1. Quy định của pháp luật về những trường hợp nguyên đơn phải chịu án phí
1.1. Trong vụ án hôn nhân và gia đình
Theo quy định của pháp luật hiện nay, trừ các trường hợp nguyên đơn không phải chịu án phí hoặc được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 11, khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết 326) thì các trường hợp sau, nguyên đơn trong vụ án hôn nhân và gia đình phải chịu án phí:
Trường hợp thứ nhất là trường hợp nguyên đơn và bị đơn không thuận tình ly hôn.
Theo quy định tại khoản 4 Điều 147 Bộ luật Tố tụng dân sự (BLTTDS) năm 2015, và điểm a khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm trong vụ án ly hôn không phụ thuộc vào việc Tòa án chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu của nguyên đơn.
Trường hợp thứ hai là trường hợp nguyên đơn và bị đơn tranh chấp về phân chia tài sản chung của vợ chồng.
Theo quy định tại điểm b khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326 nguyên đơn phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà nguyên đơn được chia. Đồng thời trong trường hợp này, bị đơn cũng phải chịu án phí đối với phần tài sản có tranh chấp như đối với vụ án dân sự có giá ngạch tương ứng với giá trị phần tài sản mà bị đơn được chia
Trường hợp thứ ba là trường hợp Tòa án đã tiến hành hòa giải; tại phiên hòa giải, nguyên đơn và bị đơn không thỏa thuận việc phân chia tài sản chung của vợ chồng nhưng đến trước khi mở phiên tòa nguyên đơn và bị đơn tự thỏa thuận phân chia tài sản chung của vợ, chồng và yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định thì được xem là nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án hòa giải trước khi mở phiên tòa và nguyên đơn và bị đơn phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia theo quy định tại điểm đ khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326.

Ảnh minh họa.
Trường hợp thứ tư là trường hợp nguyên đơn và bị đơn có tranh chấp về việc chia tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng, Tòa án tiến hành hòa giải, nguyên đơn và bị đơn thống nhất thỏa thuận được về việc phân chia một số tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung, còn một số tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung không thỏa thuận được thì nguyên đơn và bị đơn vẫn phải chịu án phí đối với việc chia toàn bộ tài sản chung và nghĩa vụ về tài sản chung của vợ chồng theo quy định tại điểm e khoản 5 Điều 27 Nghị quyết số 326.
Trường hợp thứ năm là trường hợp nguyên bên là người có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Nếu nguyên đơn thỏa thuận được với bị đơn về mức cấp dưỡng và phương thức cấp dưỡng tại phiên họp hoà giải (trường hợp hoà giải thành) hoặc trước khi mở phiên tòa nhưng có yêu cầu Tòa án ghi nhận trong bản án, quyết định thì nguyên đơn là người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch theo quy định tại điểm b khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326. Trường hợp, Toà án mở phiên toà thì nguyên đơn là người có nghĩa vụ cấp dưỡng phải chịu 100% mức án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch theo quy định tại điểm a, c và đ khoản 6 Điều 27 Nghị quyết số 326.
Trường hợp thứ sáu là trường hợp nguyên đơn và bị đơn tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con.
Nếu yêu cầu về xác định cha, mẹ cho con của nguyên đơn không được Toà án chấp nhận hoặc yêu cầu về xác định cha, mẹ cho con của bị đơn được Toà án chấp nhận thì nguyên đơn phải chịu án phí. Mặc dù, pháp luật không quy định cụ thể mức án phí đối với trường hợp tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con nhưng thực tiễn thì các Toà án áp dụng mức án phí dân sự sơ thẩm như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch, trừ trường hợp tranh chấp về xác định cha, mẹ cho con chưa thành niên, con đã thành niên mất năng lực hành vi dân sự theo quy định tại khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình (Nghị quyết số 01/2024). Trường hợp, trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì nguyên đơn và bị đơn chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm dân sự sơ thẩm như như đối với trường hợp vụ án dân sự không có giá ngạch theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 7 Điều 27 Nghị quyết số 326.
Trường hợp thứ bảy là trường hợp nguyên đơn và bị đơn thuận tình ly hôn trước khi mở phiên tòa sơ thẩm thì nguyên đơn và bị đơn phải chịu 50% mức án phí quy định (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch theo quy định tại điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024.
Trường hợp nguyên đơn và bị đơn sự thuận tình ly hôn tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên đơn và bị đơn phải chịu 100% mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch (mỗi bên phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch) theo quy định tại điểm b khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024
Trường hợp thứ tám là trường hợp trước khi mở phiên tòa, nguyên đơn và bị đơn tự nguyện ly hôn nhưng không thỏa thuận được về con chung và tài sản chung mà Tòa án xét xử và ra bản án sơ thẩm thì nguyên đơn và bị đơn phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch đối với yêu cầu xin ly hôn (mỗi bên phải chịu 25% mức án phí dân sự sơ thẩm không có giá ngạch); về quan hệ tài sản thì mức án phí mỗi bên (nguyên đơn, bị đơn) phải chịu tương ứng với giá trị phần tài sản mà mỗi bên (nguyên đơn, bị đơn) được chia theo quy định của pháp luật về án phí theo quy định tại khoản 3 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024.
1.2. Trong vụ án dân sự, kinh doanh thương mại, lao động
Tương tự như trong vụ án hôn nhân và gia đình, trừ các trường hợp nguyên đơn không phải chịu án phí hoặc được miễn án phí theo quy định tại khoản 1 Điều 11, khoản 1 Điều 12 của Nghị quyết số 326 thì các trường hợp sau, nguyên đơn phải chịu án phí:
Trường hợp thứ nhất là trường hợp nguyên đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn không được Tòa án chấp nhận. Nếu nguyên đơn chỉ được Toà án chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện thì nguyên đơn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm tương ứng với phần yêu cầu không được Tòa án chấp nhận theo quy định tại khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326.
Trường hợp thứ hai là trường hợp nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì nguyên đơn và bị đơn phải chịu 50% mức án phí dân sự sơ thẩm, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch theo quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS năm 2015 và khoản 7 Điều 26 Nghị quyết số 326.
Trường hợp thứ ba là trường hợp nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa sơ thẩm thì nguyên đơn và bị đơn vẫn phải chịu án phí dân sự sơ thẩm như trường hợp xét xử vụ án đó. Trường hợp nguyên đơn và bị đơn thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa xét xử theo thủ tục rút gọn quy định tại khoản 3 Điều 320 của BLTTDS 2015 thì nguyên đơn và bị đơn phải chịu 50% án phí giải quyết vụ án theo thủ tục rút gọn theo quy định tại khoản 4 Điều 26 của Nghị quyết số 326.
Trường hợp thứ tư là trường hợp liên quan đến chia tài sản chung, di sản thừa kế.
Khi các bên đương sự không xác định được phần tài sản của mình hoặc mỗi người xác định phần tài sản của mình trong khối tài sản chung, phần di sản của mình trong khối di sản thừa kế là khác nhau và có một trong các bên yêu cầu Tòa án giải quyết chia tài sản chung, di sản thừa kế đó thì mỗi bên đương sự (trong đó có nguyên đơn) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm theo mức tương ứng với giá trị phần tài sản mà họ được chia, được hưởng trong khối tài sản chung hoặc trong khối di sản thừa kế theo quy định tại điểm a khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326.
Còn khi đương sự đề nghị chia tài sản chung, chia di sản thừa kế mà cần xem xét việc thực hiện nghĩa vụ về tài sản với bên thứ ba từ tài sản chung, di sản thừa kế đó thì đương sự (trong đó có nguyên đơn) phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với phần tài sản họ được chia sau khi trừ đi giá trị tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba; các đương sự phải chịu một phần án phí ngang nhau đối với phần tài sản thực hiện nghĩa vụ với bên thứ ba theo quyết định của Tòa án theo quy định tại điểm a khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326.
2. Vướng mắc về nghĩa vụ chịu án phí của nguyên đơn trong trường hợp hoà giải thành trước khi mở phiên toà.
Trong thực tiễn giải quyết các vụ án dân sự tại Toà án hiện nay vẫn còn quan điểm, nhận thức khác nhau về nghĩa vụ chịu án phí của nguyên đơn trong trường hợp đương sự thoả thuận được với nhau việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên toà. Vấn đề này đã được các trong thông tin điện tử, tạp chí chuyên ngành pháp luật đăng tải như: Bài viết “Về nghĩa vụ chịu án phí khi Tòa án công nhận sự thỏa thuận của đương sự” của tác giả Dương Tấn Thanh(1), bài viết “Nghĩa vụ chịu án phí trong vụ án hòa giải thành” của tác giả Trương Thị Thanh(2), bài viết “Bàn về nghĩa vụ chịu án phí dân sự trong trường hợp các đương sự thỏa thuận thành” của tác giả Nguyễn Hữu Duyên (3) cùng đăng trên Tạp chí Toà án nhân dân điện tử. Các ý kiến chung đề cập đến nội dung là trong trường hợp các đương sự thoả thuận được việc giải quyết vụ án thì nguyên đơn có phải chịu một phần án phí trong 50% mức án phí mà pháp luật quy định hay không và đặt ra vấn đề mức án phí cụ thể mà nguyên đơn phải chịu là bao nhiêu (25% hay một con số nào khác) và là liệu có hợp lý khi mà nguyên đơn vẫn phải chịu án phí trong trường hợp này.
Nghiên cứu quy định của pháp luật về nghĩa vụ chịu án phí trong trường hợp các bên đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì tại khoản 7 Điều 26 Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án (Nghị quyết số 326) có quy định như sau: “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”. Quy định này của Nghị quyết số 326 là cụ thể hoá quy định tại khoản 3 Điều 147 BLTTDS 2015: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này”.
Theo đó, trong trường hợp Toà án tiến hành hoà giải, các đương sự có quyền tự thương lượng với nhau về việc giải quyết vụ án. Thẩm phán với vai trò trung gian không đưa ra bất kỳ quyết định nào mang tính bắt buộc để các bên phải thực hiện, nghĩa là Toà án hoàn toàn không đưa ra quyết định “chấp nhận hay không chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn”. Vụ án có hoà giải thành hay không, vụ án có kết thúc sớm hay không,…tất cả đều phụ thuộc vào việc các bên tham gia hoà giải có thiện chí và mong muốn “thoả thuận với nhau tất cả các vấn đề cần giải quyết trong vụ án” hay không. Đương nhiên là trong đó có cả vấn đề án phí. Từ đó, cho thấy việc thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án vừa là quyền nhưng cũng là nghĩa vụ của nguyên đơn, chứ không riêng gì đối với bị đơn hoặc người có quyền lợi ,nghĩa vụ liên quan. Cũng cần phải phân biệt rằng việc “các bên đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án” và việc “hoà giải thành” là khác nhau.
Trong một vụ án dân sự nói chung, các bên đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án là việc thoả thuận được vấn đề có tranh chấp trong vụ án (tức là thoả thuận giải quyết yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn, yêu cầu phản tố của bị đơn hay là yêu cầu độc lập của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan). Nếu các đương sự mới chỉ thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì vẫn chưa coi là hoà giải thành. Bởi vì theo quy định, các bên còn phải thoả thuận được với nhau về án phí trong vụ án. Nghĩa là án phí các đương sự phải tự thoả thuận. Nếu không thoả thuận được thì coi như chưa hoà giải thành, buộc Toà án phải đưa vụ án ra xét xử. Thực tế vẫn có một số vụ án mà Toà án phải đưa vụ án ra xét xử vì đương sự không thoả thuận được với nhau về án phí.
Như vậy, chỉ khi nào các đương sự “thoả thuận được tất cả các vấn đề phải giải quyết trong vụ án thì mới được xem là hoà giải thành”. Chính vì vậy mà tại khoản 5 Điều 211 BLTTDS 2015 có quy định như sau: “Trường hợp các đương sự thỏa thuận được với nhau về vấn đề phải giải quyết trong vụ án dân sự thì Tòa án lập biên bản hòa giải thành”. Khi đó Thẩm phán là người được phân công giải quyết vụ án căn cứ vào biên bản hoà giải thành mới ra quyết định công nhận sự thoả thuận của đương sự. Cho nên, khi đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án không đặt ra vấn đề yêu cầu của đương sự (yêu cầu khởi kiện, yêu cầu phản tố, yêu cầu độc lập) có căn cứ hay không, có được Toà án chấp nhận hay không. Đồng nghĩa với việc không nên viện dẫn quy định của pháp luật: “Đương sự phải chịu án phí dân sự sơ thẩm đối với yêu cầu của họ không được Tòa án chấp nhận” tại khoản 1 Điều 147 BLTTDS 2015 và khoản 1 Điều 26 của Nghị quyết số 326 để cho rằng bị đơn phải chịu toàn bộ án phí nếu bị đơn chấp nhận yêu cầu khởi kiện của nguyên đơn trong trường hợp Toà án hoà giải.
Tuy nhiên, thực tiễn hiện nay vẫn còn hai luồng quan điểm khác nhau về nghĩa vụ chịu án phí của nguyên đơn trong trường hợp đương sự thoả thuận được với nhau việc giải quyết vụ án trước khi mở phiên toà.
Luồng quan điểm thứ nhất (đa số) thống nhất là nguyên đơn có phải chịu một phần án phí trong 50% mức án phí mà pháp luật quy định. Bởi vì căn cứ vào quy định khoản 4 Điều 147 BLTTDS 2015 có quy định “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định…”. Cụ thể hoá nội dung quy định này tại khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326 thì có quy định như sau: “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”.
Lý giải cho quan điểm này là vì xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng trong dân sự, quyền và nghĩa vụ của đương sự ngang nhau nên nghĩa vụ chịu án phí của đương sự cũng ngang nhau (tức là một bên đương sự phải chịu 50% mức án phí mà đương sự phải chịu theo quy định). Điều này tương tự như án phí ly hôn trong trường hợp vợ chồng thuận tình ly hôn. Nếu đương sự tự nguyện thuận tình ly hôn thì nguyên đơn, bị đơn phải chịu 25% án phí quy định tức là mỗi bên chịu 75.000 đồng (Công văn số 72/TANDTC-PC ngày 11/4/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao và điểm a khoản 1 Điều 11 Nghị quyết số 01/2024).
Luồng quan điểm thứ hai (số rất ít) cho rằng chỉ bị đơn mới phải chịu 50% mức án phí theo quy định, còn nguyên đơn thì không phải chịu án phí. Bởi vì trong trường hợp này toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn đã được bị đơn chấp nhận và được Toà án công nhận sự thoả thuận. Mà theo quy định tại khoản 2 Điều 26 Nghị quyết số 326 thì: “Bị đơn phải chịu toàn bộ án phí dân sự sơ thẩm trong trường hợp toàn bộ yêu cầu của nguyên đơn được Tòa án chấp nhận.”. Việc buộc nguyên đơn phải chịu án phí cùng với bị đơn là chưa thật sự hợp lý.
Theo quy định của pháp luật hiện nay thì tác giả đồng tình với quan điểm thứ nhất là nguyên đơn phải chịu án phí cùng với bị đơn là 50% mức án phí mà pháp luật quy định trong trường hợp đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, quy định: “Trước khi mở phiên tòa, Tòa án tiến hành hòa giải; nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì họ chỉ phải chịu 50% mức án phí sơ thẩm quy định” tại khoản 4 Điều 147 BLTTDS 2015 và “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch” tại khoản 7 Điều 26 của Nghị quyết số 326 như hiện nay là vẫn còn điểm chưa rõ, gây khó khăn trong quá trình Toà án giải quyết vụ án.
Hiện nay theo đa số thì đều nhận thức trường hợp các đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án thì mỗi bên phải chịu 1/2 án phí trong 50% mức án phí theo quy định mà các bên đương sự phải chịu. Quan điểm này xuất phát từ nguyên tắc bình đẳng, tự thoả thuận giữa các đương sự. Nghĩa là đã tự nguyện thoả thuận thì tất cả phải ngang bằng nhau. Cá nhân tác giả cho rằng nhận thức như vậy là chưa hợp lý. Bởi nghiên cứu kỹ quy định tại khoản 1 Điều 26 Nghị quyết số 326 thì chỉ quy định là: “Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch”.
Như vậy, các đương sự cùng phải chịu 50% án phí trong một vụ án chứ không có quy định cụ thể mỗi bên phải chịu mức án phí với tỷ lệ là bao nhiêu % (phần trăm). Điều này có nghĩa là pháp luật cho phép các bên tự thoả thuận mỗi bên phải chịu bao nhiêu, thậm chí là thoả thuận một bên chịu toàn bộ án phí. Minh chứng cụ thể là trong thực tiễn vẫn có nhiều trường hợp nguyên đơn tự nguyện chịu toàn bộ án phí. Do đó, theo các quy định này thì tỷ lệ % mà nguyên đơn phải mức án phí là bao nhiêu trong 50% mức án phí sơ thẩm quy định mà họ (các đương sự) phải chịu, là 25% hay 20% hay là con số nào khác.
Vấn đề này hiện nay chưa có hướng dẫn hay giải đáp cụ thể của Toà án nhân dân Tối cao. Giả sử trong vụ án có 01 nguyên đơn và 01 bị đơn thì mỗi bên phải chịu án phí là 25% thì hợp lý vì tương tự như trường hợp nguyên đơn và bị đơn thuận tình ly hôn. Tuy nhiên, nếu trong một vụ án mà có 04 nguyên đơn và có 01 bị đơn thì 04 nguyên đơn phải chịu 25% mức án phí, còn 01 bị đơn chịu 25% mức án phí hay là 04 nguyên đơn phải chịu 40% mức án, còn 01 bị đơn phải chịu 10% án phí. Tương tự, trong một vụ án mà có 01 nguyên đơn và có 04 bị đơn thì 01 nguyên đơn phải chịu 25% mức án phí, còn 04 bị đơn chịu 25% mức án phí hay là 01 nguyên đơn phải chịu 10% mức án, còn 04 bị đơn phải chịu 40% án phí. Chính vì quy định của pháp luật hiện nay còn chưa rõ nên thực tiễn vẫn còn nhận thức và áp dụng pháp luật khác nhau.
Một vấn để nữa về mặt lý luận đặt ra là việc nguyên đơn khởi kiện và được bị đơn chấp nhận toàn bộ yêu cầu khởi kiện thì pháp luật vẫn phải buộc nguyên đơn chịu án phí. Liệu rằng quy định này có hợp tình không?
Quan điểm tác giả đồng tình với quy định pháp luật hiện nay buộc nguyên đơn phải chịu án phí trong trường hợp thoả thuận được việc giải quyết vụ án với đương sự còn lại. Bởi vì như tác giả đã nêu quan điểm (4), khi hòa giải các đương sự có quyền tự thương lượng, thỏa thuận với nhau để giải quyết vụ án. Tòa án chỉ làm nhiệm vụ trung gian và Tòa án chỉ ra quyết định để công sự thỏa thuận của đương sự mà không hề đưa ra bất kỳ quyết định mang tính bắt buộc nào (kể cả quyết định đương sự nào phải chịu án phí) như bản án của Tòa án khi đưa vụ án ra xét xử. Điều này thể hiện sự bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ của các đương sự khi tham gia tố tụng. Việc hòa giải thành sẽ rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm công sức, chi phí đi lại,… của bị đơn, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan và cả nguyên đơn.
3. Đề xuất, kiến nghị
Xuất phát từ vướng mắc trong quy định của pháp luật hiện nay về nghĩa vụ chịu án phí của đương sự trong trường hợp đương sự thoả thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án như tác giả đã trình bày, nhằm kịp thời tháo gỡ vướng mắc trong thực tiễn hiện nay, tác giả đề xuất sửa đổi bổ sung quy định tại khoản 7 Điều 26 Nghị quyết số 326 như sau:
“Các bên đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án trong trường hợp Tòa án tiến hành hòa giải trước khi mở phiên tòa thì phải chịu 50% mức án phí, kể cả đối với các vụ án không có giá ngạch. Trong đó, tỷ lệ % (phần trăm) mức án phí mà mỗi đương sự thỏa thuận được với nhau về việc giải quyết vụ án phải chịu là bằng nhau”.
Kết luận
Việc xác định đúng nghĩa vụ chịu án phí của đương sự là nguyên đơn không chỉ đảm bảo cho việc giải quyết vụ án của Toà án được đúng quy định pháp luật mà còn giúp cho việc giải quyết vụ án được nhanh chóng, rút ngắn thời gian giải quyết vụ án, tiết kiệm chi phí đi lại của đương sự,… Bởi vì trong nhiều trường hợp chỉ vì đương sự không thoả thuận được án phí mà Toà án phải đưa vụ án ra xét xử. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và hoàn thiện quy định của pháp luật về nghĩa vụ chịu án phí của nguyên đơn có ý nghĩa rất quan trọng. Từ đó, tạo sự thống nhất trong áp dụng pháp luật, nhất là tại các Toà án hiện nay.
(1),(4):https://tapchitoaan.vn/ve-nghia-vu-chiu-an-phi-khi-toa-an-cong-nhan-su-thoa-thuan-cua-duong-su.
(2):https://tapchitoaan.vn/public/index.php/nghia-vu-chiu-an-phi-trong-vu-an-hoa-giai-thanh.
(3):https://tapchitoaan.vn/ban-ve-nghia-vu-chiu-an-phi-dan-su-trong-truong-hop-cac-duong-su-thoa-thuan-thanh12253.html.
Tài liệu tham khảo:
1. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015.
2. Công văn số 72/TANDTC-PC ngày 11/4/2017 của Tòa án nhân dân Tối cao.
3. Nghị quyết số 01/2024/NQ-HĐTP ngày 16/5/2024 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định của pháp luật trong giải quyết vụ việc về hôn nhân và gia đình.
4. Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn, giảm, thu, nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.