Thời hạn chuẩn bị xét xử
Thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự là khoảng thời gian theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS) để Tòa án thực hiện các hoạt động tố tụng và các công việc cần thiết khác chuẩn bị cho việc xét xử vụ án tại phiên toà sơ thẩm đạt chất lượng và hiệu quả cao. Thời hạn chuẩn bị xét xử vụ án được tính từ ngày Toàn án thụ lý vụ án. Trong thời hạn này, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ, giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên toà.

Ảnh minh họa.
Theo quy định tại Điều 277 BLTTHS, thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm vụ án hình sự bao gồm:
- Thời hạn để Thẩm phán chủ tọa phiên tòa nghiên cứu hồ sơ và ra một trong những quyết định cần thiết;
- Thời hạn để Thẩm phán làm những công việc chuẩn bị cho việc mở phiên toà theo quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Trong đó, thời hạn để Thẩm phán chủ toạ phiên toà ra một trong các quyết định như quyết định đưa vụ án ra xét xử, quyết định trả hồ sơ để điều tra bổ sung, quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ vụ án là ba mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, bốn mươi lăm ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, hai tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, ba tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng kể từ ngày nhận hồ sơ vụ án.
Đối với vụ án phức tạp, có nhiều tình tiết khó đánh giá thống nhất về tính chất vụ án có liên quan đến nhiều cấp, nhiều ngành mà Thẩm phán chưa thể ra được một trong các quyết định trong thời hạn nêu trên thì Thẩm phán báo cáo Chánh án xin gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử. Chánh án Toà án có thể quyết định gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử nhưng không quá mười lăm ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm trọng, không quá ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Toà án phải thông báo ngay việc gia hạn thời hạn chuẩn bị xét xử cho Viện Kiểm sát cùng cấp biết. Việc thông báo này giúp cho Viện kiểm sát thực hiện tốt chức năng kiểm sát xét xử và chủ động trong việc tham gia phiên toà. Đây cũng là điểm mới được bổ sung vào Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003.
Sau khi ra quyết định đưa vụ án ra xét xử, Toà án phải mở phiên toà trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày có quyết định đưa vụ án ra xét xử. Trong trường hợp có lý do chính đáng như người tiến hành tố tụng, người tham gia tố tụng (bị cáo, người bị hại, người làm chứng quan trọng) không thể tham gia phiên toà trong ngày xét xử hoặc việc chuẩn bị cơ sở vật chất cho phiên toà không kịp ngày đã ấn định... thì Toà án có thể mở phiên toà trong thời hạn ba mươi ngày. Đối với vụ án được trả lại để điều tra bổ sung thì trong thời hạn mười lăm ngày kể từ ngày nhận lại hồ sơ, Thẩm phán phải ra quyết định đưa vụ án ra xét xử.
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án, Thẩm phán được phân công chủ toạ phiên toà có nhiệm vụ nghiên cứu hồ sơ; giải quyết các khiếu nại và yêu cầu của những người tham gia tố tụng và tiến hành những việc khác cần thiết cho việc mở phiên toà.
Theo đó, có thể xác định rằng:
Thứ nhất, thời điểm bắt đầu thời hạn chuẩn bị xét xử sơ thẩm được tính từ khi nhận hồ sơ do Viện Kiểm sát chuyển sang.
Thứ hai, thời điểm kết thúc của thời hạn chuẩn bị xét xử; tuy không có quy định cụ thể nhưng căn cứ vào các quy định của Bộ luật tố tụng hình sự thì thời điểm kết thúc là khi Tòa án mở phiên tòa sơ thẩm.
Thứ ba, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày Thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa nhận được hồ sơ vụ án và về nguyên tắc không quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử và những vấn đề vướng mắc
Theo quy định tại khoản 2 và 3 Điều 278 BLTTHS, thì thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này. Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa.
Điểm khác nhau căn bản giữa thời hạn chuẩn bị xét xử và thời hạn tạm giam trong giai đoạn chuẩn bị xét xử là: Thời hạn chuẩn bị xét xử một vụ án hình sự tính từ thời điểm thụ lý hồ sơ vụ án đến ngày mở phiên tòa, còn thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của BLTTHS. Do vậy, thời hạn tạm giam đối với bị can thường ngắn hơn thời hạn chuẩn bị xét xử.
Từ đó, dẫn đến một số hạn chế, bất cập như sau:
Một là, tại khoản 3 Điều 278 BLTTHS quy định: “Đối với bị cáo đang bị tạm giam mà đến ngày mở phiên tòa thời hạn tạm giam đã hết, nếu xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử thì Hội đồng xét xử ra lệnh tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa”.
Như vậy trong trường hợp này, thẩm quyền áp dụng biện pháp tạm giam thuộc về Hội đồng xét xử. Tuy nhiên, căn cứ theo Mẫu số 05-HS ban hành kèm theo Nghị quyết số 05 về “Quyết định tạm giam (áp dụng biện pháp tạm giam cho đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm đối với bị cáo đang bị tạm giam)” thì thẩm quyền áp dụng lại thuộc về Chánh án. Bên cạnh đó, thông thường khi hết thời hạn tạm giam đầu tiên kể từ khi thụ lý không quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại khoản 1 Điều 277 của BLTTHS, tức là không quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Tòa án sẽ ra quyết định tạm giam tiếp theo đến khi kết thúc phiên tòa sơ thẩm và cũng phù hợp mới Mẫu số 05-HS kể trên.
Hai là, quy định về thời hạn chuẩn bị xét xử để áp dụng biện pháp tạm giam trong giai đoạn xét xử sơ thẩm và phúc thẩm chưa thống nhất dẫn đến thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử phúc thẩm còn có quan điểm khác nhau.
Trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, theo quy định tại khoản 2 Điều 278 BLTTHS: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định tại khoản 1 Điều 277 của Bộ luật này”. Căn cứ vào khoản 1 Điều 277 BLTTHS thì thời hạn chuẩn bị xét xử được quy định rất cụ thể, tức là tức là không quá 30 ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng, 45 ngày đối với tội phạm nghiêm trọng, 02 tháng đối với tội phạm rất nghiêm trọng, 03 tháng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Trong xét xử phúc thẩm, khoản 2 Điều 347 BLTTHS quy định: “Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử không được quá thời hạn chuẩn bị xét xử quy định tại Điều 346 của Bộ luật này”.
Như vậy trong giai đoạn xét xử phúc thẩm, BLTTHS không quy định cụ thể (về khoản của Điều luật áp dụng) như trong giai đoạn xét xử sơ thẩm, dẫn đến có 02 quan điểm khác nhau:
Quan điểm thứ nhất: Thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày nhận hồ sơ vụ án đến khi mở phiên tòa (Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 60 ngày; Tòa án nhân dân Cấp cao, Tòa án quân sự trung ương phải mở phiên tòa phúc thẩm trong thời hạn 90 ngày kể từ ngày nhận được hồ sơ vụ án) theo quy định tại khoản 1 Điều 346 BLTTHS.
Quan điểm thứ hai: Áp dụng cách hiểu theo quy định tại giai đoạn xét xử sơ thẩm, thời hạn chuẩn bị xét xử được tính từ ngày vào sổ thụ lý cho đến khi ra một trong các quyết định: Đưa vụ án ra xét xử, Đình chỉ xét xử phúc thẩm, quy định tại khoản 2 Điều 346 BLTTHS (45 ngày đối với Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án quân sự cấp quân khu, 75 ngày đối với vụ án Tòa án nhân dân Cấp cao, Tòa án quân sự trung ương kể từ ngày thụ lý vụ án).
PHẠM MINH ĐÔ
Tòa án Quân sự Quân khu 7
HUỲNH HẢI DUY
Tòa án Quân sự Quân khu 9