Theo khoản 3 Điều 2 Luật Xử lý vi phạm hành chính 2012, biện pháp xử lý hành chính là biện pháp được áp dụng đối với cá nhân vi phạm pháp luật về an ninh, trật tự, an toàn xã hội mà không phải là tội phạm, bao gồm biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn; đưa vào trường giáo dưỡng; đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc và đưa vào cơ sở cai nghiện bắt buộc. Tuy nhiên, trong số bốn biện pháp như trên, Tòa án chỉ có quyền quyết định áp dụng ba biện pháp ngoài trừ biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Mỗi biện pháp được quy định có đối tượng áp dụng, điều kiện áp dụng, thời hạn áp dụng riêng. Qua nghiên cứu quy định về áp dụng biện pháp xử lý hành chính tại Tòa án, tác giả nhận thấy một số vấn đề sau:
Thứ nhất, về thẩm quyền của Tòa án trong việc quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Như đã phân tích ở trên, Tòa án có thẩm quyền xem xét áp dụng ba trên tổng số bốn biện pháp xử lý hành chính. Câu hỏi đặt ra là tại sao luật lại quy định như vậy? Có thể dễ dàng nhận thấy, so với biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn thì ba biện pháp còn lại thể hiện tính nghiêm khắc cao hơn, đặc biệt là hạn chế quyền tự do của một cá nhân. Tuy nhiên, tác giả cho rằng, cần sửa đổi quy định của Luật theo hướng giao cho Tòa án thẩm quyền quyết định áp dụng cả bốn biện pháp xử lý hành chính thay vì ba biện pháp như hiện nay, bởi vì:
Một, tạo sự thống nhất về thẩm quyền áp dụng một nhóm biện pháp cưỡng chế. Biện pháp xử lý hành chính là nhóm biện pháp cưỡng chế riêng biệt, độc lập với với nhóm biện pháp khác, có đặc điểm riêng, được quy định riêng. Cả bốn biện pháp xử lý hành chính đều có những điểm tương đồng nên cần thống nhất giao cho một cơ quan có thẩm quyền quyết định áp dụng.
Hai, tạo sự chặt chẽ, khách quan trong việc áp dụng biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn. Theo đó, việc giao cho một cơ quan chuyên xem xét, đánh giá, quyết định các vấn đề liên quan đến quyền con người áp dụng biện pháp xử lý hành chính sẽ tạo sự chặt chẽ trong trình tự, thủ tục, việc lưu trữ hồ sơ và xem xét căn cứ áp dụng pháp luật. Đồng thời, việc giao thẩm quyền cho Tòa án cũng làm tăng tính khách quan trong việc áp dụng biện pháp này khi cơ quan đề nghị áp dụng, cơ quan quyết định áp dụng và cơ quan được giao thực hiện là các cơ quan khác nhau, tránh tình trạng vừa đề nghị, vừa quyết định hay còn gọi là tình trạng “vừa đá bóng, vừa thổi còi”.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
Ba, nhằm thống nhất thực hiện quyền lực nhà nước theo hướng tam quyền phân lập. Theo Hiến pháp năm 2013, Tòa án là cơ quan thực hiện quyền tư pháp – một trong ba nhánh quyền lực nhà nước bên cạnh lập pháp và hành pháp. Khái niệm quyền tư pháp đã được bàn đến nhiều, trong đó phải bao hàm việc quyết định các vấn đề về quyền con người. Mặc dù so với ba biện pháp còn lại, biện pháp giáo dục tại xã, phường, thị trấn có mức độ ảnh hưởng, tác động hơn. Nhưng ít không phải là không có, người bị áp dụng biện pháp này cũng bị ảnh hưởng theo hướng tiêu cực, bị hạn chế quyền con người, phải thực hiện một số nghĩa vụ. Do đó, về đúng bản chất, việc xem xét áp dụng biện pháp này phải được giao cho Tòa án quyết định.
Thứ hai, trình tự phiên họp xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Phiên họp được tiến hành theo trình tự quy định tại Điều 21 Pháp lệnh số 03/2022/UBTVQH15 ngày 13/12/2022 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Theo đó, Pháp lệnh quy định rõ trước khi khai mạc phiên họp, Thư ký phải kiểm tra sự có mặt của những người được Tòa án yêu cầu tham dự phiên họp, nếu có người vắng mặt thì phải làm rõ lý do và báo cáo Thẩm phán xem xét tiếp tục tiến hành phiên họp hoặc hoãn phiên họp; phổ biến nội quy phiên họp. Sau đó, thủ tục phiên họp được tiến như sau: Thẩm phán tuyên bố khai mạc phiên họp; Thẩm phán giải thích quyền và nghĩa vụ… Như vậy, quy định trên đã nêu rõ việc kiểm tra sự có mặt, quyết định tiếp tục hay hoãn phiên họp phải được tiến hành trước khi khai mạc. Nhưng thực tế hiện nay cho thấy, hầu hết các Tòa án đều không tuân thủ đúng quy định này, Thẩm phán sẽ khai mạc phiên họp, sau đó yêu cầu thư ký báo cáo, làm rõ sự vắng mặt, lý do vắng mặt và quyết định hoãn hay tiếp tục. Như vậy, mặc dù không có quá nhiều ảnh hưởng nhưng quy định của Pháp lệnh đã rõ ràng, Tòa án phải tuân thủ đúng. Điều này cần sự kiểm sát chặt chẽ hơn từ Viện kiểm sát, sự kiểm tra của Tòa án cấp trên đối với Tòa án cấp dưới để chấn chỉnh kịp thời.
Thứ ba, về thời hạn xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Tại Điều 8 Pháp lệnh 03/2022/UBTVQH15 quy định “trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày Tòa án thụ lý hồ sơ đề nghị áp dụng biện pháp xử lý hành chính, Tòa án phải ra một trong các quyết định quy định tại điểm k khoản 3 Điều 21 của Pháp lệnh này; đối với vụ việc cần có thời gian kiểm tra, đánh giá, tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc các vụ việc phức tạp khác thì thời hạn này có thể kéo dài nhưng không quá 30 ngày”. Quy định này tồn tại hai vấn đề bất cập như sau:
Một, thời hạn trong trường hợp thông thường là 15 ngày kể từ ngày thụ lý hồ sơ, nhưng có một số trường hợp đặc biệt được kéo dài nhưng không quá 30 ngày, đó là các trường hợp: cần có thời gian kiểm tra, đánh giá, tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn hoặc vụ việc phức tạp khác. Trong các trường hợp này, dễ nhận biết nhất là trường hợp tham khảo ý kiến của các cơ quan chuyên môn bởi thông thường việc tham khảo này sẽ được thực hiện bằng văn bản của Tòa án gửi đến các cơ quan chuyên môn, được lưu trữ vào hồ sơ và cơ quan văn thư lưu trữ theo quy định. Ngoài ra, trường hợp cần thời gian kiểm tra, đánh giá hoặc vụ việc phức tạp khác thì rất khó để nhận biết. Hiện, chưa có quy định nào giải thích hay đặt ra tiêu chí để xem xét vụ việc như thế nào thì được kéo dài. Điều này dẫn đến tình trạng áp dụng không thống nhất, có thể lợi dụng để kéo dài thời gian xem xét hồ sơ. Do đó, cần có quy định rõ ràng và chặt chẽ hơn để xác định trường hợp nào được kéo dài thời hạn xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính.
Hai, quy định trên nêu rõ “trong thời hạn 15 ngày… Tòa án phải ra một trong các quyết định quy định tại điểm k khoản 3 Điều 21 của Pháp lệnh này…”. Các quyết định được quy định tại điểm k khoản 3 Điều 21 gồm: quyết định áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp xử lý hành chính; quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính nếu thuộc trường hợp quy định tại Điều 16 của Pháp lệnh này. Tuy nhiên, khoản 2 Điều 9 Pháp lệnh này quy định trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận đủ hồ sơ, Tòa án phải thụ lý và phân công thẩm phán xem xét, giải quyết. Khoản 4 Điều 13 Pháp lệnh này quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công, căn cứ vào kết quả kiểm tra hồ sơ, Thẩm phán phải quyết định về một trong các nội dung sau đây: yêu cầu bổ sung tài liệu, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ việc xem xét, quyết định áp dụng biện pháp xử lý hành chính, mở phiên họp xem xét. Như vậy, rõ ràng đang có sự chênh lệch khá lớn về thời hạn trong việc ra quyết định đình chỉ, tạm đình chỉ xem xét áp dụng biện pháp xử lý hành chính. Một quy định thì nêu rõ là trong thời hạn 15 ngày, một quy định lại quy định trong thời hạn 03 ngày làm việc kể từ ngày được phân công (cộng với 01 ngày làm việc kể từ ngày nhận hồ sơ). Quy định này là không phù hợp, cần được sửa đổi để bảo đảm thống nhất pháp luật.
VĂN LINH
Tòa án Quân sự khu vực Hải quân