Nguyên tắc này không chỉ là sáng tạo nội sinh của pháp luật Việt Nam mà còn phù hợp với chuẩn mực quốc tế về nhân quyền, cụ thể là Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) và Điều 49 Hiến chương Liên minh châu Âu về các quyền cơ bản, đều khẳng định quyền được hưởng quy định pháp luật nhẹ hơn (lex mitior).
Tuy nhiên, trong thực tiễn áp dụng ở nước ta, nhất là với các trường hợp người đang chấp hành hình phạt tù mà chính sách pháp luật thay đổi khiến hành vi không còn là tội phạm, đã nảy sinh những cách hiểu khác nhau. Hai vụ án gà lôi gần đây là minh chứng điển hình: bị cáo Hoàng Văn Phú bị tuyên phạt 11 năm tù trong khi bị cáo Thái Khắc Thành với hành vi tương tự lại được miễn trách nhiệm hình sự do luật mới có lợi.
Vấn đề pháp lý đặt ra là trong bối cảnh pháp luật hình sự có sự thay đổi, phạm nhân đang chấp hành án có được hưởng hiệu lực hồi tố có lợi hay không? Cơ quan thi hành án hoặc tòa án có thể căn cứ vào đâu để ra quyết định miễn chấp hành hình phạt trong khi Điều 62 BLHS lại không quy định căn cứ “do thay đổi pháp luật”?
Bài viết này bàn về hai luồng quan điểm chính, phân tích bất cập của quy định hiện hành, đồng thời đề xuất hướng sửa đổi Điều 62 BLHS để thống nhất với Khoản 3 Điều 7 BLHS và Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
1. Khung pháp lý về hồi tố
1.1. Nguyên tắc hồi tố có lợi (lex mitior) theo khoản 3 Điều 7 BLHS 2015
Quá trình chuyển đổi chính sách hình sự ở Việt Nam từ BLHS 1999 sang BLHS 2015 đánh dấu sự dịch chuyển quan trọng từ mô hình trừng trị thuần tuý sang mô hình vừa bảo đảm trật tự xã hội, vừa đề cao tính nhân đạo và công bằng thủ tục. Một biểu hiện điển hình là nguyên tắc hồi tố theo hướng có lợi (lex mitior) được nội luật hoá tại khoản 3 Điều 7 BLHS 2015. Khi điều luật xóa tội, giảm hình phạt hoặc mở rộng các chế định có lợi (án treo, miễn, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích…) thì quy định đó được áp dụng cho hành vi đã thực hiện trước ngày luật mới có hiệu lực.
Khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 là điểm tựa trực tiếp cho nguyên tắc hồi tố theo hướng có lợi. Theo đó các quy định xóa bỏ tội phạm, bỏ hình phạt, quy định mức hình phạt nhẹ hơn hoặc mở rộng các chế định có lợi (án treo, miễn trách nhiệm hình sự, miễn, giảm hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện, xóa án tích…) được áp dụng cho cả hành vi đã thực hiện trước ngày luật mới có hiệu lực. Hệ chuẩn này bảo đảm tính nhân đạo và công bằng hình sự. Đồng thời xác lập cơ chế hạ chuẩn trừng phạt khi chính sách hình sự thay đổi theo hướng khoan dung hơn.
Nguyên tắc này tương thích với chuẩn mực quốc tế. Điều 15 Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị (ICCPR) thừa nhận “nếu luật sau dự liệu hình phạt nhẹ hơn, người phạm tội được hưởng”. Điều 49 Hiến chương Liên minh châu Âu về các quyền cơ bản (Charter of Fundamental Rights of the European Union, gọi tắt là EU Charter) cũng khẳng định “nếu sau khi phạm tội, luật dự liệu hình phạt nhẹ hơn, thì hình phạt đó được áp dụng”. Nguyên tắc lex mitior trong Điều 15 ICCPR là nguồn tham chiếu quan trọng khi Việt Nam xây dựng và sửa đổi BLHS 2015. Việt Nam là thành viên đầy đủ của ICCPR nên Công ước có giá trị pháp lý quốc tế ràng buộc.
Ở châu Âu, án lệ Scoppola v. Italy (No. 2), Đại phòng, 17/09/2009 của ECtHR đã nhìn nhận lex mitior như nội dung của nguyên tắc hợp pháp về hình sự (nguyên tắc legality), củng cố địa vị nhân quyền của quy tắc này trong trật tự công pháp châu Âu.
1.2. Hướng dẫn áp dụng tại Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP
Trong nội bộ hệ thống pháp luật Việt Nam, việc triển khai quy định hồi tố được cụ thể hóa bởi Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC. Nghị quyết hướng dẫn phạm vi và thủ tục áp dụng quy định có lợi của khoản 3 Điều 7, kể cả ở giai đoạn thi hành án trong một số trường hợp. Đồng thời đặt ra giới hạn thời điểm nhằm bảo đảm tính ổn định của bản án đã có hiệu lực pháp luật và sự thống nhất trong áp dụng.
Để biến nguyên tắc thành cơ chế vận hành, Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP của Hội đồng Thẩm phán TANDTC đã làm rõ phạm vi, thủ tục và thẩm quyền áp dụng quy định có lợi của khoản 3 Điều 7. Điểm nổi bật là cho phép áp dụng ở cả giai đoạn thi hành án trong những trường hợp luật mới làm hành vi không còn là tội phạm hoặc thu hẹp đáng kể cấu thành, theo đó Chánh án Tòa án có thẩm quyền có thể ra quyết định miễn chấp hành phần hình phạt còn lại (trong quyết định phải ghi rõ lý do “do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước”). Đồng thời Nghị quyết đặt giới hạn thời điểm để bảo đảm ổn định pháp lý với một số nhóm đối tượng đặc thù, nếu bị kết án kể từ ngày 09/12/2015 thì không thực hiện miễn chấp hành theo cơ chế này mà phải xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
Cách thiết kế trên cho thấy Hội đồng Thẩm phán theo đuổi hai mục tiêu: (1) vừa bảo đảm quyền thụ hưởng quy định có lợi của người bị kết án theo quy định hồi tố, (2) vừa giữ ổn định bản án trong những tình huống đã đóng về mặt tố tụng, tránh làm xáo trộn quá mức trật tự thi hành án.
1.3. Điều 62 BLHS 2015 và khoảng trống pháp điển
Điều 62 BLHS 2015 quy định các căn cứ miễn chấp hành hình phạt theo hướng nhân đạo, khuyến khích cải tạo” như đặc xá, đại xá, lập công lớn, bệnh tật đặc biệt, hoàn cảnh đặc biệt, đã chấp hành tốt… nhưng không ghi nhận rõ ràng căn cứ miễn do “sự thay đổi của pháp luật” (trong trường hợp luật mới xóa tội hoặc làm nhẹ đáng kể trách nhiệm). Trong khi thực tiễn vận dụng khoản 3 Điều 7 và Nghị quyết 01/2016 đã thừa nhận, thậm chí hướng dẫn chi tiết thì điều luật nền về miễn chấp hành hình phạt lại chưa được pháp điển hóa căn cứ này, tạo ra độ vênh kỹ thuật giữa luật và nghị quyết hướng dẫn. Đây chính là khoảng trống pháp lý dễ gây lúng túng khi áp dụng ở giai đoạn thi hành án, đặc biệt trong những hồ sơ không rơi vào các trường hợp ngoại lệ mà Nghị quyết đã định sẵn.
Về mặt lý luận, Việt Nam đã tiếp nhận hồi tố ở cấp bộ luật và triển khai bằng nghị quyết hướng dẫn. Tuy nhiên để đạt mức đồng bộ, minh bạch, khả thi, cần cân nhắc bổ sung vào Điều 62 căn cứ miễn chấp hành hình phạt khi có sự thay đổi pháp luật theo hướng có lợi, qua đó hợp thức hóa đường dẫn từ nguyên tắc (Điều 7) đến thủ tục (miễn, giảm, chuyển hình phạt ở giai đoạn thi hành án) trong cùng hệ quy phạm.
2. Vướng mắc thực tiễn nhìn từ hai vụ án gà lôi
Trên nền tảng khung pháp lý đã nêu, thực tiễn cho thấy những kết quả xử lý khác nhau đối với các hành vi có bề ngoài tương tự về loài gà lôi trắng.
(i) Vụ án Hoàng Văn Phú
Theo bản án số 177/2024/HS-ST ngày 13/06/2024 bị cáo Hoàng Văn Phú bị TAND quận Nam Từ Liêm (Hà Nội) tuyên phạt 11 năm tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” theo điểm b khoản 3 Điều 244 BLHS 2015 vì hành vi buôn bán 37 cá thể gà lôi trắng (Lophura nycthemera) loài được xác định thuộc nhóm IB theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP. Hành vi phạm tội xảy ra vào ngày 19/9/2023 tại Hà Nội, bị cáo mua nuôi, nhân giống và vận chuyển trái phép 37 cá thể. Đến nay chưa có thông tin công bố việc vận dụng quy định hồi tố để giảm hoặc miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo này.
(ii) Vụ án Thái Khắc Thành
Trong vụ án này bị cáo Thái Khắc Thành bị TAND Khu vực 5 (Hưng Yên) xử sơ thẩm tuyên phạt 6 năm tù theo điểm b khoản 2 Điều 244 BLHS 2015 vì nuôi và bán 13 cá thể gà lôi trắng. Nhưng tại phiên phúc thẩm ngày 17/10/2025, TAND tỉnh Hưng Yên đã miễn trách nhiệm hình sự cho bị cáo, đồng thời hủy bỏ biện pháp cấm đi khỏi nơi cư trú và thả người tại tòa. Lý do đến thời điểm xét xử, theo Thông tư 27/2025/TT-BNNMT (hiệu lực 01/7/2025) loài gà lôi trắng không còn thuộc nhóm IB mà chuyển sang nhóm IIB nên hành vi bị truy tố không còn “nguy hiểm cho xã hội” như khi bị xử lý.
Sự khác nhau của 02 vụ án gà lôi nói trên xuất phát từ khác biệt thời điểm áp dụng pháp luật. Vụ Thái Khắc Thành được xét ở giai đoạn mà văn bản thay đổi danh mục loài đã có hiệu lực nên nguyên tắc hồi tố được vận dụng hợp pháp để miễn trách nhiệm hình sự. Vụ Hoàng Văn Phú được xét khi chưa có sự thay đổi chính sách tương ứng nên Tòa áp dụng điều luật đang có hiệu lực tại thời điểm phạm tội là hoàn toàn đúng pháp luật. Vì vậy, đây không phải là hai phán quyết trái chiều về mặt pháp lý mà là hai kết quả phù hợp với các mốc hiệu lực khác nhau của quy định.
Điểm cần bàn không nằm ở tính tối cao của bản án hay sự ưu tiên hồi tố nói chung mà ở cách vận hành nguyên tắc có lợi khi chính sách thay đổi sau các mốc tố tụng khác nhau. Trong thực tiễn, độ vênh thường chỉ nảy sinh khi sự thay đổi diễn ra sau khi bản án đã có hiệu lực hoặc đang thi hành. Khi đó việc dùng thủ tục để áp dụng quy định có lợi (đình chỉ, miễn phần còn lại, chuyển hình phạt…) cần cơ sở rõ ràng trong BLHS, BLTTHS và nghị quyết hướng dẫn.
Tiếp theo là câu chuyện bản án đã có hiệu lực và đang thi hành. Khi đó việc vận dụng hồi tố theo hướng có lợi như miễn trách nhiệm hoặc giảm hình phạt trở nên phức tạp vì phải cân bằng ổn định pháp lý và yêu cầu thượng tôn pháp luật. Dường như vụ Hoàng Văn Phú rơi vào tình huống này nên chưa được mở thủ tục xem xét lại.
Nguyên tắc hồi tố được thể hiện rõ trong vụ Thái Khắc Thành khi chính sách pháp luật mới nhẹ hơn được áp dụng cho bị cáo. Ngược lại vụ Hoàng Văn Phú chưa thụ hưởng nguyên tắc này. Sự đối sánh ấy cho thấy ranh giới mong manh giữa yêu cầu nhân đạo và nhu cầu bảo đảm hiệu lực chung thẩm của bản án.
Cuối cùng là điểm nghẽn ở giai đoạn thi hành án. Trường hợp Thái Khắc Thành được miễn ngay tại phúc thẩm khi bản án chưa đi vào thi hành. Nếu sự thay đổi chính sách diễn ra sau khi án đã có hiệu lực thì việc miễn trách nhiệm hoặc miễn phần chấp hành còn lại thường khó khăn hơn. Thực tế này phản ánh những vướng mắc hiện hành khi áp dụng khoản 3 Điều 7 và Nghị quyết 01/2016.
3. Quan điểm áp dụng hồi tố
Sự thay đổi chính sách hình sự về bảo vệ động vật hoang dã cùng với việc áp dụng nguyên tắc hồi tố theo hướng có lợi trong khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 đã tạo nên nhiều cách hiểu khác nhau trong thực tiễn. Các tòa án khi xử lý các vụ việc tương tự thường chia thành hai hướng tiếp cận về phạm vi và cơ chế áp dụng của quy định hồi tố, phản ánh hai luồng quan điểm chủ đạo trong thực tiễn xét xử hiện nay.
Luồng 1: Quan điểm giới hạn phạm vi áp dụng hồi tố
Theo cách hiểu này hiệu lực hồi tố có lợi chỉ được vận dụng khi vụ án còn ở các giai đoạn tiền chung thẩm, tức là giai đoạn điều tra, truy tố hoặc xét xử sơ thẩm, phúc thẩm. Khi bản án đã có hiệu lực pháp luật và đã chuyển sang giai đoạn thi hành, việc thay đổi chính sách hình sự chỉ có thể được phản ánh thông qua cơ chế xem xét lại bản án theo thủ tục đặc biệt (giám đốc thẩm, tái thẩm) nếu có căn cứ tố tụng độc lập, sau đó mới kết hợp nguyên tắc hồi tố tại khoản 3 Điều 7 để xử lý hậu quả. Lập luận cốt lõi của hướng tiếp cận này dựa trên yêu cầu ổn định của phán quyết đã có hiệu lực (res judicata) và nguyên tắc tôn trọng bản án có hiệu lực thi hành. Đồng thời viện dẫn thực tế là Điều 62 BLHS 2015 không ghi nhận thay đổi pháp luật như một căn cứ miễn chấp hành hình phạt.
Trong thực tiễn vụ Hoàng Văn Phú cho thấy cách tiếp cận thận trọng ấy. Bị cáo bị TAND quận Nam Từ Liêm tuyên 11 năm tù về tội “Vi phạm quy định về bảo vệ động vật nguy cấp, quý, hiếm” liên quan 37 cá thể gà lôi trắng. Thời điểm xét xử và định danh loài vẫn tương ứng nhóm IB theo Nghị định 84/2021/NĐ-CP nên tòa áp dụng điều luật hiện hành tại thời điểm phạm tội và xét xử mà không vận dụng hồi tố có lợi. Bản án thể hiện rõ diễn biến điều tra ngày 19/9/2023, cáo trạng 16/5/2024 và quyết định tuyên phạt 11 năm tù ở cấp sơ thẩm.
Luồng 2: Quan điểm mở rộng phạm vi áp dụng theo Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP
Cách hiểu này coi khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 là quy phạm có hiệu lực trực tiếp về nội dung còn Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP là cơ chế thủ tục giúp vận hành hồi tố cả khi vụ án đã bước vào thi hành án với điều kiện luật mới làm hành vi không còn là tội phạm hoặc thu hẹp đáng kể cấu thành.
Nghị quyết cho phép Chánh án có thẩm quyền miễn chấp hành phần hình phạt còn lại và yêu cầu ghi rõ lý do “do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước” trong quyết định. Đồng thời đặt giới hạn thời điểm để bảo đảm ổn định pháp lý (mốc 09/12/2015 với một số nhóm đối tượng chuyển tiếp). Cấu trúc này nhằm hài hòa nhu cầu bảo vệ quyền lợi của người bị kết án với đòi hỏi nhất quán của hệ thống thi hành án.
Theo tác giả thì vụ Thái Khắc Thành là minh họa điển hình cho luồng 1. Ở cấp sơ thẩm, bị cáo bị xử phạt 6 năm tù theo điểm b khoản 2 Điều 244 BLHS 2015 vì nuôi và bán 13 cá thể gà lôi trắng. Tuy nhiên, đến phúc thẩm ngày 17/10/2025, TAND tỉnh Hưng Yên đã tuyên miễn trách nhiệm hình sự sau khi ghi nhận căn cứ pháp lý mới theo Thông tư 27/2025/TT-BNNMT (hiệu lực 01/7/2025), gà lôi trắng (Lophura nycthemera) không còn xếp nhóm IB mà chuyển sang nhóm IIB kéo theo hệ quả thu hẹp cấu thành ở Điều 244. Đại diện VKSND tỉnh Hưng Yên tại phiên phúc thẩm cũng đề nghị miễn TNHS trên cơ sở thay đổi chính sách pháp luật và HĐXX đã chấp nhận, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn và trả tự do tại tòa. Kết quả phúc thẩm của vụ án này đã làm rõ logic hồi tố trong bối cảnh thay đổi danh mục loài.
Hai luồng quan điểm không đối nghịch về tính hợp pháp mà khác nhau về phạm vi thời điểm và thủ tục để hiện thực hóa hồi tố. Luồng 1 nhấn mạnh tính ổn định của phán quyết đã có hiệu lực và đòi hỏi thông qua thủ tục đặc biệt trước khi điều chỉnh hậu quả hình sự. Luồng 2 dựa vào khoản 3 Điều 7 như một quy phạm nội dung có thể triển khai ngay thông qua Nghị quyết 01/2016 ở giai đoạn thi hành án miễn là đáp ứng điều kiện và giới hạn chuyển tiếp.
Từ góc độ kỹ thuật lập pháp Điều 62 BLHS 2015 hiện chưa pháp điển hóa căn cứ miễn do thay đổi pháp luật khiến không ít tòa án e ngại khi vận dụng Nghị quyết 01/2016 trong hồ sơ đã chuyển sang thi hành án vì lo ngại vượt phạm vi điều luật. Khoảng trống này khuyến nghị một giải pháp đồng bộ bổ sung vào Điều 62 căn cứ miễn chấp hành hình phạt khi có sự thay đổi pháp luật theo hướng xóa tội hoặc làm nhẹ đáng kể trách nhiệm. Qua đó hợp thức hóa đường dẫn từ nguyên tắc (Điều 7) đến thủ tục (quyết định miễn) và giảm thiểu độ vênh giữa luật, nghị quyết và thực tiễn.
4. Kinh nghiệm quốc tế về áp dụng hồi tố
Nhiều hệ thống pháp luật cùng thừa nhận nguyên tắc “luật hình sự nhẹ hơn được áp dụng cho hành vi đã xảy ra” nhưng cách triển khai cụ thể rất khác nhau. Ở Tây Ban Nha, Bộ luật Hình sự ghi rõ tòa án phải áp dụng đạo luật mới có lợi ngay cả khi bản án đã có hiệu lực và người bị kết án đang thi hành án. Khi đó, tòa tiến hành thủ tục xem xét lại bản án (revisión de sentencias) để điều chỉnh cho phù hợp với chuẩn mực mới. Thực tiễn xét xử của Tòa Tối cao Tây Ban Nha xác nhận cơ chế này và yêu cầu so sánh có lợi hơn một cách cụ thể theo từng vụ việc.
Pháp luật của Ý có cấu trúc tương tự nhưng phân biệt rất rành mạch. Nếu luật mới xóa hẳn tội (abolitio criminis) thì việc thi hành chấm dứt và các hệ quả pháp lý của bản án cũng bị xóa bỏ. Nếu luật mới chỉ nhẹ hơn thì tòa áp dụng luật có lợi cho đến trước khi bản án trở thành chung thẩm tuyệt đối. Án lệ Cassazione nhấn mạnh nguyên tắc lựa chọn gói quy định có lợi một cách toàn vẹn, không lắp ghép từng mảnh rời rạc, đồng thời tách bạch thay đổi nội dung hình sự với thay đổi thuần túy thủ tục hay hành chính.
Pháp đi theo hướng chặt chẽ hơn. Bộ luật Hình sự của Pháp có quy định cho phép áp dụng luật hình sự mới nhẹ hơn đối với người phạm tội nhưng chỉ khi vụ án chưa có bản án đã có hiệu lực pháp luật. Nói cách khác nếu bản án đã trở thành chung thẩm thì quy định mới không được áp dụng nữa. Luật nội dung có lợi mới được hồi tố cho hành vi trước ngày hiệu lực còn luật thủ tục áp dụng tức thời theo nguyên tắc riêng và không được coi là cơ chế nhẹ hơn theo nghĩa hình phạt. Vì vậy can thiệp vào bản án đã chung thẩm không phải là con đường mặc định.
Đức cũng đặt trọng tâm ở giai đoạn trước khi tuyên án. Bộ luật Hình sự Đức quy định nếu trong quá trình tố tụng mà luật thay đổi thì phải chọn đạo luật nhẹ nhất để áp dụng. Khi bản án đã có hiệu lực, pháp luật không mở sẵn cơ chế xem xét lại chỉ vì có luật có lợi hơn nhằm bảo đảm sự ổn định của nguyên tắc bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Hoa Kỳ theo một mô hình khác. Hiến pháp cấm hồi tố bất lợi nhưng không bắt buộc áp dụng hồi tố có lợi. Quy định “general saving statute” giữ nguyên trách nhiệm và chế tài theo luật cũ trừ khi Quốc hội nêu rõ hiệu lực hồi tố có lợi trong đạo luật mới. Án lệ Dorsey v. United States chỉ mở một cửa hẹp, áp dụng mức phạt nhẹ hơn của đạo luật mới cho những người phạm tội trước nhưng bị tuyên án sau ngày luật có hiệu lực. Còn các bản án đã chung thẩm hoặc đang thi hành không mặc nhiên được điều chỉnh nếu Quốc hội không quy định rõ.
Từ so sánh trên có thể rút ra một kết luận ngắn gọn. Về phạm vi thời điểm, Tây Ban Nha và phần quy định xóa tội của Ý cho phép can thiệp sâu đến cả giai đoạn bản án đã có hiệu lực và đang thi hành. Pháp và Đức giữ giới hạn trước chung thẩm để bảo đảm ổn định pháp lý. Hoa Kỳ thì chỉ chấp nhận hồi tố có lợi khi nhà lập pháp nói rõ. Việt Nam đã tiếp nhận nguyên tắc hồi tố ở cấp Bộ luật (khoản 3 Điều 7 BLHS 2015) và còn mở thêm cơ chế áp dụng trong giai đoạn thi hành án thông qua Nghị quyết 01/2016 của Hội đồng Thẩm phán. Tuy vậy, căn cứ “do thay đổi pháp luật” vẫn chưa được ghi nhận trực tiếp trong Điều 62 về miễn chấp hành hình phạt. So với mô hình đã pháp điển hóa việc xem xét lại bản án như ở Tây Ban Nha hoặc khung xóa tội chấm dứt thi hành rất rõ ở Ý, đây là khoảng trống kỹ thuật mà Việt Nam nên sớm hoàn thiện để kết nối mạch lạc giữa nguyên tắc và thủ tục.
5. Kiến nghị hoàn thiện
Theo phân tích đã trình bày ở trên, sự thiếu đồng bộ giữa Điều 7, Điều 62 BLHS 2015 và Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP đã tạo ra khoảng trống trong cơ chế hồi tố có lợi cho người đang chấp hành án khi có thay đổi pháp luật. Để khắc phục và đảm bảo tính thống nhất, minh bạch, bảo vệ rõ quyền lợi của người bị kết án mà vẫn giữ ổn định pháp lý, tác giả đề xuất các kiến nghị sau:
1) Sửa đổi Điều 62 BLHS 2015
Cần bổ sung một điểm mới vào Điều 62 như sau:
“Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi có sự thay đổi của pháp luật làm cho hành vi không còn là tội phạm hoặc hình phạt được quy định nhẹ hơn.”
Việc này sẽ pháp điển hóa căn cứ “thay đổi pháp luật” mà Nghị quyết 01/2016 đã thực thi trong thực tế, tạo điều kiện cho việc miễn chấp hành hình phạt không chỉ dựa trên các căn cứ cổ điển như lập công, bệnh hiểm nghèo, cải tạo tốt mà còn dựa vào chính sách hình sự mới có lợi. Khung thời gian, điều kiện cụ thể tùy theo mức thay đổi luật (xóa tội, cấu thành mới, định lượng thay đổi), nhưng cần phù hợp với nguyên tắc hồi tố có lợi tại khoản 3 Điều 7 BLHS 2015.
2) Hoàn thiện Luật Thi hành án hình sự
Cần bổ sung vào Luật Thi hành án hình sự một nhánh thủ tục chuyên biệt cho trường hợp miễn chấp hành hình phạt do thay đổi pháp luật. Quy trình nên vận hành theo cơ chế một cửa tại nơi người bị kết án đang chấp hành án, vừa bảo đảm quyền tiếp cận của phạm nhân vừa kiểm soát chặt chẽ căn cứ pháp lý. Cơ quan thi hành án hình sự chủ trì rà soát và lập hồ sơ khi có căn cứ luật mới có lợi (xóa tội, thu hẹp cấu thành, giảm khung hình phạt). Viện kiểm sát cùng cấp kiểm sát tính có lợi và điều kiện cá nhân (tiến bộ cải tạo, bồi thường nghĩa vụ dân sự, nơi cư trú, khả năng tái hòa nhập).
Trên cơ sở đó Chánh án TAND cấp tỉnh hoặc Tòa án quân sự cấp quân khu nơi người bị kết án đang chấp hành án ra quyết định miễn phần hình phạt còn lại hoặc chuyển hình phạt. Quyết định phải nêu rõ luật mới, nội dung có lợi, căn cứ định danh hành vi, phần hình phạt được miễn và thời điểm hiệu lực. Đồng thời gửi ngay cho Viện kiểm sát và cơ quan thi hành án để tổ chức thi hành, cập nhật hồ sơ án tích. Cách thiết kế này giúp tuyến thực thi có đủ thẩm quyền và trách nhiệm ở một điểm tập trung, hạn chế tình trạng hồ sơ đi lại nhiều tầng nấc.
3) Cập nhật Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP
Nghị quyết 01/2016 đã mở lối áp dụng hồi tố cả ở giai đoạn thi hành án nhưng vẫn mang dáng dấp quy định chuyển tiếp (như mốc 09/12/2015) nên dễ tạo cảm nhận cơ chế chỉ áp dụng trong một giai đoạn lịch sử. Cần bỏ mốc thời gian này và chuẩn hóa Nghị quyết thành quy tắc thường trực xác định rõ phạm vi vụ việc (xóa tội, thu hẹp cấu thành, giảm chế tài), tiêu chí so sánh có lợi (so theo toàn khối điều luật, không lắp ghép), thẩm quyền và thời hạn giải quyết, mẫu quyết định với câu chữ thống nhất (“do chính sách hình sự mới nhân đạo của Nhà nước”).
Đồng thời làm rõ mối quan hệ với thủ tục giám đốc thẩm khi chỉ có thay đổi luật mà không có căn cứ tố tụng khác, tòa được miễn phần còn lại của hình phạt theo cơ chế tại mục 2 nêu trên. Khi đồng thời có căn cứ tố tụng đặc biệt, tòa áp dụng thủ tục giám đốc thẩm và kết hợp nguyên tắc có lợi để sửa bản án. Cách tiếp cận này giúp thống nhất thực tiễn, tránh tâm lý ngại áp dụng vì sợ vượt phạm vi Điều 62 hiện hành.
4) Bảo đảm thống nhất Điều 7, Điều 62 và Luật THAHS
Việc sửa Điều 62 và cập nhật Nghị quyết 01/2016 chỉ phát huy trọn vẹn khi toàn bộ hệ thống nối mạch với nhau. Ở tầng nguyên tắc khoản 3 Điều 7 BLHS tiếp tục là điểm tựa hồi tố có lợi. Ở tầng căn cứ miễn Điều 62 bổ sung rõ ràng trường hợp thay đổi pháp luật. Ở tầng thủ tục Luật THAHS ghi nhận lộ trình một cửa và mẫu quyết định. Nghị quyết 01/2016 trở thành hướng dẫn thường trực để vận hành quy trình thay vì một nghị quyết chuyển tiếp. Ba tầng này khi được thiết kế ăn khớp sẽ giúp tòa án, viện kiểm sát và cơ quan thi hành án có khung hành động thống nhất, bảo đảm tính nhân đạo của chính sách hình sự mà vẫn giữ được ổn định pháp lý của bản án đã có hiệu lực.
Kết luận
Nguyên tắc hồi tố có lợi trong pháp luật hình sự là chuẩn mực tiến bộ thể hiện tinh thần nhân đạo và công bằng, không trừng phạt một hành vi mà xã hội sau này không còn coi là nguy hiểm cho xã hội. Mục đích khoản 3 Điều 7 BLHS 2015 cho phép áp dụng điều luật có lợi kể cả trong giai đoạn thi hành án là bước tiến quan trọng so với Bộ luật Hình sự 1999. Tuy nhiên sự thiếu liên thông giữa Điều 7 và Điều 62 BLHS đang tạo ra khoảng trống pháp lý. Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP đã hướng dẫn rõ thẩm quyền Chánh án được miễn chấp hành phần còn lại của hình phạt do thay đổi pháp luật, song điều này chưa được pháp điển hóa trong chính BLHS khiến thực tiễn áp dụng còn lúng túng.
Tham khảo kinh nghiệm quốc tế cho thấy các nước như Tây Ban Nha và Ý đã quy định rõ trong Bộ luật hình sự việc tòa án có quyền xem xét lại bản án đã có hiệu lực khi luật mới có lợi, áp dụng cho cả người đang chấp hành án. Trong khi đó các nước như Pháp, Đức, Canada chỉ cho phép áp dụng hồi tố trước khi bản án có hiệu lực còn Hoa Kỳ thì không mặc định áp dụng luật nhẹ hơn nếu Quốc hội không quy định rõ.
Đối chiếu với Việt Nam việc cho phép áp dụng hồi tố có lợi cả ở giai đoạn thi hành án là bước đi nhân văn và tiến bộ nhưng cần được luật hóa để bảo đảm tính thống nhất, minh bạch và quyền lợi của người bị kết án. Bài viết kiến nghị bổ sung vào Điều 62 BLHS một căn cứ mới: “Người bị kết án được miễn chấp hành hình phạt khi có sự thay đổi của pháp luật làm cho hành vi không còn là tội phạm hoặc hình phạt được quy định nhẹ hơn.”
Việc sửa đổi này không chỉ giúp đồng bộ với tinh thần của Điều 7 BLHS và Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP mà còn phù hợp với thông lệ quốc tế về nguyên tắc hồi tố, góp phần nâng cao tính nhân đạo và thống nhất trong chính sách hình sự Việt Nam.
Danh mục tài liệu tham khảo
1. International Covenant on Civil and Political Rights (ICCPR), https://www.ohchr.org/en/instruments-mechanisms/instruments/international-covenant-civil-and-political-rights
2. The Charter of Fundamental Rights of the European Union, https://www.europarl.europa.eu/charter/pdf/04473_en.pdf ;
3. Código Penal de España Artículo 2 del Código Penal, https://www.penal.pro/articulo-2-del-codigo-penal/ ;
4. La aplicación retroactiva de la norma penal más favorable, https://almacendederecho.org/la-aplicacion-retroactiva-de-la-norma-penal-mas-favorable-y-el-indulto-comparados ;
5. Art. 2 Codice Penale Successione di leggi penali, https://officeadvice.it/codice-penale/articolo-2/ ;
6. Article 112-2 du Code pénal, https://justice.pappers.fr/loi/LEGITEXT000006070719/article/LEGIARTI000006417182 ;
7. §2 StGB Temporal application, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_stgb/englisch_stgb.html ;
8. StPO §359 Reopening for convicted person’s benefit, https://www.gesetze-im-internet.de/englisch_stpo/englisch_stpo.html ;
9. German Legislator Was Prohibited from Introducing Ground for Reopening Criminal Proceedings, https://eucrim.eu/news/fcc-german-legislator-was-prohibited-from-introducing-ground-for-reopening-criminal-proceedings/ ;
10. ArtI.S9.C3.3.3 Retroactivity of Ex Post Facto Laws, https://www.law.cornell.edu/constitution-conan/article-1/section-9/clause-3/retroactivity-of-ex-post-facto-laws ;
11. Bộ luật Hình sự 2015 (sửa đổi bổ sung 2025);
11. Nghị quyết 01/2016/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định tại khoản 3 Điều 7 BLHS 2015;
12. Nghị quyết số 41/2017/QH14 của Quốc hội: Về việc thi hành Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14 và về hiệu lực thi hành của Bộ luật Tố tụng hình sự số 101/2015/QH13, Luật Tổ chức cơ quan điều tra hình sự số 99/2015/QH13, Luật Thi hành tạm giữ, tạm giam số 94/2015/QH13;
13. Luật Thi hành án hình sự 2019;
14. Thông tư số 27/2025/TT-BNNMT của Bộ Nông nghiệp và Môi trường: Quy định về quản lý loài nguy cấp, quý, hiếm; nuôi động vật rừng thông thường và thực thi Công ước về buôn bán quốc tế các loài động vật, thực vật hoang dã nguy cấp;
15. Bản án số 177/2024/HS-ST ngày 13/06/2024 của TAND quận Nam Từ Liêm, https://thuvienphapluat.vn/banan/ban-an/ban-an-ve-toi-vi-pham-quy-dinh-bao-ve-dong-vat-nguy-cap-quy-hiem-so-1772024hsst-369224
Thạc sĩ, Luật sư HOÀNG HÀ
Công ty Luật TNHH MTV Thiên Quý
Đoàn Luật sư TP. Hồ Chí Minh

