Bàn về hình phạt cải tạo không giam giữ trong tổng hợp hình phạt

25/12/2023 23:15 | 4 tháng trước

(LSVN) - Hình phạt cải tạo không giam giữ là một trong những hình phạt được quy định trong Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS) áp dụng đối với người phạm tội. Mục đích chính của hình phạt chủ yếu là giáo dục ý thức tuân theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống, ngăn ngừa và đấu tranh, phòng chống tội phạm. Tuy nhiên, khi áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trong tổng hợp hình phạt thì còn nhiều quan điểm và cách giải quyết khác nhau cho nên việc áp dụng chưa thống nhất trên thực tiễn.

Ảnh minh họa.

Cải tạo không giam giữ là một trong các hình phạt đối với người phạm tội được quy định tại Điều 32 và Điều 36, Bộ luật Hình sự. Đồng thời, tại Điều 56, Bộ luật Hình sự tổng hợp hình phạt của nhiều bản án được quy định như sau:

“1. Trong trường hợp một người đang phải chấp hành một bản án mà lại bị xét xử về tội đã phạm trước khi có bản án này, thì Tòa án quyết định hình phạt đối với tội đang bị xét xử, sau đó quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này. 

Thời gian đã chấp hành hình phạt của bản án trước được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt chung.

2. Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này.

3. Trong trường hợp một người phải chấp hành nhiều bản án đã có hiệu lực pháp luật mà các hình phạt của các bản án chưa được tổng hợp, thì Chánh án Tòa án có thẩm quyền ra quyết định tổng hợp hình phạt của các bản án theo quy định tại khoản 1 và khoản 2, Điều này”.

Tuy nhiên, khi xác định thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ khi tội phạm thực hiện hành vi phạm tội mới để tổng hợp hình phạt còn nhiều cách áp dụng chưa thống nhất.

Chẳng hạn như vụ án sau: Ngày 13/11/2021, A. bị TAND huyện X. xử phạt 12 tháng cải tạo không giam giữ về tội “Đánh bạc” và giao cho UBND xã Y. giám sát, giáo dục. Ngày 15/12/2021, UBND xã . nhận quyết định thi hành án và bản sao bản án đối với A. Đến ngày 15/01/2022, A. có hành vi “đánh bạc”. Ngày 15/3/2022, A. bị TAND huyện X. xử phạt 12 tháng tù về tội “Đánh bạc”.

Quan điểm thứ nhất cho rằng: Thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao đến ngày tuyên án sơ thẩm, tức là, từ ngày 15/12/2021 (ngày UBND xã Y. nhận được quyết định thi hành án và bản sao đối với A.) đến ngày 15/3/2022. Bởi lẽ, A. đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, trong thời gian này, A. thực hiện hành vi phạm tội mới, nhưng A. không bị tạm giữ, tạm giam (nếu A. bị tạm giữ, tạm giam, thì thời hạn này sẽ không được tính vào thời gian chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ, mà sẽ được trừ vào thời hạn chấp hành hình phạt tù chung) mà A. vẫn có mặt tại địa phương, chịu sự quản lý, giáo dục của UBND xã Y. và phải thực hiện các nghĩa vụ như, khấu trừ thu nhập hoặc lao động phục vụ cộng đồng. Mặt khác, pháp luật hiện hành cũng không có quy định về việc đình chỉ hoặc tạm đình chỉ thi hành án đối với người phạm tội trong trường hợp này, do vậy, theo nguyên tắc có lợi cho người phạm tội, thì thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ của A. cần được tính đến ngày xét xử sơ thẩm.

Quan điểm thứ hai cho rằng: Thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mới, từ ngày 15/12/2021 (ngày UBND xã Y. nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đối với A.) đến ngày 15/01/2022.

Tác giả đồng tình với quan điểm thứ hai, bởi lẽ: Khoản 2, Điều 56, Bộ luật Hình sự năm 2015 quy định: “Khi xét xử một người đang phải chấp hành một bản án mà lại thực hiện hành vi phạm tội mới, Tòa án quyết định hình phạt đối với tội mới, sau đó tổng hợp với phần hình phạt chưa chấp hành của bản án trước rồi quyết định hình phạt chung theo quy định tại Điều 55 của Bộ luật này”. Khoản 2, Điều 56, Bộ luật Hình sự năm 2015 đã thay cụm từ “thực hiện hành vi phạm tội mới” cho cụm từ “phạm tội mới” tại khoản 2, Điều 51, Bộ luật Hình sự năm 1999, điều đó thể hiện tinh thần của Bộ luật Hình sự năm 2015 ở đây là xác định đến thời điểm thực hiện hành vi phạm tội mới. Điều này cũng phù hợp với quy định về tái phạm tại khoản 1, Điều 53, Bộ luật Hình sự năm 2015: “Tái phạm là trường hợp đã bị kết án, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi hành vi phạm tội do cố ý…”.

Mặt khác, sau khi thực hiện hành vi phạm tội mới, bị can/bị cáo sẽ bị áp dụng một trong các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ, tạm giam, cấm đi khỏi nơi cư trú… trong thời gian này, bị can/bị cáo sẽ phải chấp hành nghĩa vụ của người bị áp dụng biện pháp ngăn chặn. Mặt khác, nếu người phạm tội đang chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ mà lại phạm tội mới, thì chứng tỏ việc người phạm tội được Tòa án áp dụng hình phạt cải tạo không giam giữ trước đây đối với họ là không có tác dụng giáo dục và phòng ngừa tội phạm, mục đích của hình phạt không đạt được.

Như vậy, việc thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mới không chỉ bảo đảm đúng quy định pháp luật, mà còn thể hiện thái độ của Nhà nước đối với người phạm tội, phản ánh đúng bản chất của hành vi phạm tội.

Thiết nghĩ, trong thời gian tới cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cần ban hành văn bản hướng dẫn xác xác định thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ để tổng hợp hình phạt theo hướng: thời gian đã chấp hành hình phạt cải tạo không giam giữ được tính từ ngày cơ quan, tổ chức được giao giám sát, giáo dục người bị kết án nhận được quyết định thi hành án và bản sao bản án đến ngày thực hiện hành vi phạm tội mới.

TRẦN VĂN MINH

Tòa án Quân sự khu vực Quân khu 7

Bảo đảm quyền con người của người bị buộc tội thông qua thực hiện quyền bào chữa trong tố tụng hình sự