Ảnh minh họa.
Quyền bào chữa trong pháp luật Việt Nam
Ngay sau khi đọc bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký ban hành một số sắc lệnh về tổ chức lại bộ máy tư pháp như Sắc lệnh số 33C ngày 13/9/1945 về tổ chức tòa án, Sắc lệnh số 46/SL ngày 10/10/1945 về tổ chức đoàn thể luật sư. Đây chính là những văn bản pháp lý đầu tiên đặt nền móng cho việc ghi nhận, bảo đảm về quyền bào chữa của người bị buộc tội. Sắc lệnh số 33C quy định: “Bị cáo có thể tự bào chữa hay nhờ một người khác bênh vực cho mình” (Điều 5) và Sắc lệnh số 46 quy định: “Các luật sư có quyền bào chữa ở trước tất cả các tòa án hàng tỉnh trở lên và trước các tòa án quân sự” (Điều thứ 2). Tinh thần này tiếp tục được ghi nhận chính thức trong Hiến pháp đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa năm 1946 với nội dung: “Người bị cáo được quyền tự bào chữa lấy hoặc mời luật sư” (Điều 67). Kể từ bản Hiến pháp đầu tiên, quyền bào chữa của người bị buộc tội luôn được kế thừa xuyên suốt qua tất các các bản Hiến pháp như: Hiến pháp năm 1959 với nội dung “Quyền bào chữa của người bị cáo được bảo đảm” (Điều 101), Hiến pháp năm 1980 quy định “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo và đương sự khác về mặt pháp lý” (Điều 133). Bên cạnh việc quy định về quyền bào chữa của bị cáo tại Điều 133, Hiến pháp năm 1980 cũng lần đầu đưa ra cơ sở pháp lý cho việc xây dựng một văn bản pháp luật về tổ chức luật sư ở Việt Nam để góp phần bảo đảm thực thi quyền bào chữa của bị cáo trên thực tế. Đến Hiến pháp năm 1992 với quy định: “Quyền bào chữa của bị cáo được bảo đảm. Bị cáo có thể tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình. Tổ chức luật sư được thành lập để giúp bị cáo” (Điều 132) và Hiến pháp hiện hành năm 2013 quy định “Người bị bắt, tạm giữ, tạm giam, khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” (Điều 31) và “Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm” (Điều 103).
Quyền bào chữa sau đó được chính thức thể chế hóa lần đầu tiên trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1989. Có thể nói việc ghi nhận quyên bào chữa ngay trong Bộ luật Tố tụng hình đầu tiên của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho thấy vai trò của quyền bào chữa đã được Đảng, Nhà nước ghi nhận và tôn trọng. Nội dung của quyền bào chữa được ghi nhận trong Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên của nước ta với với nội dung như sau: “Bị can, bị cáo có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa. Cơ quan điều tra, viện kiểm sát và tòa án có nhiệm vụ bảo đảm cho bị can, bị cáo thực hiện quyền bào chữa của họ” (Điều 12). So với Hiến pháp năm 1980 thì quyền bào chữa trong Bộ luật Tố tụng hình sự này đã mở rộng phạm vi áp dụng cả với bị can kể từ khi có quyết định khởi tố bị can, chứ không chỉ dừng ở việc bảo đảm quyền bào chữa trong phiên tòa xét xử. Xuyên suốt từ Bộ luật Tố tụng hình sự đầu tiên đến tất cả các Bộ luật Tố tụng hình sự sau này, quyền bào chữa luôn được ghi nhận, kế thừa và hoàn thiện. Cụ thể, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 đã mở rộng quyền bào chữa của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo tại Điều 11. Việc bổ sung quyền này của người bị tạm giữ xuất phát từ quan điểm họ là người tình nghi thực hiện tội phạm nên cần thiết phải có quyền bào chữa để bảo đảm tốt nhất quyền và lợi ích hợp pháp của họ.
Một số điểm mới về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015
Quyền bào chữa của người bị buộc tội trong Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã được pháp luật hoàn thiện, khắc phục các bất cập, tồn đọng trong các quy định trước đây. Cụ thể ở một số điểm chính sau:
Về chủ thể thực hiện quyền bào chữa, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định về bảo đảm quyền bào chữa của người bị buộc tội như sau: “Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa, nhờ luật sư hoặc người khác bào chữa” (Điều 16). Theo đó, người bị buộc tội gồm người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can, bị cáo (điểm đ khoản 1 Điều 4). Bên cạnh đó, Bộ luật này bổ sung quy định người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp cũng có quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa cho mình (điểm g khoản 1 Điều 58). Như vậy, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã trao thêm quyền được bào chữa cho đối tượng là người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp. Khoản 2 Điều 72 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã bổ sung trợ giúp viên pháp lý là người bào chữa. Quy định mở rộng diện người bào chữa không chỉ nhằm tạo điều kiện thuận lợi để bảo vệ tốt hơn quyền, lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội mà còn phù hợp với nhu cầu và điều kiện thực tiễn hiện nay, khi đa phần trợ giúp viên pháp lý đều không có thẻ luật sư nên khó khăn trong việc tiếp cận và bảo vệ quyền lợi của người bị buộc tội.
Về thời điểm bắt đầu và kết thúc, quyền bào chữa xuất hiện từ khi giữ người trong trường hợp khẩn cấp, bắt người, có quyết định tạm giữ hoặc từ khi khởi tố bị can. Quyền bào chữa kết thúc khi vụ án được xét xử và bản án có hiệu lực pháp luật. Tuy nhiên, trong một số trường hợp đặc biệt, khi những căn cứ của việc buộc tội không còn, chủ thể có thẩm quyền ra quyết định đình chỉ vụ án thì chức năng bào chữa sẽ kết thúc sớm hơn.
Về thủ tục đăng ký bào chữa, theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, để tham gia bào chữa trong vụ án, người bào chữa phải được cấp giấy chứng nhận bào chữa. Hiện nay, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã thay thủ tục “cấp giấy chứng nhận bào chữa” bằng thủ tục “đăng ký bào chữa”, văn bản thông báo người bào chữa phải được gửi cho người đăng ký bào chữa trong thời hạn 24 giờ kể từ khi nhận đủ giấy tờ mà người bào chữa phải xuất trình theo quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 78 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. Từ quy định trên thấy rằng, thời hạn chấp nhận đăng ký bào chữa được rút ngắn từ 03 ngày theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003 xuống còn 01 ngày (24 giờ) kể từ khi nhận đủ các giấy tờ luật định. Để khắc phục tình trạng “đẻ” thêm thủ tục, giấy tờ liên quan đến bào chữa, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định cụ thể các loại giấy tờ cần phải xuất trình tương ứng với từng diện người bào chữa trong trường hợp bào chữa thông thường và bào chữa chỉ định. Ngoài ra, để xóa bỏ việc người bào chữa phải thực hiện thủ tục xin cấp giấy chứng nhận người bào chữa riêng cho từng giai đoạn tố tụng như trước đây, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định văn bản thông báo người bào chữa có giá trị sử dụng trong suốt quá trình tham gia tố tụng.
Về chủ thể được chỉ định bào chữa, ngoài các trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa là bị can, bị cáo phạm tội mà mức cao nhất của khung hình phạt là tử hình; bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về thể chất, tâm thần thì Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 còn mở rộng thêm người có mức cao nhất của khung hình phạt là 20 năm tù, tù chung thân cũng thuộc diện bắt buộc phải có người bào chữa, vì đây là những trường hợp phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, hậu quả pháp lý rất lớn. Việc mở rộng diện người thuộc trường hợp chỉ định bào chữa như trên không chỉ có ý nghĩa nhân đạo mà còn có ý nghĩa to lớn trong nỗ lực bảo đảm quyền con người, quyền công dân trong tố tụng hình sự.
Một số hạn chế của các quy định pháp luật tố tụng hình sự hiện hành về thực hiện quyền bào chữa
Mặc dù Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 đã có những sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện so với các quy định trước đây nhưng so với nhu cầu và thực tiễn thì một số quy định của Bộ luật này vẫn chưa có những bảo đảm tối đa cho các chủ thể thực hiện quyền bào chữa bởi các vướng mắc và bất cập sau:
Thứ nhất, việc quy định các quyền của người bị buộc tội, nhất là bị cáo còn chưa đầy đủ để bảo đảm cho họ thực hiện tốt nhất quyền tự bào chữa của mình như quyền được chủ động gặp người bào chữa, quyền được tư vấn pháp luật, quyền được đọc, ghi chép và yêu cầu sao chụp bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa; quyền được ghi chép, sử dụng các tài liệu theo quy định pháp luật tại phiên tòa của bị cáo; quyền được biết các kết quả của hoạt động điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự…
Thứ hai, khoản 3 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thập. Đây là một trong những quy định tiến bộ của pháp luật tố tụng hình sự. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc quy định như hiện nay, thì việc này khó có thể khả thi bởi nó phụ thuộc nhiều vào mặt chủ quan từ phía các cơ quan tiến hành tố tụng. Vậy nên, cần quy định rõ hơn nữa trách nhiệm của các cơ quan đó đối với yêu cầu thu thập chứng cứ, tài liệu của người bào chữa.
Thứ ba, điểm đ khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 quy định người bào chữa được xem biên bản về hoạt động tố tụng có sự tham gia của mình, quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa. Từ nội hàm của quy định này, có thể hiểu nếu người bào chữa không tham gia hoạt động tố tụng thì không được xem biên bản của hoạt động đó, trong khi tòa án vẫn được xét xử khi người bào chữa vắng mặt. Vì vậy, trong trường hợp người bào chữa vắng mặt theo quy định thì người bào chữa không được xem biên bản là một sự bất hợp lý.
Một số giải pháp hoàn thiện
Một là, bổ sung thêm các quyền của người bị buộc tội, nhất là bị cáo ngoài các quyền quy định tại Điều 61 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như quyền được chủ động gặp người bào chữa, quyền được tư vấn pháp luật, quyền được đọc, ghi chép và yêu cầu sao chụp bản sao tài liệu hoặc tài liệu được số hóa liên quan đến việc buộc tội, gỡ tội hoặc bản sao tài liệu khác liên quan đến việc bào chữa; quyền được ghi chép, sử dụng các tài liệu theo quy định pháp luật tại phiên tòa cho bị cáo; quyền được biết các kết quả của hoạt động điều tra bổ sung trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự…
Hai là, cần bổ sung vào khoản 3 Điều 81 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, nội dung sau khi bổ sung như sau: “Trường hợp không thể thu thập được chứng cứ, tài liệu, đồ vật thì người bào chữa có quyền đề nghị cơ quan có thẩm quyền tiến hành thu thập. Các cơ quan tiến hành tố tụng có nghĩa vụ thu thập chứng cứ, tài liệu theo đề nghị của người bào chữa. Trong trường hợp không thể thu thập phải trả lời bằng văn bản cho người yêu cầu và nêu rõ lý do”.
Ba là, cần mở rộng quyền của người bào chữa được xem biên bản, quyết định tố tụng liên quan phục vụ cho việc bào chữa của mình. Vì vậy, nên sửa đổi điểm đ khoản 1 Điều 73 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 như sau: “Xem biên bản về hoạt động tố tụng, quyết định tố tụng có liên quan đến người mà mình bào chữa”.
Tài liệu tham khảo 1. Ngô Văn Duyên, Một số kiến nghị hoàn thiện quy định về hoạt động bào chữa trong giai đoạn xét xử sơ thẩm vụ án hình sự, Tạp chí Công thương, số 3, tháng 02/2022. 2. Văn Linh, Bất cập trong quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 về việc bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, https://tapchitoaan.vn/bat-cap-trong-quy-dinh-cua-bltths-nam-2015-ve-viec- bao-dam-quyen-bao-chua-cua-bi-cao-trong-giai-doan-xet-xu-so-tham, ngày 24/6/2023 3. ThS Tăng Văn Hoàng, Những điểm mới về quyền bào chữa của người bị buộc tội theo Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015, https://lsvn.vn/nhung-diem-moi-ve-quyen-bao-chua-cua-nguoi-bi-buoc-toi-theo-bo-luat-to-tung- hinh-su-nam-2022, ngày 24/6/2023. |
ThS. NCS TĂNG VĂN HOÀNG
NGUYỄN ANH HOÀNG
Trường Đại học Luật Hà Nội