Định nghĩa và ý nghĩa pháp lý
Tình tiết "tích cực hợp tác với cơ quan điều tra" được quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS. Tại Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao, hướng dẫn “Hợp tác tích cực với cơ quan chức năng trong việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm” được hiểu là sau khi phạm tội, người phạm tội đã chủ động cung cấp những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội (như: chỉ đúng nơi cất giấu vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật chứng đó; khai báo và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn; khai báo về tội phạm và người phạm tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội...)[1] và theo hướng dẫn tại Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Toà án nhân dân Tối cao thì tình tiết “Người phạm tội tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” được hiểu là trường hợp người phạm tội có những hành vi, lời khai thể hiện sự hợp tác tích cực với cơ quan có trách nhiệm trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới".[2]

Ảnh minh hoạ.
Khi giải quyết vụ án hình sự, thu thập chứng cứ là yếu tố quyết định để làm rõ sự thật và xác định trách nhiệm hình sự. Khi người phạm tội tích cực hợp tác giúp rút ngắn thời gian điều tra, tiết kiệm nguồn lực cho cơ quan tiến hành tố tụng. Cung cấp thông tin quan trọng về tội phạm khác hoặc đồng phạm chưa bị phát hiện, giúp tìm ra vật chứng, tang vật, công cụ phạm tội để củng cố hồ sơ vụ án, hỗ trợ truy bắt tội phạm đang lẩn trốn, ngăn chặn hành vi phạm tội tiếp theo.
Bảo đảm việc xét xử được công bằng, khách quan: Sự hợp tác của bị cáo giúp bảo đảm tính khách quan, toàn diện trong quá trình xét xử, làm rõ bản chất vụ án, động cơ phạm tội, tránh bỏ lọt tội phạm hoặc làm oan người vô tội. Cung cấp thêm chứng cứ có lợi cho họ tạo cơ hội để họ nhận được sự khoan hồng của pháp luật. Thúc đẩy quá trình tranh tụng dân chủ, giúp bị cáo thể hiện thái độ ăn năn, hối cải trước Tòa án. Đồng thời tình tiết này cũng thể hiện chính sách khoan hồng của chính sách pháp luật hình sự Việt Nam.
Phân biệt với tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự với “người phạm tội thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải”
Tình tiết này khác biệt với tình tiết "thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải" (điểm s khoản 1 Điều 51 BLHS). Trong khi "thành khẩn khai báo" tập trung vào việc bị cáo nhận tội và thể hiện sự hối lỗi, "tích cực hợp tác" đòi hỏi người phạm tội sau khi phạm tội đã chủ động cung cấp những tin tức, tài liệu, chứng cứ có ý nghĩa cho việc phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội (như: chỉ đúng nơi cất giấu vật chứng quan trọng giúp cơ quan chức năng thu hồi được vật chứng đó; khai báo và chỉ đúng nơi đồng phạm khác đang bỏ trốn; khai báo về tội phạm và người phạm tội mới liên quan đến tội phạm mà họ bị buộc tội…). Tuy nhiên, khi áp dụng tình tiết này còn có cách hiểu khác nhau, qua các vụ án thực tiễn sau:
Trường hợp 1: Tại vụ án tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý, bị cáo H. cùng với các bị cáo khác phạm tội bị bắt quả tang; quá trình giải quyết vụ án, H. khai nhận hành vi phạm tội của mình, và khai cùng sử dung ma túy với bị cáo khác, lời khai của H. phù hợp với lời khai của các đồng phạm khác tại các “Biên bản bắt người phạm tội quả tang” về hành vi “Tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý”.
Trường hợp 2: Trong vụ án Đ. phạm tội “Mua bán trái phép chất ma túy” cung cấp thông tin về đường dây lớn hơn do T. cầm đầu với số lượng ma tuý cực lớn, giúp bắt giữ nhiều đối tượng liên quan khác. Đ. không chỉ khai nhận hành vi của mình mà còn hỗ trợ tích cực cho cơ quan điều tra mở rộng vụ án, thu giữ thêm tang vật.
Trong 2 trường hợp trên thì trường hợp nào được coi là tích cực hợp tác với cơ quan điều tra; trường hợp nào thành khẩn khai báo. Theo quan điểm của cá nhân người viết thì tại vụ án thứ nhất bị cáo H. không có lời khai hay cung cấp tài liệu, chứng cứ nào có nội dung thể hiện sự tích cực hợp tác với cơ quan chức năng trong việc nhanh chóng làm sáng tỏ vụ án, giúp các cơ quan này phát hiện thêm tội phạm mới hoặc đồng phạm mới, cũng như phát hiện, điều tra, xử lý tội phạm. Còn trường hợp thứ 2 bị cáo Đ. không chỉ khai nhận hành vi của mình mà còn hỗ trợ tích cực cho cơ quan điều tra mở rộng vụ án, thu giữ thêm tang vật. Lúc này, Đ. được xem xét hưởng tình tiết "tích cực hợp tác với cơ quan điều tra”.
Lưu ý khi áp dụng
Việc áp dụng tình tiết "tích cực hợp tác với cơ quan điều tra" cần được thể hiện rõ ràng trong bản án để đảm bảo tính minh bạch và tránh tranh cãi. Khi áp dụng tình tiết này, Tòa án phải phân tích cụ thể mức độ hợp tác của bị cáo, giá trị thực tiễn của thông tin hoặc hành động mà bị cáo cung cấp, cũng như tác động của sự hợp tác đối với quá trình điều tra.
Nếu tình tiết này đã được áp dụng ở cấp sơ thẩm, thì khi xét xử phúc thẩm, không được coi là tình tiết giảm nhẹ mới để tiếp tục giảm nhẹ hình phạt, trừ khi bị cáo có thêm những hành động hợp tác đặc biệt quan trọng mà trước đó chưa được xem xét. Ngoài ra, cần lưu ý rằng tình tiết "tích cực hợp tác" không thể đánh đồng với việc tự nguyện nộp lại tài sản thu lợi bất chính. Trong các vụ án kinh tế hoặc tham nhũng, nhiều bị cáo tự nguyện giao nộp tài sản phạm tội hoặc bồi thường thiệt hại với mong muốn được giảm nhẹ hình phạt. Tuy nhiên, hành động này chỉ được xem là tình tiết giảm nhẹ theo điểm b khoản 1 Điều 51 BLHS (tình tiết "người phạm tội đã tự nguyện sửa chữa, bồi thường thiệt hại, khắc phục hậu quả"), chứ không phải tình tiết "tích cực hợp tác". Sự hợp tác chỉ được ghi nhận nếu bị cáo có hành vi giúp cơ quan điều tra làm rõ vụ án, phát hiện thêm tội phạm hoặc thu thập chứng cứ quan trọng. Vì vậy, trong thực tiễn xét xử, Tòa án cần phân biệt rõ giữa việc hợp tác với cơ quan điều tra và việc khắc phục hậu quả để tránh nhầm lẫn khi áp dụng các tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Tác động đến hình phạt
Tình tiết "tích cực hợp tác với cơ quan điều tra" có tác động quan trọng đến việc quyết định hình phạt đối với bị cáo, thể hiện chính sách khoan hồng của Nhà nước đối với những người phạm tội có thái độ hợp tác thực sự trong quá trình điều tra. Theo quy định tại điểm t khoản 1 Điều 51 BLHS, đây là một tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Khi bị cáo có hành vi hợp tác tích cực, Tòa án sẽ xem xét để giảm nhẹ mức hình phạt trong phạm vi khung hình phạt hoặc nếu bị cáo có từ hai tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên, trong đó có tình tiết "tích cực hợp tác", Tòa án có thể áp dụng một trong hai biện pháp sau:
- Quyết định mức hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt mà bị cáo bị truy tố.
- Chuyển sang một hình phạt nhẹ hơn loại hình phạt đang bị áp dụng quy định tại Điều 54 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung 2017).
Như vậy, tình tiết “tích cực hợp tác với cơ quan điều tra, có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án” là một trong những yếu tố quan trọng giúp đảm bảo tính công bằng và nhân đạo trong xét xử các vụ án hình sự. Việc áp dụng tình tiết này không chỉ thể hiện chính sách khoan hồng của pháp luật mà còn khuyến khích người phạm tội hợp tác, hỗ trợ cơ quan chức năng trong quá trình điều tra, truy tố và xét xử. Qua phân tích, có thể thấy rằng tình tiết này có sự khác biệt rõ rệt so với các tình tiết giảm nhẹ khác, đặc biệt là tình tiết "thành khẩn khai báo, ăn năn hối cải", đồng thời tác động trực tiếp đến mức hình phạt của bị cáo.
Tuy nhiên, để áp dụng chính xác, các cơ quan tiến hành tố tụng cần đánh giá một cách khách quan, xem xét mức độ hợp tác, giá trị thực tiễn của thông tin mà bị cáo cung cấp cũng như tác động của sự hợp tác đối với quá trình giải quyết vụ án, tránh áp dụng sai, tuỳ tiện trong quá trình giải quyết vụ án. Việc đảm bảo áp dụng đúng đắn tình tiết này sẽ góp phần thúc đẩy quá trình điều tra nhanh chóng, bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị cáo và đảm bảo công lý trong xét xử vụ án hình sự.
[1] Khoản 8 Điều 2 Nghị quyết số 03/2020/NQ-HĐTP ngày 30/12/2020 của Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân Tối cao
[2] Mục 3 phần I Công văn số 212/TANDTC-PC ngày 13/9/2019 của Toà án nhân dân Tối cao
NGUYỄN TỨ
Tòa án quân sự Quân khu 2