếm 33%; 7 cơ sở có vốn đầu tư nước ngoài, chiếm 0,4%.

Đối với môn tiếng Anh, hiện nay ở các cấp học chỉ tập trung vào hai kỹ năng đọc viết và học sinh học rất nhiều. Tuy nhiên, kỹ năng nói thì lại rất hạn chế bởi tính thực tiễn rất ít. Đề án ngoại ngữ của Bộ Giáo dục đến năm 2020 tập trung vào kỹ năng nghe và nói tiếng Anh cho học sinh. Tuy nhiên, chương trình của Bộ là chương trình khung, cần có chương trình khác để bổ trợ.

Một lãnh đạo của Sở Giáo dục Hà Nội cho biết, chương trình liên kết với các trung tâm vào trường dạy tiếng Anh cho học sinh chính là tăng cường hai kỹ năng đó. Trong đó, đối với lứa tuổi mẫu giáo và lớp 1 - 2 tiếng Anh chỉ nhằm mục đích làm quen, lên lớp 3 - 4 - 5 tiếng Anh là chương trình bổ trợ cho chương trình khung của Bộ.

Tính đến năm 2017, qua báo cáo và khảo sát cho thấy hiện nay toàn TP. Hà Nội có 1.050/2.122 trường mầm non, tiểu học, THCS, THPT công lập thực hiện giảng dạy ngoại ngữ liên kết với 27 trung tâm ngoại ngữ. Hầu hết các trường thực hiện liên kết tập trung ở các quận nội thành và các quận, huyện gần trung tâm Thành phố. Việc tổ chức dạy và học ngoại ngữ liên kết trong các nhà trường công lập đã đáp ứng nguyện vọng nâng cao trình độ ngoại ngữ xuất phát từ nhu cầu thực tế của phụ huynh và học sinh trên địa bàn. 100% các trường mầm non, tiểu học, THCS thực hiện việc liên kết khi có sự đồng thuận của cha mẹ học sinh.

Chất lượng dạy và học ngoại ngữ của Thành phố có những tiến bộ đáng kể, trình độ ngoại ngữ của học sinh được cải thiện, học sinh tham gia các cuộc thi cấp quận, cấp Thành phố và cấp Quốc gia đều đạt giải cao, số lượng học sinh tham gia các giải thi, sân chơi môn tiếng Anh ngày càng nhiều, chất lượng tốt, các em có thêm nhiều cơ hội để học tốt 4 kỹ năng nghe, nói, đọc, viết. Chương trình liên kết ngoại ngữ được xây dựng với mục tiêu bổ trợ cho chương trình của Bộ Giáo dục và Đào tạo, được thực hiện theo đúng các văn bản chỉ đạo của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội…

Cũng theo lãnh đạo Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội, sau nhiều năm dạy học tiếng Anh liên kết đã thấy rõ hiệu quả vì học sinh đã giao tiếp được, nói được. Điều này được khẳng định qua việc hàng năm Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội lấy ngẫu nhiên 20% học sinh để kiểm tra.

Hoàng Trung