(LSVN) - Biện pháp ngăn chặn “bảo lĩnh” đã được quy định trong các Bộ Luật Tố tụng hình sự nhưng cho đến nay, trong thực tiễn áp dụng vẫn có những vướng mắc cần được khắc phục.
1. Bảo lĩnh trong tố tụng hình sự
Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan, người có thẩm quyền áp dụng đối với bị can, bị cáo khi có cá nhân hoặc tổ chức có giấy cam đoan để đảm bảo bị can, bị cáo phải có mặt theo giấy triệu tập, không bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội hoặc vi phạm pháp luật khác.
Theo quy định tại Điều 121 Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS): “Bảo lĩnh là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo, Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án có thể quyết định cho họ được bảo lĩnh”.
Như vậy, biện pháp bảo lĩnh chỉ áp dụng đối với đối tượng là bị can hoặc bị cáo; chỉ áp dụng sau khi đã có quyết định khởi tố vụ án và khởi tố bị can; đây là biện pháp ngăn chặn để thay thế biện pháp tạm giam.
Về điều kiện áp dụng: Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của của bị can, bị cáo. Trong thực tế, biện pháp này thường được áp dụng đối với bị can, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng, có nơi cư trú rõ ràng, thái độ thành khẩn khai báo hoặc bị can, bị cáo phạm tội có tính chất nguy hiểm cao nhưng bị ốm đau, bệnh tật nặng…
Về thẩm quyền và thủ tục áp dụng: Cơ quan Điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án. Cụ thể Thủ trưởng, Phó thủ trưởng Cơ quan điều tra Hình sự Công an Nhân dân, Quân đội Nhân dân các cấp; Viện trưởng, Phó Viện trưởng Viện kiểm sát Nhân dân, Viện kiểm sát Quân sự các cấp; Chánh án, Phó Chánh án Tòa án Nhân dân, Tòa án Quân sự các cấp khi tiến hành tố tụng; thẩm phán chủ tọa phiên tòa; Hội đồng xét xử có quyền quyết định cho bảo lĩnh.
Theo quy định tại khoản 2 Điều 121 của BLTTHS thì cơ quan, tổ chức có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là người của cơ quan, tổ chức mình. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Đối với cá nhân là người thân thích của bị can, bị cáo có thể nhận bảo lĩnh cho họ. Vì thực tế cho thấy chỉ phần lớn những người thân thích của bị can, bị cáo mới có thể hiểu rõ và quản lý, giám sát được họ và những người này có khả năng cao hơn cho việc bảo đảm bị can, bị cáo sẽ không tiếp tục phạm tội, không bỏ trốn và có mặt đầy đủ khi có giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; không vi phạm pháp luật khác trong thời gian được bảo lĩnh. Người thân thích gồm những đối tượng đã được quy định tại Điều 4 của BLTTHS.
Tuy nhiên đối với cá nhân nhận bảo lĩnh phải là người đủ 18 tuổi trở lên, nhân thân tốt, có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật, thu nhập ổn định và có điều kiện quản lý người được bảo lĩnh và phải có ít nhất 02 người. Cá nhân nhận bảo lĩnh phải làm giấy cam đoan có xác nhận của chính quyền xã, phường, thị trấn nơi người đó cư trú hoặc cơ quan, tổ chức nơi người đó làm việc, học tập. Riêng đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải có giấy cam đoan và có xác nhận của người đứng đầu cơ quan, tổ chức.
Nội dung giấy cam đoan của cá nhân, cơ quan, tổ chức phải ghi rõ trách nhiệm của mình trong việc không để bị can, bị cáo bỏ trốn hoặc tiếp tục phạm tội; bảo đảm sự có mặt của bị can, bị cáo theo giấy triệu tập của Cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Tòa án; bị can, bị cáo không hủy chứng cứ, tài liệu, tẩu tán tài sản, đe dọa, khống chế, trả thù người làm chứng, bị hại….
Về hậu quả pháp lý, người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh không bị hạn chế quyền công dân mà vẫn thực hiện quyền này miễn sao không gây trở ngại cho hoạt động điều tra, truy tố, xét xử. Tuy nhiên, trong trường hợp cá nhân hoặc tổ chức nhận bảo lĩnh mà để bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ đã cam đoan thì cá nhân hoặc tổ chức đó bị tước quyền nhận bảo lĩnh và tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị phạt tiền theo quy định của pháp luật; bị can, bị cáo vi phạm nghĩa vụ cam đoan thì bị tạm giam.
Về thời hạn áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo không được quá thời hạn điều tra, truy tố hoặc xét xử; thời hạn áp dụng đối với người bị kết án phạt tù không quá thời hạn kể từ khi tuyên án cho đến thời điểm người đó đi chấp hành án phạt tù.
2. Những vướng mắc trong thực tiễn áp dụng
Bên cạnh những vấn đề nêu trên, trong thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về biện pháp bảo lĩnh vẫn còn một số vướng mắc:
Thứ nhất, BLTTHS quy định “Bảo lĩnh” là biện pháp ngăn chặn thay thế tạm giam. Vậy vấn đề đặt ra là trong mọi trường hợp chỉ áp dụng biện pháp ngăn chặn này sau khi bị can, bị cáo đang bị tạm giam hay áp dụng biện pháp ngăn chặn này ngay từ đầu khi khởi tố bị can? Đây là vấn đề chưa có hướng dẫn nên thực tế còn nhiều bất cập, ngoài những bị can, bị cáo đã bị tạm giam khi có đủ điều kiện áp dụng biện pháp này thì còn có cả những bị can được áp dụng biện pháp này sau khi có quyết định khởi tố bị can của cơ quan tiến hành tố tụng hoặc bị can ra đầu thú trước cơ quan pháp luật.
Thứ hai, về điều kiện áp dụng biện pháp bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo còn chung chung, chưa cụ thể nên gây khó khăn cho việc áp dụng.
Luật chỉ quy định căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi mà không xác định rõ trường hợp phạm loại tội nào và đối tượng có điều kiện hoàn cảnh nhân thân như thế nào thì được áp dụng nên thực tế việc có áp dụng hay không áp dụng biện pháp ngăn chặn này vẫn tùy thuộc vào ý chủ quan của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng; có trường hợp bị can, bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, có nơi cư trú rõ ràng; thành khẩn khai báo là người chưa thành niên, người bị bệnh nặng, người khuyết tật, người trụ cột trong gia đình… nhưng vẫn không được cho bảo lĩnh. Đây là nguyên nhân đến sự tùy nghi trong cách hiểu vấn đề và áp dụng pháp luật không thống nhất.
Về vấn đề này, tôi cho rằng, căn cứ vào từng vụ án cụ thể; nhân thân và điều kiện, hoàn cảnh gia đình của từng bị can, bị cáo hoặc người bị kết án cụ thể mà có áp dụng biện pháp ngăn chặn này hay không. Trên thực tế việc biện pháp bảo lĩnh thường chỉ được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng hoặc nghiêm trọng; các biệt có trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng hoặc đặc biệt nghiêm trọng nhưng bị can, bị cáo bị ốm nặng hoặc người khuyết tật nặng, người là trụ cột duy nhất của gia đình; bị can, bị cáo phải có lý lịch rõ ràng, có nơi cư trú hoặc nơi công tác xác định và có nhân thân tốt, thái độ khai báo thành khẩn…
Thứ ba, quy định điều kiện đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh.
BLTTHS quy định về tiêu chuẩn của cá nhân nhận bảo lĩnh (có tư cách, phẩm chất tốt, nghiêm chỉnh chấp hành pháp luật) nhưng lại không quy định tiêu chuẩn của cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh. Vậy, tổ chức nhận bảo lĩnh là tổ chức nào; là tổ chức chính trị, chính trị - xã hội, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội nghề nghiệp, tổ chức kinh tế, tổ chức tôn giáo hay mọi tổ chức đều có thể nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo của tổ chức mình khi họ thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội.
Tôi cho rằng, không phải cơ quan, tổ chức nào cũng đủ tư cách cam đoan rằng bị can, bị cáo không tiếp tục phạm tội, không bỏ trốn; bảo đảm bị can, bị cáo có mặt theo triệu tập của cơ quan tố tụng và không vi phạm các quy định về điều kiện của bảo lĩnh. Thông thường chỉ các cơ quan, tổ chức nhà nước, đơn vị quân đội hoặc cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự, tổ chức nước ngoài hoạt động hợp pháp tại Việt Nam mới đủ điều kiện để được nhận bảo lĩnh cho bị can, bị cáo là cá nhân của mình; còn nếu bị can, bị cáo làm việc tại các tổ chức kinh tế, tổ chức khác không được cơ quan có thẩm quyền công nhận thì sẽ không được cho bảo lĩnh.
3. Một số kiến nghị
Từ những những phân tích, đánh giá ở trên về biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh, tác giả đề xuất một số kiến nghị như sau:
- Một là, việc áp dụng biện pháp này đối với các bị can, bị cáo đang bị tạm giam thì cần có hướng dẫn đề làm rõ thuật ngữ “biện pháp thay thế tạm giam” theo hướng áp dụng cả đối với bị can sau khi bị khởi tố nhưng thỏa mãn điều kiện áp dụng như người bị bệnh nặng, người khuyết tật nặng…
- Hai là, cần có hướng dẫn xác định rõ trường hợp cụ thể nào được áp dụng biện pháp ngăn chặn bảo lĩnh; đồng thời quy định đối tượng phạm loại tội nào được áp dụng biện pháp ngăn chặn này mà không quy định mang tính chung chung như hiện nay là căn cứ vào “tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi và nhân thân của bị can, bị cáo”.
Theo quan điểm của tôi, ngoài các điều kiện về nhân thân của bị can, bị cáo thì cần áp dụng biện pháp ngăn chặn này đối với người thực hiện hành vi phạm tội ít nghiêm trọng, tội phạm nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng vô ý hoặc người phạm tội thỏa mãn quy định tại khoản 2 Điều 54 của BLHS (người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể); người phạm tội là người bị bệnh nặng, người khuyết tật nặng hoặc khuyết tật đặc biệt nặng (trừ nhóm tội phạm xâm phạm an ninh quốc gia); người là trụ cột gia đình trong điều kiện hoàn cảnh kinh tế gia đình khó khăn, phụ nữ có thai, nuôi con nhỏ dưới 36 tháng tuổi; người già, bệnh nặng, người chưa thành niên… Có căn cứ xác định sau khi được tại ngoại, bị can, bị cáo sẽ có mặt theo giấy triệu tập của cơ quan tiến hành tố tụng; việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây ảnh hưởng đến an ninh trật tự tại địa phương.
Không áp dụng bảo lĩnh đối với bị can, bị cáo đã có tiền án chưa được xóa án tích mà lại phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng; bị can, bị cáo bị bắt theo lệnh truy nã; là đối tượng phạm tội có tính chất chuyên nghiệp; người nghiện ma túy; hành vi phạm tội của bị can, bị cáo gây dư luận trong xã hội.
- Ba là, về điều kiện đối với cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh phải là cơ quan, tổ chức nơi bị can, bị cáo làm việc. Cơ quan, tổ chức nhận bảo lĩnh ngoài cơ quan nhà nước, cơ quan của đảng, đơn vị vị Quân đội, cơ quan đại diện ngoại giao thì các tổ chức phải là tổ chức có tư cách pháp nhân được thành lập hợp pháp; người của tổ chức chính trị xã hội; tổ chức tôn giáo từ cấp tỉnh trở lên.
ĐỖ VĂN DUY
Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 3
Tạp chí Tòa án