Tham dự Hội thảo có các nhà khoa học, cán bộ quản lý của các Bộ ngành Trung ương như Ban Nội chính Trung ương, Văn phòng Chính phủ, Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Bộ Công an, Bộ Tư pháp, Hội Luật gia Việt Nam, Bộ Thông tin và Truyền Thông, Bộ Tài chính, Tập đoàn Viễn thông Quân đội (Viettel).
Hội thảo đã nghe các tham luận từ ông Trần Huy Quân, Cục Tin học hóa Bộ Thông tin và Truyền thông; PGS. TS Tô Văn Hòa, Phó Hiệu trưởng Trường Đại học Luật Hà Nội; GS.TS Lê Hồng Hạnh, nguyên Viện trưởng Viện Khoa học pháp lý Bộ Tư pháp; PGS.TS Phạm Văn Hải, Giảng viên cao cấp Trường Công nghệ thông tin - truyền thông, Trường Đại học Bách khoa Hà Nội; TS Nguyễn Bích Thảo, Phó Chủ nhiệm phụ trách Bộ môn Luật Dân sự, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội; TS. Thiếu tướng Nguyễn Đình Chiến, Phó Tổng Giám đốc Viettel; Luật sư, Thạc sĩ Nguyễn Hưng Quang, Trưởng VPLS Nguyễn Hưng Quang và Cộng sự; Luật sư, Tiến sĩ Nguyễn Thị Ngọc Bích, Giám đốc Công ty Luật Advacas,...
Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài, Ủy viên Đảng Đoàn, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam, Thành viên Hội đồng Tư vấn Án lệ Tòa án nhân dân Tối cao được mời tham dự Hội thảo và trình bày tham luận với nội dung: “Xây dựng Tòa án điện tử góp phần tăng công khai, minh bạch và đảm bảo giám sát xã hội các hoạt động của Tòa án”. Tạp chí Luật sư Việt Nam xin trân trọng giới thiệu tham luận của Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài.
1. Về sự cần thiết xây dựng Đề án
Chúng tôi hoàn toàn nhất trí về đánh giá của Tòa án nhân dân Tối cao (TATC) về sự cần thiết xây dựng Đề án, phù hợp với chủ trương của Đảng và Nhà nước về ứng dụng công nghệ thông tin (gọi tắt “CNTT”) nhằm cải cách hành chính, hiện đại hóa cơ quan Nhà nước nhằm hướng đến xây dựng một Chính quyền hiệu lực, hiệu quả hơn, thực sự của dân, do dân và vì dân, nâng cao năng lực cạnh tranh, tạo môi trường thuận lợi phát triển kinh tế - xã hội. Bản thân tôi đã tham dự Hội nghị thường niên Hội Luật châu Á - Thái Bình Dương, được biết Việt Nam tham gia Hội nghị Chánh án các nước khu vực châu Á - Thái Bình Dương, Hội đồng Chánh án khu vực ASEAN và đã cam kết đến năm 2025 phải hoàn thành việc xây dựng Tòa án điện tử theo Nghị quyết của Hội đồng. Hiện nay nhiều quốc gia đã triển khai thành công mô hình Tòa án điện tử, số hoá các tài liệu trong hồ sơ vụ án, hệ thống quản lý án, hệ thống cơ sở dữ liệu pháp luật… trong hoạt động tại Tòa án, mang lại nhiều thuận lợi cho người dân trong khả năng tiếp cận công lý, hoạt động quản lý và xét xử của Tòa án được nhanh chóng. Về phần mình, chúng tôi đã tích cực tham gia đóng góp ý kiến, cung cấp cho bộ phận nghiên cứu Đề án các tài liệu, sơ đồ, yếu tố kỹ thuật của Tòa án điện tử, trên cơ sở hỗ trợ của một số tổ chức Luật sư như Hoa Kỳ, CHLB Đức, Nhật Bản. Ngoài ra, đa số Tòa án các nước khu vực ASEAN đã thực hiện việc xây dựng Tòa án điện tử và tổ chức xét xử trực tuyến, phù hợp xu hướng toàn cầu về xây dựng Tòa án điện tử (hiện chỉ còn Việt Nam, Lào, Campuchia và Myanmar chưa thực hiện).
PGS. TS Nguyễn Hòa Bình, Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao phát biểu khai mạc tại Hội thảo.
Ở Việt Nam, các đạo luật hiện hành về tố tụng tư pháp (Bộ luật Tố tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Luật Tố tụng hành chính) đã có một số quy định về tố tụng điện tử, tố tụng trực tuyến. Đặc biệt, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 33/2001/QH15 ngày 12/11/2021 về tổ chức phiên tòa trực tuyến. Đây là các cơ sở pháp lý bước đầu để triển khai xây dựng Tòa án điện tử ở Việt Nam.
Ngoài các lợi ích mà Tòa án điện tử mang lại như phân tích của Đề án, chúng tôi cho rằng, Tòa án điện tử sẽ hỗ trợ đắc lực việc công khai, minh bạch toàn bộ hoạt động, tiến độ và kết quả xét xử, tạo điều kiện để người dân theo dõi, giám sát quá trình giải quyết vụ án của Tòa án, đặc biệt là vừa bảo đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể xã hội và quyền hành nghề của Luật sư, đồng thời tăng năng lực quản lý và giám sát trong hệ thống Tòa án, trong đó bao gồm cả sự giám sát của người dân và đội ngũ Luật sư khi tham gia tố tụng, góp phần phòng ngừa tiêu cực.
2. Một số vấn đề liên quan xây dựng Tòa án điện tử nhìn từ góc độ của hoạt động nghề nghiệp Luật sư
2.1. Nhìn từ thành tựu và thực trạng ứng dụng CNTT trong hoạt động Tòa án thời gian qua
Chúng tôi đánh giá cao việc ngành Tòa án thời gian qua đã không ngừng cải tiến, nâng cao các điều kiện về cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, triển khai xây dựng và đưa vào sử dụng nhiều hệ thống công nghệ thông tin bước đầu giúp cho các hoạt động của Tòa án được thực hiện một cách chuyên nghiệp, công khai, minh bạch hơn, giảm bớt khối lượng công việc hành chính của Tòa án, góp phần hỗ trợ Thẩm phán trong hoạt động chuyên môn; đặc biệt nâng cao hiệu quả chỉ đạo điều hành và giúp người dân dễ dàng tiếp cận công lý. Trong đó, ngoài hệ thống công nghệ giúp việc vận hành và quản lý nội bộ, Cổng Thông tin điện tử Toà án nhân dân Tối cao và 67 Trang thông tin điện tử Tòa án nhân dân các cấp, Trang tin điện tử về Án lệ và Trang thông tin điện tử công bố bản án, quyết định của Toà án đã bước đầu hoạt động hiệu quả, tạo môi trường giao tiếp điện tử để người dân dễ dàng theo dõi, tra cứu các thông tin và giám sát tình hình hoạt động của Tòa án.
Trong điều kiện tình hình dịch bệnh Covid-19 diễn biến phức tạp hơn 2 năm qua, một số dịch vụ tư pháp công của Toà án nhân dân được nâng cấp độ 4 lên Cổng dịch vụ công quốc gia giúp cho người dân và doanh nghiệp dễ dàng tiếp cận, sử dụng các dịch vụ công của Tòa án, trong đó có dịch vụ công nộp đơn khởi kiện, tài liệu, chứng cứ và nhận các văn bản thông báo tố tụng; đăng ký nhận các thông báo, văn bản tố tụng bằng phương tiện điện tử; đăng ký cấp sao bản án, tài liệu trong hồ sơ vụ án giúp người dân dễ dàng giải quyết công việc tại Tòa án mọi lúc, mọi nơi mà không cần phải đến trực tiếp trụ sở của Tòa án. Đặc biệt, với sự chuẩn bị công phu và bài bản của TATC, cũng như tham vấn ý kiến các chuyên gia, tại kỳ họp thứ 2, Quốc hội khóa XV đã thông qua Nghị quyết số 33/2021/QH15 ngày 12/11/2021 về tổ chức phiên tòa trực tuyến. Đây là các quy định mới tạo nền tảng pháp lý để triển khai xây dựng Tòa án điện tử ở Việt Nam.
Tuy nhiên, nhìn từ thực tiễn xét xử và hoạt động tham gia tố tụng của Luật sư, có thể nhận thấy các “điểm nhấn” trong kết quả hoạt động của Tòa án nêu trên vẫn còn khiêm tốn. Một trong những vấn đề quan tâm hàng đầu là chất lượng xét xử, chất lượng bản án, quyết định của Tòa án và bảo đảm áp dụng thống nhất pháp luật chưa tương xứng với mục tiêu và kỳ vọng của người dân về Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp. Là người trực tiếp tham gia hoạt động xét xử gần như tất cả các vụ đại án hình sự, cũng như các tranh chấp dân sự, thương mại, hành chính thời gian qua, chúng tôi nhận thấy vấn đề thu thập, kiểm tra, sử dụng và đánh giá chứng cứ điện tử vẫn còn nhiều bất cập. Cách thức tổ chức các phiên tòa vẫn chưa tích hợp và sử dụng được tính ưu việt của các nền tảng CNTT, hầu như tại các phòng xử vẫn chưa trang bị được hệ thống, nền tảng, phương tiện (máy chiếu, mạng) để công khai chứng cứ hoặc tạo cơ sở cho việc trình bày quan điểm buộc tội và bào chữa, tranh luận đối đáp tại phiên tòa[1].
Có một thực tế là ngoại trừ các trung tâm, thành phố lớn đã bước đầu xây dựng nền tảng hạ tầng CNTT, phần lớn các Tòa án địa phương trang bị chưa đầy đủ hoặc có trang bị nhưng đã xuống cấp, lạc hậu không đáp ứng yêu cầu triển khai các ứng dụng CNTT. Đáng chú ý như Đề án đã nêu, các phần mềm nội bộ dùng chung các phần mềm ứng dụng được xây dựng tại nhiều thời điểm khác nhau và không theo một quy chuẩn thống nhất nên qua quá trình sử dụng đã bộc lộ nhiều hạn chế. Mặt khác, tại một số Toà án địa phương cũng tự xây dựng các phần mềm riêng để phục vụ quản lý tại đơn vị; các phần mềm này quy mô nhỏ, tính bảo mật thông cao và không có khả năng kết nối, liên thông dữ liệu với các phần mềm ứng dụng của Tòa án nhân dân Tối cao. Ngay vấn đề thiết kế phần mềm dữ liệu thống kế số lượng Luật sư tham gia các vụ án trong giai đoạn xét xử của Tòa án mà chúng tôi trao đổi với Văn phòng Tòa án nhân dân TP. HCM và lãnh đạo TATC hơn 10 năm qua, nhưng đến nay chưa có các số liệu thống kê chính xác được nêu trong Báo cáo công tác hành năm.
2.2. Về nền tảng pháp lý
Như Đề án có nêu, mặc dù hệ thống pháp pháp luật hiện tại đã có những quy định làm cơ sở pháp lý để triển khai ứng dụng CNTT vào hoạt động tố tụng, tuy nhiên, vẫn còn nhiều hoạt động tố tụng khác chưa được pháp luật cho phép ứng dụng nền tảng trực tuyến để thực hiện như: nộp đơn kháng cáo, đơn yêu cầu, đơn đề nghị giám đốc thẩm, tái thẩm,...; mở phiên họp, đối thoại, hòa giải, công khai chứng cứ, sử dụng hồ sơ án điện tử và chữ ký điện tử; nộp tạm ứng án phí, án phí, lệ phí; xác minh thông tin, thu tập tài liệu, chứng cứ liên quan đến vụ án trực tuyến; cấp sao bản án, tài liệu trong hồ sơ vụ án và sao chụp hồ sơ, tài liệu tố tụng trực tuyến,...
Luật sư, Tiến sĩ Phan Trung Hoài, Ủy viên Đảng Đoàn, Phó Chủ tịch Liên đoàn Luật sư Việt Nam trình bày tham luận tại Hội thảo.
Mặt khác, chúng tôi thấy thực tế cũng chưa có nền tảng trực tuyến để đăng ký và chấp thuận thông báo đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho Luật sư, cũng như tiếp nhận kiến nghị, khiếu nại, quan điểm pháp lý của Luật sư, tống đạt và nhận tống đạt các quyết định, giấy triệu tập Luật sư trong giai đoạn xét xử của Tòa án. Chúng tôi cũng chưa tìm thấy thông qua Đề án, việc tăng cường khả năng kiểm soát quyền lực tư pháp, khả năng giám sát, phản biện của các chủ thể tiến hành và tham gia tố tụng được đề cập rõ nét.
2.3. Bổ sung thực tiễn xây dựng Tòa án điện tử ở một số quốc gia liên quan đến sự tham gia của Luật sư
Trong Phần thứ ba về thực tiễn xây dựng Tòa án điện tử ở một số quốc gia, Đề án đã nêu lên mô hình Tòa án điện tử ở Singapore, Trung Quốc, Malaysia, Hàn Quốc. Về phần mình, với sự hỗ trợ của một số Hiệp hội Luật sư quốc gia, chúng tôi đã cung cấp cho Vụ Pháp chế và quản lý khoa học TATC một số tài liệu đến từ Hoa Kỳ, CHLB Đức và Nhật Bản mà chưa thấy cập nhật trong Đề án (đính kèm các phụ lục).
Nhìn từ góc độ vai trò và tham gia của Luật sư trong tố tụng Tòa án điện tử, đáng chú ý có một số kinh nghiệm nước ngoài như sau:
2.3.1. CHLB Đức
Tài liệu do Liên đoàn Luật sư CHLB Đức (BRAK) cung cấp cho Liên đoàn Luật sư Việt Nam cho thấy: Theo luật của CHLB Đức, các phiên tòa xét xử bằng phương tiện nghe - nhìn được phép áp dụng trong các thủ tục tố tụng dân sự, hành chính và hình sự. Tuy nhiên, việc sử dụng âm thanh và video trong tố tụng hình sự phải tuân theo những hạn chế do luật định và các nguyên tắc tố tụng bắt nguồn từ luật hiến pháp CHLB Đức.
Ngược lại với tố tụng dân sự và hành chính, xét xử video trong tố tụng hình sự chỉ có thể thực hiện được ở một mức độ rất hạn chế. Theo luật pháp Đức, nguyên tắc trực tiếp và nghĩa vụ của các bên phải có mặt trước tòa là mâu thuẫn với nguyện vọng muốn được tiến hành các phiên điều trần bằng phương tiện nghe - nhìn.
Nguyên tắc trực tiếp được hệ thống hóa ở Mục 261 của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) và quy định rằng Tòa án phải có sự tương tác, trao đổi trực tiếp về các hành vi của tội phạm trong phiên điều trần chính. Điều này chỉ có thể thực hiện được nếu Tòa án liên tục có mặt trong toàn bộ phiên điều trần chính. Nghĩa vụ này được quy định tại Mục 226 (1) BLTTHS. Ngoài ra, nguyên tắc trực tiếp hơn nữa yêu cầu rằng bằng chứng trực tiếp nhất, tức là bằng chứng gần nhất với tội phạm, phải được sử dụng để thiết lập các tình tiết của vụ án. Nghĩa vụ này được hệ thống hóa trong Mục 250 BLTTHS, theo đó việc thẩm vấn một đối tượng không thể được thay thế bằng việc đọc biên bản thẩm vấn trước đó hoặc bằng một bản tuyên bố.
Nghĩa vụ của các bên phải có mặt tại tòa trong toàn bộ phiên điều trần dựa trên Mục 230 và 231 BLTTHS. Các mục này quy định quyền và nghĩa vụ của bị cáo phải có mặt trong phiên điều trần chính. Điều này nhằm đảm bảo rằng người đó được nghe và tòa có thể quan sát trực tiếp diễn biến của bị cáo. Nguyên tắc trực tiếp cũng đang được áp dụng cho các nhân chứng. Mục 250 BLTTHS yêu cầu tòa phải quan sát trực tiếp nhân chứng.
Luật sư Wesser Văn phòng Luật sư Pitzer & Wesser ở Tây Berlin thao tác trên hệ thống máy tính kết nối xét xử trực tuyến với Toà án (Ảnh: Hoài Phan).
Các ngoại lệ đối với nguyên tắc trực tiếp chỉ áp dụng trong các trường hợp khẩn cấp và trong các thủ tục sau khi phản đối lệnh hình phạt. Tòa án chỉ được phép lắng nghe toàn bộ hoặc tạm thời trong một thời gian rất hạn chế mà không cần bị cáo có mặt trong phòng xử án. Cơ sở pháp lý có thể được tìm thấy trong Mục 247a BLTTHS. Tuy nhiên, phần này được áp dụng một cách rất hạn chế. Ví dụ, một trường hợp ngoại lệ được áp dụng, như nạn nhân của tội phạm tình dục sẽ được miễn đối mặt với bị cáo trong Phòng xử án.
Đáng chú ý, phòng xử án phải được trang bị hệ thống họp trực tuyến bao gồm cơ sở hạ tầng CNTT riêng tách biệt với cơ sở hạ tầng thông thường của Tòa án. Các thiết bị văn phòng thông thường hiện được hầu hết các Tòa án sử dụng không được thiết kế cho các cuộc họp trực tuyến. Băng thông của các mạng CNTT chưa cho phép truyền video ở nhiều Tòa án. Các Tòa án Đức hiện đang nỗ lực cải thiện cơ sở hạ tầng internet của họ để có thể đưa ra nhiều phiên xét xử qua video hơn. Chỉ rất ít Tòa án được trang bị thiết bị họp trực tuyến, những Tòa án khác có thiết bị di động được đưa vào áp dụng trong một số trường hợp tại Phòng xử án.
Bộ Tư pháp Liên bang và Bảo vệ Người tiêu dùng Đức đang trong quá trình phối hợp cùng với các Tòa án và cơ quan quản lý tư pháp của thành viên liên bang nhằm xây dựng một tiêu chuẩn toàn quốc để sử dụng truyền âm thanh và hình ảnh trong quá trình tố tụng tại Tòa án (vui lòng tham khảo 9. Tuyên bố về Dự án “Tiêu chuẩn Toàn quốc cho Phiên điều trần trực tuyến“). Cho đến khi phát triển và triển khai hệ thống họp trực tuyến dựa trên máy chủ, các Tòa án sẽ tiếp tục sử dụng các hệ thống khác nhau hiện có trên thị trường. Các giải thích sau đây đề cập đến việc sử dụng hiện tại các ứng dụng khác nhau của các Tòa án.
Các Tòa án có nhiệm vụ và nghĩa vụ cung cấp phần mềm và dịch vụ lưu trữ cho phiên xử. Nếu Tòa án không ban hành bất kỳ lệnh cụ thể nào cho các thẩm phán của mình, thì thẩm phán có quyền quyết định nhất định và có thể lựa chọn giữa một số đề xuất. Khi lựa chọn một ứng dụng phù hợp, thẩm phán phải đảm bảo rằng ứng dụng đó đáp ứng các yêu cầu của các quy định về bảo mật dữ liệu. Chất lượng đường truyền và tính tiện lợi khi vận hành không phải là tiêu chí lựa chọn chính.
Theo các quy định bảo mật dữ liệu hiện hành, các ứng dụng ghi lại quá trình trao đổi qua video và/hoặc lưu trữ dữ liệu cá nhân và đánh giá dữ liệu đó cho các mục đích riêng không được phép. Một khó khăn kỹ thuật khác là việc mã hóa thông tin liên lạc, đặc biệt là khi dữ liệu được cung cấp bởi hệ thống máy chủ những người tham gia phiên điều trần.
Việc sử dụng các ứng dụng được quản lý tại CHLB Đức hoặc Liên minh Châu Âu là khuyến khích, vì các ứng dụng này trực tiếp tuân theo các quy định bảo vệ dữ liệu của Liên minh Châu Âu. Cần đặc biệt chú ý nếu ứng dụng cho phép cài đặt chức năng tuân thủ quy định về bảo mật dữ liệu (ví dụ: hủy kích hoạt theo dõi người dùng) và liệu có cung cấp bảo vệ bằng mật khẩu trước khi kết nối đến phiên hay không (ví dụ: Một tiêu chí loại trừ sẽ là ứng dụng lưu trữ dữ liệu trên điện toán đám mây). Dẫu vậy, ứng dụng lưu trữ theo ngày liên quan đến người dùng (ví dụ: địa chỉ IP của người dùng, tên người đăng ký) được cho phép theo các quy định hiện hành. Tuy nhiên, phải được sự đồng ý của những người tham gia tại Tòa án…
Liên quan việc cho phép liên lạc giữa thẩm phán, công tố viên và Luật sư bằng văn bản, điện tử, điện thoại và hội nghị truyền hình: Đối với trao đổi qua điện tử, BRAK đã phát triển và triển khai Hộp thư điện tử đặc biệt của Luật sư (beA). Hộp thư điện tử dành cho Luật sư này là một phần của cơ sở hạ tầng liên lạc dành cho Tòa án và hành chính mà các cơ quan có thẩm quyền của Đức bắt đầu triển khai từ năm 2004 để truyền các tài liệu và tệp điện tử từ người dùng đã được xác thực đến các Tòa án và cơ quan có thẩm quyền tham gia. Hộp thư này nhằm cho phép các Luật sư đã gia nhập các Đoàn Luật sư ở Đức giao tiếp an toàn với cơ quan tư pháp, với các cơ quan công quyền cũng như với nhau.
Kể từ đầu 2018, Luật sư phải tuân theo nghĩa vụ sử dụng mang tính thụ động theo Mục 31a (6) của Đạo luật Luật sư Liên bang (BRAO). Có nghĩa là, các Luật sư khi được gia nhập vào Đoàn Luật sư phải duy trì các phương tiện kỹ thuật cần thiết cho beA và lưu ý việc gửi tài liệu và truy cập thông tin liên lạc qua beA. Kể từ đầu năm 2022, nghĩa vụ sử dụng mang tính chủ động sẽ được thực thi trên phạm vi toàn quốc, điều này sẽ buộc các Luật sư phải chuyển tất cả các tài liệu về quá trình tố tụng theo phương thức điện tử tới Tòa án và các cơ quan chức năng thông qua beA.
Trong thời buổi Đại dịch Covid-19, BRAK nhấn mạnh rằng liên lạc giữa các Tòa án, các bên tham gia tố tụng và Luật sư phải được cải thiện. Các Tòa án nên trao đổi nhiều hơn trong quá trình chuẩn bị các cuộc gặp mặt tại tòa và các hoạt động tố tụng với các bên liên quan trong quá trình tố tụng. Hướng dẫn nên được cung cấp ở giai đoạn đầu của quá trình tố tụng bằng văn bản, qua điện thoại hoặc thông qua các phương tiện điện tử. Bất kể các quy định được đưa ra trong Mục 128a của Bộ luật Tố tụng Dân sự, Tòa án vẫn có thể tương tác với các bên đã ở giai đoạn đầu của quá trình chuẩn bị phiên điều trần. Nguyên tắc tố tụng bằng lời nói theo luật của Đức không cấm Tòa án trao đổi với Luật sư bên ngoài phiên tòa. Do đó, có thể thảo luận sơ bộ và thu xếp để thương lượng với Luật sư.
Hơn nữa, thông qua các cuộc thảo luận sơ bộ, Tòa án sẽ có thể quyết định cách thức tiến hành phiên điều trần và tối ưu hóa việc thu thập bằng chứng. Chỉ sau khi thảo luận sơ bộ, Tòa án sẽ có đánh giá xem liệu một phiên điều trần có nên được tiến hành theo cách thông thường, bằng phương tiện nghe-nhìn hay nếu vụ việc phải được quyết định trên cơ sở thủ tục bằng văn bản. Theo quan điểm của BRAK, liên lạc bằng văn bản, kỹ thuật số hoặc điện thoại nên được cải thiện đáng kể bởi các Tòa án, và những quy định về khả năng có thể thực hiện được theo luật tố tụng của Đức nên được khai thác nhiều hơn nữa.
2.3.2. Nhật Bản
Hiện nay, thủ tục xét xử trực tuyến chỉ được áp dụng trong Thủ tục Sắp xếp hồ sơ vụ việc trong tố tụng dân sự.
Liên quan vai trò và sự tham gia của Luật sư, Tòa án xác nhận yêu cầu, đề xuất của Luật sư mỗi Bên liên quan đến thủ tục sắp xếp hồ sơ vụ việc qua trực tuyến. Trong trường hợp mỗi Luật sư đều đã đồng ý với thủ tục sắp xếp hồ sơ vụ việc qua trực tuyến, Tòa án quyết định thực hiện. Thư ký Tòa án phụ trách vụ án tạo các "Nhóm" trong Ứng dụng họp, sau đó Thư ký Tòa án thông báo cho từng Luật sư về việc sắp xếp các công việc và những điểm cần lưu ý, kiểm tra kết nối thử (khoảng 1 tuần trước đó).
Về phương thức liên lạc, phối hợp của các bên liên quan gồm Thẩm phán, kiểm sát viên, Luật sư. Trong hệ thống như hiện nay, các công tố viên không được phép tham dự các thủ tục Tòa án trực tuyến bởi vì hiện chỉ được áp dụng trong tố tụng dân sự và công tố viên không tham gia vào các thủ tục tố tụng dân sự ở Nhật Bản. Thẩm phán, Thư ký Tòa án, Luật sư phải trao đổi với nhau qua online trong quá trình tố tụng. Trong trường hợp đường truyền internet không ổn định, không thể tiếp tục cuộc họp trực tuyến thì Thư ký Tòa án có thể cân nhắc chuyển từ cuộc họp trực tuyến sang cuộc họp qua điện thoại…
2.3.3. Hoa Kỳ
Lấy ví dụ tại Tòa án Quận của Hoa Kỳ, Quận Minnesota, với tư cách là một Tòa án liên bang - không có sự liên kết với các Tòa án tiểu bang Minnesota hoặc các Tòa án địa phương. Tòa án Quận Minnesota của Hoa Kỳ đã đưa ra các hướng dẫn tham khảo để chuẩn bị quy trình lựa chọn Bồi thẩm đoàn (BTĐ) hoặc phục vụ với tư cách là Bồi thẩm viên (BTV). Theo đó, Tòa án mong muốn tất cả những người tham gia các phiên xét xử trực tuyến chấp hành nghiêm chỉnh giống như khi họ đang trên phiên tòa thông thường với trang phục chỉnh tề và ứng xử một cách chuyên nghiệp. Không chụp ảnh, ghi hình hoặc quay video, không đứng dậy và rời đi trong thời gian xét xử; giờ nghỉ giải lao và thời gian nghỉ trưa (được kéo dài hơn) sẽ được sắp xếp hợp lý trong ngày.
Quy định này dựa trên phiên tòa xét xử trực tuyến đang được tiến hành trên ZoomGov, sử dụng hệ thống Box.com để tạo điều kiện trong trao vật chứng với BTĐ trong khi nghị án. Quy định này nhằm giải quyết các thủ tục cơ bản để tổ chức một phiên tòa xét xử trực tuyến trên ZoomGov.
Trước khi xét xử, Luật sư phải trao đổi về cách thức các nhân chứng có thể tiếp cận các tang chứng, vật chứng trong quá trình xét xử. Ngoài ra, trước khi xét xử, chủ tọa phiên tòa và các Luật sư phải quyết định cách xử lý đối với tang vật chưa được công nhận. Trước khi xét xử, chủ tọa phiên tòa phải xác định ai sẽ giữ và theo dõi các tang vật trong quá trình xét xử. Trong quá trình xét xử, các nhân chứng sẽ ở lại phòng chờ trên Zoom cho đến thời điểm họ làm chứng, trừ khi chủ tọa phiên tòa đã ủy quyền cho một nhân chứng để theo dõi lời khai khác. Trong lời khai, các vật chứng sẽ được trưng bày thông qua việc bồi thẩm đoàn sử dụng chức năng chia sẻ màn hình trên Zoom.
Nếu thẩm phán cho phép bồi thẩm đoàn đặt các câu hỏi cho nhân chứng, thẩm phán trở thành người đồng chủ trì và mời các bồi thẩm viên gửi câu hỏi bằng cách sử dụng Tính năng Trò chuyện (Chat). Thẩm phán có thể đặt câu hỏi, chuyển câu hỏi cho Luật sư để hỏi, hoặc từ chối đặt câu hỏi. Nếu cần thiết, trước khi câu hỏi được đưa ra, thẩm phán và cố vấn có thể thảo luận về câu hỏi được đề xuất khi BTĐ ở Phòng BTĐ ảo.
Hình ảnh xét xử trực tuyến tại Hoa Kỳ (Ảnh: báo Tiền Phong).
Luật sư tư vấn cho Bị đơn phải thông báo đầy đủ cho Bị đơn về những nội dung trong phiên điều trần. Ngoài ra, Luật sư phải tư vấn cho Bị đơn trước phiên điều trần rằng Bị đơn có quyền được điều trần trực tiếp, nhưng Tòa án đã tiến hành phiên điều trần qua video do ảnh hưởng của dịch Covid-19 hoặc lý do khác. Vì thế, khi bắt đầu phiên điều trần, Tòa án sẽ yêu cầu Bị đơn chấp thuận việc họ sẽ tiến hành bằng video. Các thiết bị được Luật sư và Bị đơn sử dụng để kết nối trong phiên điều trần phải có chức năng video và âm thanh, và cần được kiểm tra kỹ lưỡng trước khi bắt đầu phiên điều trần.
Nếu Bị đơn cần phiên dịch viên, những người tham gia không được sử dụng điện thoại di động để kết nối với Cuộc họp Zoom vì điện thoại di động sẽ không hỗ trợ phiên dịch đồng thời. Do đó, nếu cần phiên dịch viên, Luật sư phải làm việc với Bị đơn và Thư ký phụ trách để đảm bảo các thiết bị thích hợp được sử dụng trong phiên điều trần. Người tham gia nên đăng nhập sớm trước vài phút để đảm bảo kết nối và tiến hành công việc đúng giờ.
Luật sư cần ghi nhớ và tư vấn cho Bị đơn rằng khi những người tham gia được cho phép vào cuộc họp Zoom từ phòng chờ, tất cả những người tham gia sẽ có thể quan sát và nghe được tất cả những người tham gia khác. Do đó, những người tham gia phải tránh những cuộc trò chuyện cá nhân hoặc cuộc bí mật riêng tư không thích hợp trong trường hợp này.
Trừ khi không thể hoặc có bất cập do lo ngại về việc lây nhiễm Covid-19, Bị đơn nên có mặt trong phiên điều trần cùng Luật sư tại văn phòng Luật sư để họ có quyền truy cập, kết nối và xuất hiện trong một bối cảnh chuyên nghiệp. Nếu Bị đơn không thể xuất hiện cùng Luật sư tại văn phòng Luật sư, Luật sư cần: (1) Xác nhận rằng Bị đơn có điều kiện truy cập internet, cũng như hiểu biết đầy đủ về ứng dụng Zoom; (2) Đảm bảo rằng Bị đơn ý thức được về những yêu cầu trong mục 1 ở trên; (3) Thông báo cho Thư ký phụ trách trước phiên điều trần càng đầy đủ càng tốt về địa điểm và thiết bị mà Bị đơn sẽ xuất hiện sao cho phù hợp sắp xếp có thể được thực hiện; (4) Trích dẫn liên kết cho phiên điều trần qua Zoom cho Bị đơn sau khi nhận được từ Thư ký phụ trách. Luật sư phải phổ biến cho Bị đơn không chia sẻ liên kết với bất kỳ ai khác, bao gồm bạn bè hoặc gia đình. Luật sư phải liên hệ với Thư ký phụ trách nếu bạn bè hoặc gia đình của Bị đơn muốn theo dõi phiên điều trần.
3. Một số kiến nghị
Bên cạnh những điểm được coi là thuận lợi và là kinh nghiệm nói chung, việc xây dựng Tòa án điện tử và thực hiện tố tụng trực tuyến của Tòa án nhiều nước trên thế giới vẫn còn gặp một số khó khăn, thách thức như đã được phân tích trong Đề án. Do đó, chúng tôi đồng thuận ý kiến cho rằng, kinh nghiệm của các quốc gia đã xây dựng thành công Tòa án điện tử cho thấy có hai cấu phần chính bảo đảm cho việc triển khai Tòa án điện tử, một là có đạo luật riêng về tố tụng điện tử, hai là hạ tầng kỹ thuật số, nền tảng số và ứng dụng số phục vụ chuyển đổi hoạt động tố tụng và hoạt động quản trị Tòa án lên nền tảng số.
Trên cơ sở quan điểm, mục tiêu xây dựng Tòa án điện tử đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2045, chúng tôi xin có một số góp ý và kiến nghị đối với Đề án như sau:
Thứ nhất, Đề án nêu quan điểm xây dựng Tòa án điện tử phải xuất phát từ yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh, lấy nhân dân làm trung tâm; phù hợp với đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; được tiến hành đồng bộ, gắn liền với đổi mới lập pháp, cải cách hành pháp, phù hợp với quy luật phát triển khách quan của xã hội Việt Nam, góp phần bảo đảm an toàn pháp lý cho tổ chức, cá nhân, qua đó thúc đẩy phát triển đất nước, hội nhập quốc tế trong tình hình mới.
Hình ảnh lãnh đạo, cán bộ Ban Nội chính Tỉnh ủy theo dõi phiên tòa trực tuyến tại điểm cầu Tỉnh ủy trong vụ án Hình sự sơ thẩm đối với bị cáo Tạ Tiến Tùng về tội “Giết người” do Tòa án nhân dân tỉnh Hà Nam xét xử ngày 22/8/2019 (Ảnh: báo Tiền Phong).
Mặt khác, nhằm xây dựng cơ chế kiểm soát quyền lực, tăng cường tính công khai, minh bạch và bảo đảm giám sát xã hội trong hoạt động của Tòa án, theo chúng tôi Đề án cần trích dẫn và đưa vào các chủ trương, định hướng đã được nêu trong các Nghị quyết của Đảng như:
- Nghị quyết 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 nêu rõ cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan tư pháp trong hoạt động tố tụng trên cơ sở thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng cơ quan, không hữu khuynh hoặc đùn đẩy trách nhiệm… Đồng thời, tăng cường sự giám sát của Quốc hội, hội đồng nhân dân, của các tổ chức xã hội và của nhân dân đối với công tác tư pháp. Công tác giám sát của Quốc hội, của Hội đồng nhân dân đối với các cơ quan tư pháp tập trung vào việc chấp hành pháp luật trong lĩnh vực bắt, tạm giữ, tạm giam, truy tố, xét xử, thi hành án và giám sát việc ban hành các văn bản quy phạm pháp luật về lĩnh vực tư pháp…
- Nghị quyết 49-NQ/TW ngày 06/5/2005 của Bộ Chính trị nêu quan điểm về xây dựng cơ chế phát huy sức mạnh của nhân dân, cơ quan, các tổ chức quần chúng trong phát hiện, phòng ngừa tham nhũng; tăng cường kiểm tra, thanh tra và có cơ chế thanh tra, kiểm tra từ bên ngoài đối với hoạt động của các chức danh tư pháp…
- Nghị quyết Đại hội lần thứ XIII của Đảng đã yêu cầu: “Đẩy mạnh xây dựng, hoàn thiện các quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước …về kiểm tra, giám sát và phòng, chống tham nhũng, lãng phí, nhất là các quy định về kiểm soát quyền lực,…”([2]).
- Kết luận 21-KL/TW, ngày 25/10/2021 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XIII xác định nhiệm vụ: “Hoàn thiện cơ chế kiểm soát quyền lực trong các lĩnh vực, nhất là các lĩnh vực, hoạt động dễ phát sinh tham nhũng, tiêu cực, như: …điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án”.
- Kết luận tại Hội nghị toàn quốc các cơ quan nội chính triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng (tháng 9/2021), đồng chí Tổng Bí thư, Trưởng Ban Chỉ đạo Trung ương về phòng, chống tham nhũng, tiêu cực chỉ đạo: “Tăng cường kiểm soát quyền lực tư pháp”; “Kiểm soát quyền lực và thực hành liêm chính phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trước hết phải được tiến hành có hiệu quả ngay trong các cơ quan nội chính”.
Thứ hai, chúng tôi xin bổ sung thêm một quan điểm quan trọng cần nêu trong Đề án là Tòa án điện tử phải bảo đảm việc tuân thủ các nguyên tắc cơ bản và trình tự tố tụng thông thường đã được quy định trong Bộ luật, Luật tố tụng đã ban hành; trong đó chú ý đến việc bảo đảm tiếp cận sự thật khách quan, bảo vệ công lý, tôn trọng và bảo đảm các quyền và tự do cơ bản của công dân, các quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia tố tụng, tạo cơ chế giám sát hoạt động của Tòa án và giúp đánh giá năng lực, mức độ hoàn thành nhiệm vụ của Thẩm phán, công chức Tòa án.
Liên quan đến quản lý hoạt động tố tụng, bên cạnh mọi hoạt động tố tụng từ khi tiếp nhận đơn khởi kiện, thụ lý hồ sơ vụ án, phân công giải quyết án cho đến khi giải quyết, xét xử xong, thi hành án, ủy thác tư pháp sẽ được tự động cập nhật trên hệ thống, cần bổ sung phần mềm, tính năng tiếp nhận đăng ký bào chữa, bảo vệ quyền lợi đối với Luật sư, tiếp nhận chứng cứ, tài liệu, kiến nghị, khiếu nại từ Luật sư và các đương sự và tống đạt, phát hành văn bản tố tụng. Trong ứng dụng công nghệ thông tin để phục vụ báo cáo định kỳ và đột xuất, phân tích và xử lý dữ liệu thống kê nhằm đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của công tác quản lý, đề nghị xây dựng phần mềm quản lý, theo dõi số lượng Luật sư tham gia tố tụng trong các vụ án.
Thứ ba, bên cạnh việc xây dựng Tòa án điện tử góp phần tăng cường tính công khai, minh bạch trong hoạt động của Tòa án, cần bảo đảm dân chủ hóa hoạt động tố tụng, thực hiện và đảm bảo nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm, tạo cơ hội cho Luật sư được bình đẳng trong việc đưa ra yêu cầu, đánh giá chứng cứ và tranh luận, đối đáp tại phiên tòa. Mô hình Tòa án điện tử phải là kiểu mẫu của việc bảo đảm phán quyết của Tòa án phải xuất phát từ kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ. Điều này có nghĩa là, Tòa án điện tử vẫn phải đảm bảo các quy định về trình tự, thủ tục tố tụng; bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự, bị cáo và người tham gia tố tụng; bảo đảm bí mật, an toàn, an ninh thông tin, dữ liệu theo quy định của pháp luật; bảo đảm các yêu cầu về trật tự, sự tôn nghiêm của Toà án, cũng như bảo đảm việc xét xử, giải quyết được tiến hành công khai, bình đẳng, dân chủ, nghiêm minh, khách quan và đúng pháp luật.
Hình ảnh phiên tòa có sử dụng màn hình trình chiếu chứng cứ điện tử (Tạp chí Tòa án nhân dân).
Thứ tư, do đặc điểm phiên toà điện tử trực tiếp thông qua một đường truyền viễn thông, nên các yếu tố pháp lý, yêu cầu về hạ tầng kỹ thuật, trình tự tố tụng kiểm tra, đánh giá chứng cứ và tranh tụng tại phiên toà khác với trình tự xét xử thông thường, nên chúng tôi thống nhất định hướng nêu trong Đề án là hoàn thiện các quy định pháp luật và quy trình nghiệp vụ, trong đó có hạ tầng pháp lý chính yếu của Tòa án điện tử bao gồm: (1) Pháp luật về tố tụng điện tử và các pháp luật khác liên quan tố tụng điện tử (trong đó sửa đổi, bổ sung nguyên tắc xét xử “trực tiếp và bằng lời nói” được quy định tại Điều 250 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 ; (2) Pháp luật về công nghệ thông tin, công nghệ số, trí tuệ nhân tạo; (3) Pháp luật về tổ chức bộ máy của TAND và các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó cần bổ sung sửa đổi Luật Luật sư với điều luật tương thích tham gia tố tụng điện tử tại Tòa án.
Quang cảnh Hội thảo khoa học góp ý dự thảo Đề án ““Xây dựng Tòa án điện tử ở Việt Nam đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp đến năm 2030, định hướng đến năm 2045”.
Từ nay đến năm 2025, đề xuất trong phân công nhiệm vụ của Đề án nên có sự tham gia của Đảng Đoàn Liên đoàn Luật sư Việt Nam trong việc chỉ đạo Thường trực, Ban Thường vụ lập Tổ công tác nghiên cứu, xây dựng quy trình nghiệp vụ Luật sư tham gia tố tụng điện tử tại Tòa án trên cơ sở triển khai Đề án chuyển đổi số trong quản lý và hoạt động của Liên đoàn Luật sư Việt Nam và các Đoàn Luật sư địa phương.
Thứ năm, để phù hợp với tố tụng điện tử tại Tòa án, cần quan tâm sửa đổi, bổ sung Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử của Thẩm phán (ban hành kèm theo Quyết định số 87/QĐ-HĐTC ngày 04/7/2018 của Hội đồng tuyển chọn, giám sát Thẩm phán quốc gia); Quy tắc ứng xử của Kiểm sát viên khi thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp tại phiên tòa, phiên họp của Tòa án (ban hành kèm theo Quyết định số 46/QĐ-VKSTC ngày 20/2/2017 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân Tối cao); và Bộ quy tắc đạo đức và ứng xử nghề nghiệp Luật sư (do Hội đồng Luật sư toàn quốc thông qua ngày 13/12/2019), làm cơ sở xây dựng văn hóa pháp đình điện tử. Mặt khác, căn cứ theo quy định của pháp luật tố tụng điện tử, cần xúc tiến xây dựng các cuốn Sổ tay điện tử dành cho Thẩm phán, Kiểm sát viên và Luật sư khi tham gia tố tụng Tòa án điện tử.
[1] Có một điển hình tốt là trong vụ án “đánh bạc và tổ chức đánh bạc” do TAND tỉnh Phú Thọ xét xử từ 12 đến 30/11/2018, VKSND tỉnh Phú Thọ đã ứng dụng công nghệ thông tin để lắp đặt màn hình lớn trình chiếu chứng cứ và trình bày luận tội (xem: https://kiemsat.vn/ban-linh-kiem-sat-vien-vksnd-tinh-phu-tho-thong-qua-vu-an-danh-bac-nghin-ty-60553.html). ([2]) Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, tập 1, tr.194-195. NXB CTQGST, H.2021. |
Luật sư, Tiến sĩ PHAN TRUNG HOÀI
Đơn khiếu nại, đơn kiến nghị, phản ánh trong CAND đủ điều kiện xử lý khi nào?