/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bàn về nội hàm khái niệm vật chứng theo quy định tại Điều 89 BLTTHS

Bàn về nội hàm khái niệm vật chứng theo quy định tại Điều 89 BLTTHS

06/12/2021 16:23 |

(LSVN) - Vật chứng là một trong những nguồn chứng cứ có tính truyền thống được Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) ghi nhận bên cạnh các loại nguồn chứng cứ khác và giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc làm sáng tỏ sự thật khách quan của vụ án.

Ảnh minh họa. 

Theo quy định tại Điều 89 BLTTHS 2015 thì: “Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm, vật là đối tượng của tội phạm, tiền hoặc vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”. Như vậy, Điều 89 BLTTHS 2015 về cơ bản vẫn giữ nguyên khái niệm về vật chứng như Điều 74 BLTTHS 2003 chỉ khác đã bỏ từ “bạc” trong từ “tiền bạc” và bổ sung thêm cụm từ “hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án” sau cụm từ “có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.

Nội dung khái niệm vật chứng trong BLTTHS 2015 cũng chỉ mới đề cập một cách chung chung vấn đề ngoại diên của vật chứng chứ chưa đề cập một cách cụ thể vấn đề nội hàm của vật chứng mà nội hàm khái niệm vật chứng phải đi từ nội hàm của khái niệm “vật” và ý nghĩa của nó trong tố tụng hình sự.

Theo Từ điển tiếng Việt thì “vật” là “cái có hình khối và có thể nhận biết được”. Thông qua định nghĩa về vật ta có thể hiểu cái có hình khối, có kích thước (vật hình tròn, vuông, chữ nhật, có chiều dài, rộng, cao… và có trọng lượng) mà con người có thể nhận biết được thông qua các giác quan như mắt nhìn, tay sờ, cầm, nắm, xúc chạm; thông qua các giác quan đó chúng ta cảm giác được sức nặng, nhẹ, to, nhỏ… các sự vật hiện tượng mang tính hữu hình cụ thể đều thuộc khái niệm “vật” và có thể là vật chứng trong vụ án hình sự.

Chính vì vậy, khái niệm về vật chứng tại Điều 89 BLTTHS 2015 cần bổ sung thêm nội hàm của vật chứng cụ thể như sau: Vật chứng là những vật được thu thập theo trình tự, thủ tục do pháp luật tố tụng hình sự quy định, chứa đựng các thông tin được xác định là chứng cứ có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội cũng như các tình tiết khác cần thiết cho việc giải quyết đúng đắn vụ án. Vật chứng bao gồm: Vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội; vật mang dấu vết tội phạm; vật là đối tượng của tội phạm dùng như tiền và các vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.

Vật chứng là vật được dùng làm công cụ, phương tiện phạm tội

Công cụ phạm tội là đối tượng vật chất mà người phạm tội sử dụng để tác động lên đối tượng, qua đó gây thiệt hại cho đối tượng bị tác động còn phương tiện phạm tội là dạng cụ thể của công cụ phạm tội.

Hiện nay, chưa có một văn bản mang tính pháp lý nào quy định loại tội phạm nào thì có công cụ, phương tiện phạm tội, loại tội phạm nào thì không. Tuy nhiên, theo các sách, báo pháp lý và thực tiễn tố tụng hình sự thì vấn đề công cụ, phương tiện phạm tội chỉ đặt ra đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi cố ý; còn đối với những tội phạm được thực hiện với lỗi vô ý thì không có công cụ, phương tiện phạm tội, mà có chăng chỉ là “vật mang dấu vết tội phạm” hoặc “vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội”.

Chẳng hạn như trong vụ án đua xe môtô trái phép thì chiếc xe môtô là phương tiện phạm tội, nhưng cũng với chiếc xe môtô đó, nếu vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì được gọi là phương tiện gây tai nạn (thông dụng) và thuộc khái niệm “vật có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội” hoặc “vật mang dấu vết tội phạm”.

Vật mang dấu vết tội phạm

Dấu vết tội phạm là những phản ánh vật chất do tội phạm gây ra và được lưu giữ trên các đồ vật khác nhau. Dấu vết tội phạm có thể tồn tại ở các dạng thể: rắn, lỏng, khí, mùi vị, âm thanh, ánh sáng, từ trường, điện trường... Tuy nhiên, không phải bất kỳ hành vi phạm tội nào cũng đều gây ra dấu vết trên các vật thể khác nhau; có những “dấu vết” tuy nó tồn tại trong môi trường xung quanh nhưng chúng không thể để lại dấu vết trên các vật.

Ví dụ như từ trường, điện trường, mùi vị, ánh sáng. Để thu được các dấu vết này thì phải sử dụng các phương tiện khoa học kỹ thuật và sau đó được chuyển thành chứng cứ pháp lý thông qua các tài liệu khác. Ví dụ, máy đo nồng độ cồn trong máu người gây tai nạn giao thông, dụng cụ hút và lưu giữ mùi vị tại hiện trường vụ án, máy ghi âm ghi cường độ âm thanh, máy đo cường độ ánh sáng... Tuy những máy móc này lưu giữ được các dấu vết tội phạm nhưng cũng không thể coi là vật chứng được. Trong trường hợp này để bảo đảm kết quả thu lượm dấu vết tại hiện trường có giá trị chứng minh thì cơ quan điều tra phải chuyển hóa thành các chứng cứ thông qua các dạng biên bản như: Biên bản khám nghiệm hiện trường, Biên bản thu giữ mẫu vật, Biên bản xác minh, Biên bản giám định; các loại biên bản này tuy có giá trị chứng minh nhưng cũng không được gọi là vật chứng.

Như vậy, vật mang dấu vết tội phạm chỉ bao gồm những vật hữu hình, cụ thể mà trên nó lưu lại được các dấu vết tội phạm mà chúng ta có thể quan sát, đánh giá, phân tích, kiểm tra. Ví dụ như con dao dính máu, vật mang vết trầy xước do sự va chạm với vật cứng khác; phương tiện gây tai nạn giao thông có dấu vết va chạm dính sơn; chiếc ly có dấu vân tay của người bị nghi thực hiện tội phạm...

Vật là đối tượng của tội phạm

Đây là đồ vật, tài sản bị hành vi phạm tội tác động tới gây nên sự biến đổi tương đối về vị trí, hình dáng, kích thước, tính chất... Ví dụ như chiếc tivi trong vụ trộm cắp là đối tượng của hành vi trộm cắp; hàng cấm là đối tượng của tội “Sản xuất, tàng trữ, vận chuyển, mua bán hàng cấm”; tài sản bị hư hỏng là đối tượng của hành vi hủy hoại hoặc cố ý làm hư hỏng tài sản; hàng hóa trong tội “Buôn lậu”...

Vật là đối tượng của tội phạm cũng có thể là vật mang dấu vết tội phạm; tùy thuộc vào từng vụ án cụ thể và vai trò chứng minh của vật chứng đó để chúng ta xác định cho chính xác loại vật chứng. Ví dụ, do thù hằn cá nhân kẻ phạm tội vào nhà nạn nhân đập phá tài sản và bỏ trốn, trong đó có chiếc xe môtô và đã để lưu lại dấu vân tay trên yên xe; trong trường hợp này ta nên xác định chiếc xe môtô là vật mang dấu vết tội phạm là chính xác hơn là vật là đối tượng của tội phạm.

(i) Tiền có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội

Tiền là một loại tài sản, là phương tiện thanh toán, tiền có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ; các loại kim khí quý, đá quý, ngân phiếu, cổ phiếu… Tuy có giá trị thanh toán, trao đổi trên thị trường nhưng không thuộc khái niệm tiền thuộc khái niệm vật là phương tiện phạm tội, vật là đối tượng của tội phạm. Ví dụ, vàng, bạc, đá quý, ngân phiếu, cổ phiếu, công trái dùng vào việc hối lộ thì thuộc khái niệm phương tiện phạm tội hoặc nếu dùng vào việc buôn lậu thì thuộc khái niệm vật là đối tượng của tội phạm.

Đối với tiền nếu đã được xác định là đối tượng của tội phạm, là công cụ, phương tiện phạm tội, thì tuy nó có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội nhưng không thuộc khái niệm này (tiền có giá trị chứmg minh tội phạm và người phạm tội). Ví dụ, tiền dùng đưa hối lộ là phương tiện phạm tội; tiền trộm cắp được là đối tượng của tội phạm; tiền dùng vào việc đánh bạc bị thu giữ tại chiếu bạc thì là tiền có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội; tiền bạc dùng để in ấn tài liệu phản động, mua ma túy; mua văn hóa phẩm đồi trụy; mua bán tiền giả... cũng là tiền có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội.

(ii) Vật chứng là vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án.

Trong thực tiễn giải quyết các vụ án hình sự, ngoài những vật, tiền là vật chứng như đã nêu trên thì còn rất nhiều loại vật khác cũng liên quan đến vụ án và có giá trị chứng minh tội phạm, người phạm tội và các tình tiết khác của vụ án, vì không thể mô tả hết được các trường hợp thực tế vào trong điều luật, cho nên nhà làm luật mà chỉ nêu lên một cách mang tính khái quát là “vật khác có giá trị chứng minh tội phạm và người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án”.

Vật chứng minh cho tội phạm và người phạm tội là vật qua đó chúng ta có thể rút ra được chứng cứ chứng minh có tình tiết này hay tình tiết khác thuộc bốn yếu tố cấu thành tội phạm (mà không thuộc các trường hợp đã nêu trên). Ví dụ, chiếc áo của nạn nhân bị đâm thủng trong tội “Cố ý gây thương tích”, xe môtô bị hư hỏng trong vụ tai nạn giao thông…

Trong thực tiễn thì loại vật chứng này rất phong phú, đa dạng và nhiều, do vậy, tùy thuộc vào từng loại án, mối liên hệ giữa vật chứng và đối tượng chứng minh cũng như giá trị chứng minh của nó để cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng tiến hành thu thập, kiểm tra, đánh giá, sử dụng cho phù hợp. Không nên thu thập và sử dụng quá nhiều vật chứng thuộc loại này gây nên sự trùng lặp, rối rắm trong quá trình đánh giá, sử dụng cũng như việc xử lý vật chứng. Vật chứng minh cho tội phạm bao gồm vật chứng minh cho cấu thành phần tội phạm cơ bản, cấu thành tội phạm tăng nặng hoặc cấu thành tội phạm giảm nhẹ cũng như các tình tiết khác có ý nghĩa tăng nặng hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự của người phạm tội.

Không nên hiểu phiến diện là vật khác có giá trị chứng minh tội phạm chỉ bao gồm những vật chứng có giá trị chứng minh cho tình tiết tăng nặng không thôi. Ví dụ, trong vụ án vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ thì giấy phép lái xe chính là vật chứng để chứng minh cho việc người phạm tội có đủ điều kiện để lái xe (trường hợp buộc phải có giấy phép lái xe) và điều này đã loại trừ tình tiết tăng nặng định khung cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật Hình sự.

Vật khác có giá trị chứng minh người phạm tội hoặc có ý nghĩa trong việc giải quyết vụ án. Theo nghĩa rộng, thì khái niệm tội phạm đã bao hàm khái niệm người phạm tội, chính vì vậy, vật chứng là vật khác có giá trị chứng minh cho tội phạm đã bao hàm khái niệm vật chứng có giá trị chứng minh người phạm tội; tuy nhiên, để nhấn mạnh yếu tố chủ thể của tội phạm và gần với cách hiểu thông thường nên nhà làm luật đã tách cụm từ người phạm tội riêng độc lập với tội phạm.

Vật có giá trị chứng minh người phạm tội là những vật chứng minh cho tư cách chủ thể tội phạm của một người phạm tội, hay nói cách khác, những vật có giá trị xác định đúng một người nào đó đã thực hiện hành vi phạm tội cũng như những đặc điểm khác thuộc nhân thân người đó. Ví dụ, chiếc dép của người phạm tội (xác minh được) thu được tại hiện trường vụ giết người, dấu vân tay thu được tại hiện trường (trên chiếc cốc) của vụ trộm cắp tài sản do người phạm tội để lại (xác minh được)…

                                                                                                                 HỒ QUÂN

                                                                                   Tòa án quân sự Khu vực Quân khu 4

Những vướng mắc trong thực tiễn khi áp dụng khoản 2, khoản 3 Điều 298 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015

Lê Minh Hoàng