/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong Tố tụng Hình sự

Bảo đảm quyền con người của bị cáo trong Tố tụng Hình sự

23/09/2021 16:42 |

(LSVN) - Tố tụng Hình sự là lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy cảm mà trong đó quyền con người của bị cáo dễ bị xâm phạm nhất. Bài viết khái quát lý luận, đánh giá thực trạng pháp luật tố tụng hình sự, thực tiễn thực hiện các biện pháp bảo đảm quyền con người của bị cáo và đưa ra một số kiến nghị tăng cường bảo đảm quyền của bị cáo trong xét xử vụ án hình sự.

Ảnh minh họa.

Đặt vấn đề

Trong nhà nước pháp quyền, các quyền con người được pháp luật bảo đảm thực hiện và được bảo vệ không bị xâm phạm. Ghi nhận và bảo vệ quyền con người trên thực tế là thể hiện của một nhà nước nhân bản, tiến bộ, dân chủ, văn minh. Các quyền con người trở thành đối tượng bảo vệ trong việc ghi nhận về pháp lý, trong hoạt động thi hành pháp luật và xử lý vi phạm pháp luật của nhà nước. Bảo vệ quyền con người không chỉ là nội dung, bản chất mà còn trở thành mục tiêu cao nhất trong xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta.

Tố tụng Hình sự là lĩnh vực hoạt động nhà nước nhạy cảm liên quan đến quyền con người. Hơn ở đâu hết, quyền con người trong Tố tụng Hình sự, nhất là của bị cáo, dễ bị xâm phạm nhất và hậu quả của sự xâm phạm đó thường là rất nghiêm trọng cả về vật chất, thể chất và tinh thần. Quyền con người trong lĩnh vực tố tụng hình sự được ghi nhận và bảo vệ trên cơ sở cân nhắc rằng hoạt động Tố tụng Hình sự gắn liền với vi phạm pháp luật nghiêm trọng nhất là tội phạm và chức năng của nhà nước là phát hiện nhanh chóng, kịp thời và xử lý công minh người phạm tội; nhưng đồng thời hoạt động tố tụng hình sự cũng bảo đảm để các quyền con người không bị xâm phạm.

Bảo vệ quyền con người nói chung, của bị cáo nói riêng được thực hiện trong pháp luật tố tụng hình sự bằng các hình thức, biện pháp khác nhau. Trong đó, biện pháp quan trọng nhất là bằng các quy định đúng đắn, hợp lý, khả thi trong pháp luật tố tụng hình sự và bảo đảm thực hiện các quy định đó trên thực tế.

Vì vậy, có thể nói nghiên cứu các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) liên quan đến bảo vệ quyền con người của bị cáo; đánh giá việc thực hiện các quy định đó trên thực tế để từ đó đưa ra các giải pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng là một trong những nội dung quan trọng của việc nghiên cứu bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự.

Một số vấn đề chung về bảo đảm quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự

Tham khảo ý kiến các nhà nghiên cứu và qua phân tích các yếu tố về nội dung cũng như hình thức thể hiện quyền con người trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, chúng tôi cho rằng bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự có thể được thực hiện bằng các biện pháp chủ yếu sau đây:

- Các biện pháp liên quan đến hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự;

- Các biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của người tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ các quyền con người nói chung, của người tham gia tố tụng nói riêng;

- Các biện pháp xử lý vi phạm quyền con người trong tố tụng hình sự;

- Các biện pháp bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của người tham gia tố tụng đối với quyết định hoặc hành vi vi phạm quyền con người…

Các biện pháp liên quan đến hoạt động xây dựng và thực thi pháp luật tố tụng hình sự

Theo chúng tôi, từ góc độ bảo đảm các quyền con người, vai trò của hoạt động lập pháp thể hiện trong các điểm sau đây:

Một là, quy định các nguyên tắc tố tụng hình sự như là các tư tưởng cụ thể hóa các nguyên tắc Hiến định, chỉ đạo chung cho lập pháp và thực hiện pháp luật tố tụng hình sự (1).

Hai là, quy định đầy đủ, minh bạch địa vị pháp lý (các quyền và nghĩa vụ tố tụng) của bị cáo cũng như trách nhiệm của cơ quan, người có thẩm quyền tố tụng trong việc bảo đảm cho bị cáo thực hiện các quyền đó trên thực tế. 

Đặc biệt, trong các quy định của pháp luật tố tụng hình sự - lĩnh vực mà các quyền con người có nguy cơ bị vi phạm nhiều nhất, thì việc ghi nhận đầy đủ các quyền tố tụng của bị cáo và trách nhiệm của tòa án trong việc bảo đảm thực hiện các quyền đó có ý nghĩa rất quan trọng. Trong lĩnh vực tố tụng, để bảo đảm cho cơ quan nhà nước có thẩm quyền có điều kiện phát hiện và xử lý tội phạm vì lợi ích chung của toàn xã hội, cộng đồng và của người khác, pháp luật tố tụng hình sự có một số quy định hạn chế quyền con người, nhất là của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Tuy nhiên, các biện pháp đó chỉ được giới hạn ở mức cần và đủ để đạt được mục đích chung; đồng thời trong những trường hợp này, pháp luật cũng phải quy định các điều kiện và thủ tục áp dụng chặt chẽ, rõ ràng để tránh sự lạm dụng của người có thẩm quyền.

Đối với người bị buộc tội nói chung, của bị cáo nói riêng, các quyền chủ yếu được ghi nhận là:

(1) Quyền bào chữa. Người bị buộc tội có quyền tự bào chữa và quyền có người bào chữa. Các cơ quan, người tiến hành tố tụng có nghĩa vụ bảo đảm để người bị buộc tội thực hiện quyền bào chữa. Các quyền tố tụng của bị cáo như được biết mình bị truy tố về tội gì, được tham gia xét hỏi tại phiên tòa, được tranh luận… là những bảo đảm quan trọng để bị cáo thực hiện quyền bào chữa của mình.

(2) Quyền được suy đoán vô tội. Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi có bản án kết tội của tòa án có hiệu lực pháp luật và được chứng minh theo trình tự, thủ tục luật định. Nguyên tắc bảo đảm quyền được suy đoán vô tội là một trong những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự; nhất là trong hoạt động của cơ quan, người tiến hành tố tụng để hạn chế vi phạm quyền con người của người bị buộc tội trước khi bị kết án.

(3) Quyền im lặng. Khai báo trước phiên toà là quyền, chứ không phải là nghĩa vụ của người bị buộc tội. Trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử, người bị buộc tội có quyền chứng minh là mình vô tội; có quyền không khai báo chống lại mình. Thành khẩn khai báo là tình tiết giảm nhẹ trong quyết định hình phạt; những điều đó không có nghĩa rằng không khai báo, khai báo không thành khẩn là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.

Không ngẫu nhiên mà Bộ luật Hình sự không quy định trách nhiệm pháp lý đối với hành vi từ chối khai báo hoặc hành vi cố ý khai báo sai sự thật của người bị buộc tội. Đây là bảo đảm pháp lý quan trọng cho việc thực hiện quyền im lặng của người bị buộc tội.

(4) Quyền không bị kết án hai lần về một tội phạm. Không ai bị kết án hai lần về một tội phạm. Bất kỳ hành vi nào đã bị tòa án phán quyết bằng một bản án, quyết định có hiệu lực pháp luật, thì người thực hiện hành vi đó không bị truy cứu trách nhiệm hình sự lần nữa về hành vi đó. Điều đó có nghĩa rằng, đối với hành vi mà vụ án được đình chỉ trong giai đoạn trước khi có phán quyết của hội đồng xét xử thì hoàn toàn có thể được phục hồi để điều tra, truy tố và xét xử. Điều đó không vi phạm quyền không bị kết án hai lần…

Ngoài các quyền cơ bản quan trọng trên, có thể nói các quyền tố tụng khác của bị cáo được quy định chủ yếu là các bảo đảm pháp lý để các quyền trên được thực hiện trên thực tế.

Ba là, quy định các thủ tục tố tụng hình sự không chỉ để xác định chính xác, khách quan các tình tiết của vụ án, mà còn bảo đảm để người tham gia tố tụng thực hiện đầy đủ các quyền tố tụng, cơ quan và người tiến hành tố tụng thực hiện các nghĩa vụ tố tụng; quy định đầy đủ, chặt chẽ các căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng và thủ tục áp dụng, bảo đảm hạn chế đến mức thấp nhất việc áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng đối với bị cáo. Thủ tục tố tụng bảo đảm tranh tụng, bảo đảm để bị cáo thực hiện đầy đủ quyền tố tụng của mình, bảo đảm xét xử công bằng, khách quan, không thiên vị… là bảo đảm quan trọng cho việc thực hiện quyền của bị cáo.

Bốn là, quy định các bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện các quyền của bị cáo. Trong nhà nước pháp quyền, việc pháp luật quy định quyền con người là cần thiết nhưng chưa đủ. Để quyền con người được thực hiện trên thực tế, pháp luật phải quy định hệ thống các bảo đảm pháp lý cho việc thực hiện các quyền đó. Các bảo đảm này liên quan đến nhiều yếu tố khác nhau như nguyên tắc tố tụng trong việc bảo vệ quyền con người, căn cứ, điều kiện áp dụng các biện pháp hạn chế quyền con người, thẩm quyền áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng, các thủ tục tố tụng liên quan đến quyền con người…

Năm là, quy định việc xử lý các vi phạm quyền con người. Pháp luật nước ta ở các mức độ khác nhau quy định về việc xử lý các vi phạm quyền con người. Tùy theo tính chất và mức độ vi phạm, pháp luật quy định các biện pháp pháp lý tương ứng như xử lý kỷ luật, xử phạt hành chính, buộc phải bồi thường và cao nhất là trách nhiệm hình sự đối với người vi phạm.

Đồng thời với các biện pháp xử lý trên, quy định và thực hiện các chế tài tố tụng cũng có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo vệ quyền con người trong tố tụng hình sự. Trong tố tụng, các vi phạm hạn chế các quyền của bị cáo thông thường được coi là các vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng và là một trong những căn cứ mà cơ quan tố tụng có thẩm quyền hủy bỏ kết quả hoạt động tố tụng trước đó để tiến hành lại hoặc buộc phải tiến hành các hoạt động tố tụng bổ sung (2).

Một vấn đề cần đặc biệt lưu ý trong hoạt động lập pháp về quyền của bị cáo là cần xem xét tiếp thu các quy định của pháp luật quốc tế về quyền bị cáo trong xét xử mà Việt Nam tham gia. Đó là các công ước như: Công ước về quyền dân sự, chính trị; Công ước về quyền kinh tế - xã hội và văn hóa; Công ước quyền trẻ em; Công ước xóa bỏ các hình thức phân biệt đối xử đối với phụ nữ, các công ước về chống phân biệt chủng tộc, trừng trị tội diệt chủng, tội Apacthai, Quy chế Rome về Tòa án hình sự quốc tế, Công ước chống tra tấn… (3)

Các biện pháp liên quan đến chế độ trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng trong việc bảo vệ các quyền con người nói chung, của bị cáo nói riêng

Xác định mối quan hệ giữa nhà nước với công dân có vai trò rất quan trọng trong việc tôn trọng và bảo vệ các quyền con người. Một điểm có ý nghĩa quan trọng trong giải quyết vấn đề này là trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong các hoạt động tố tụng hình sự.

Lâu nay chúng ta thường quen với tình trạng trong khi thực hiện công vụ được giao, cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng được quy định quyền nhiều hơn nghĩa vụ, trách nhiệm; còn người tham gia tố tụng thì quy định nghĩa vụ nhiều hơn quyền tố tụng. Trong BLTTHS, quyền hạn tố tụng của cơ quan, người tiến hành tố tụng được quy định tương đối chi tiết, còn trách nhiệm thì được quy định rất sơ sài, chung chung; còn đối với người tham gia tố tụng thì ngược lại, quyền tố tụng được quy định tương đối hạn chế, còn nghĩa vụ thì được quy định cụ thể, chi tiết (4). Địa vị tố tụng không phù hợp đó dẫn đến tình trạng cửa quyền, hách dịch quan liêu và xâm phạm quyền con người.

Trong mối quan hệ giữa nhà nước và công dân, quyền của công dân làm phát sinh nghĩa vụ tương ứng của nhà nước mà cơ quan, người có thẩm quyền có trách nhiệm thực hiện. Tình trạng người tiến hành tố tụng đùn đẩy trách nhiệm cho công dân trong khi thi hành công vụ là khá phổ biến hiện nay. Điều đó không chỉ vi phạm quyền tố tụng, mà còn làm giảm hiệu lực hoạt động của nhà nước.

Vì vậy, để bảo đảm cho người tham gia tố tụng thực hiện quyền của mình, cần xây dựng một chế độ trách nhiệm rõ ràng, cụ thể, minh bạch của cơ quan, người tiến hành tố tụng trong điều tra, truy tố, xét xử. Trong các chế độ trách nhiệm đó, không chỉ quy định cơ quan, người tiến hành tố tụng được làm gì, phải làm gì trong hoạt động tố tụng, mà còn quy định các chế tài đối với các vi phạm đó.

Các biện pháp xử lý vi phạm quyền của người tham gia tố tụng trong tố tụng hình sự

Một trong những bảo đảm quan trọng cho việc bảo đảm các quyền con ng¬ười là việc phát hiện kịp thời, xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm các quyền đó. Liên quan đến việc xử lý các vi phạm quyền con người bao gồm các biện pháp: a) Quy định cụ thể các hành vi vi phạm và chế tài đối với hành vi đó; b) Tổ chức xử lý các hành vi vi phạm quyền con người; c) Tổ chức thi hành các quyết định xử lý vi phạm của các cơ quan có thẩm quyền; trong đó bao gồm cả thi hành các biện pháp xử phạt được quyết định, phục hồi quyền, lợi ích hoặc bồi thường thiệt hại cho công dân và cả phục hồi các hoạt động tố tụng mà trong quá trình tố tụng, quyền con người của người tham gia tố tụng bị xâm phạm.

Tùy theo tính chất, mức độ vi phạm, các biện pháp xử lý bao gồm:

- Xử lý kỷ luật đối với người tiến hành tố tụng;

- Bồi thường thiệt hại và phục hồi quyền, lợi ích bị xâm hại theo Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước;

- Truy cứu trách nhiệm hình sự đối với các hành vi vi phạm nghiêm trọng quyền con ngư¬ời đư¬ợc Bộ luật hình sự quy định là tội phạm;

- Các biện pháp tố tụng xử lý việc vi phạm quyền con người trong tố tụng hình sự như thay đổi người tiến hành tố tụng, hủy bỏ kết quả và phục hồi hoạt động tố tụng có vi phạm…

Việc xử lý nghiêm minh, có hiệu quả các vi phạm quyền con người đòi hỏi một cơ chế tố tụng cụ thể, công khai, khách quan. Hiện nay, việc xử lý các vi phạm quyền con người được thực hiện bằng biện pháp tổ chức, bằng thủ tục hành chính và bằng thủ tục tố tụng tư pháp. Trong đó, theo chúng tôi, việc tiến hành xử lý các vi phạm theo thủ tục tố tụng tư pháp là có hiệu quả nhất, vì những lý do sau; (i) thủ tục tố tụng tư pháp bảo đảm cho hành vi được xác định chính xác, khách quan; (ii) việc xử lý được tiến hành công khai và có tính độc lập cao; (iii) trong thủ tục tố tụng tư pháp, công dân có đầy đủ điều kiện tố tụng để bảo vệ quyền và lợi ích của mình bị xâm phạm; (iv) các quyết định xử lý theo thủ tục tố tụng tư pháp có hiệu lực thi hành cao hơn… Vì vậy, mở rộng thẩm quyền của cơ quan tài phán là xu thế tất yếu trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay.

Các biện pháp bảo đảm quyền khiếu nại, tố cáo của người tham gia tố tụng đối với quyết định hoặc hành vi vi phạm quyền con người 

Trong hoạt động tố tụng hình sự, việc các cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng có những hành vi hoặc quyết định vi phạm quyền con người (bao gồm cả các quyền con người thông thường, kể cả các quyền tố tụng được quy định) là điều rất dễ xảy ra. Nếu không quy định cho người tham gia tố tụng quyền khiếu nại, tố cáo thì các vi phạm, nhất là các hành vi tố tụng vi phạm quyền con người rất khó được phát hiện và khắc phục.

Vì vậy, thực hiện đầy đủ quyền khiếu nại, tố cáo của người bị buộc tội là biện pháp bảo đảm quan trọng đối với việc bảo vệ quyền của họ trong tố tụng hình sự. Khiếu nại, tố cáo là những biện pháp quan trọng tạo điều kiện cho công dân phát hiện với cơ quan hoặc người có thẩm quyền các vi phạm quyền con người của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. 

Bằng cách giải quyết khiếu nại đối với các hành vi, quyết định trái pháp luật xâm phạm quyền, tố cáo đối với hành vi vi phạm quyền, Nhà nước không chỉ xử lý cơ quan, cá nhân vi phạm, mà quan trọng hơn nữa là chấm dứt hành vi vi phạm và phục hồi quyền hoặc lợi ích hợp pháp của người bị vi phạm.

Đồng thời, thực tiễn cũng chỉ ra rằng, khiếu nại, tố cáo của người tham gia tố tụng là một nguồn quan trọng để tòa án cấp trên giám đốc việc xét xử có hiệu quả đối với hoạt động xét xử của tòa án cấp dưới. Tuyệt đại đa số các vụ án bị kháng nghị theo trình tự giám đốc thẩm do có vi phạm pháp luật nghiêm trọng đều được thực hiện trên cơ sở khiếu nại của đương sự, nhất là của người bị kết án (5).

Một số vấn đề về thực tiễn bảo đảm quyền của bị cáo trong tố tụng hình sự ở nước ta

Quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự về quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị cáo

Trong tố tụng hình sự, bị cáo là người tham gia tố tụng có vị trí trung tâm trong quá trình giải quyết vụ án. Họ là người bị truy tố ra trước tòa án để xét xử về tội phạm được thực hiện. Việc xác định quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị cáo được thực hiện trên cơ sở bản chất tố tụng mà người đó tham gia vào quá trình tố tụng.

Theo Điều 61 BLTTHS, bị cáo là người hoặc pháp nhân thương mại đã bị tòa án quyết định đưa ra xét xử. Sau khi cơ quan điều tra kết thúc điều tra, thấy rằng có đủ chứng cứ để khẳng định rằng bị can đã phạm tội do Bộ luật Hình sự quy định thì đề nghị viện kiểm sát truy tố ra trước tòa án. Trong quá trình chuẩn bị xét xử, thẩm phán được phân công chủ tọa phiên tòa thấy rằng có đủ điều kiện để đưa vụ án ra xét xử mà không phải trả hồ sơ cho viện kiểm sát để điều tra bổ sung, không có căn cứ để đình chỉ hay tạm đình chỉ vụ án thì ra quyết định đưa vụ án ra xét xử. Từ thời điểm này, bị can trở thành bị cáo trong vụ án hình sự.

Cũng như bị can, bị cáo là người bị truy cứu trách nhiệm hình sự, bị buộc tội. Vì vậy, địa vị pháp lý, tình trạng của bị cáo cũng giống như bị can; có nghĩa là bị cáo cũng có khả năng bị áp dụng các biện pháp cưỡng chế tố tụng do BLTTHS quy định, có nguy cơ bị xâm phạm các quyền con người cao, đã có sự buộc tội chính thức nên cần có các quyền tương ứng để bào chữa, nên các biện pháp bảo vệ quyền con người đối với bị can, bị cáo cơ bản là giống nhau.

Tuy nhiên, một điểm khác biệt quan trọng giữa bị cáo và bị can là bị cáo tham gia tố tụng trong một cơ chế tố tụng hoàn chỉnh, đầy đủ những người tham gia tố tụng, các cơ quan, người tiến hành tố tụng với chức năng buộc tội, bào chữa, xét xử; thực hiện các quyền tố tụng của mình trong phiên tòa công khai, dân chủ và bình đẳng. Rõ ràng, so với bị can tham gia tố tụng (nhất là hỏi cung) trong môi trường chỉ có người buộc tội, (trường hợp cá biệt mới có người bào chữa, người chứng kiến), bị cáo tham gia tố tụng trong phiên tòa công khai, không chỉ có mặt những người tham gia tố tụng, mà còn có sự chứng kiến của công chúng. Trong quá trình xét xử, người tiến hành tố tụng khó có khả năng sử dụng các biện pháp trái pháp luật, vi phạm quyền con người của bị cáo (như đe dọa bức cung, dùng nhục hình, mua chuộc nhận tội…); trong khi đó, đối với bị can thì tình trạng này dễ xảy ra hơn. Không ngẫu nhiên mà nhiều luật sư bào chữa bức xúc cho rằng trong giai đoạn điều tra, cơ quan điều tra thường xuyên gây khó khăn cho người bào chữa tham gia hỏi cung bị can và các hoạt động tố tụng khác. Trong nhiều phiên tòa, kháng cáo phúc thẩm, khiếu nại giám đốc thẩm của mình, bị cáo thường tố cáo người tiến hành tố tụng bức cung, dùng nhục hình để bị cáo nhận tội, gây nên tình trạng oan sai trong xét xử vụ án hình sự. Trên thực tế, không ít trường hợp sự thật đó đã được chứng minh.

Quyền của bị cáo được quy định tại khoản 2 Điều 61 BLTTHS. Theo điều luật thì bị cáo có các quyền: được nhận các quyết định tố tụng; tham gia phiên tòa; được giải thích về quyền và nghĩa vụ; đề nghị thay đổi người tiến hành tố tụng, người giám định, người phiên dịch; đưa ra tài liệu, đồ vật, yêu cầu; tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa; trực tiếp tham gia tranh tụng; quyền được hỏi người khác, thậm chí đối chất với điều tra viên; không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình; kháng cáo bản án, quyết định của tòa án; khiếu nại quyết định, hành vi tố tụng của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng…

Bộ luật Tố tụng Hình sự 2015 đã bổ sung một số quyền quan trọng cho bị cáo như quyền không buộc phải đưa ra lời khai chống lại chính mình (mà không bị đánh giá là ngoan cố, thiếu thành thật…); quyền chứng minh sự vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như quyền đối chất, quyền hỏi người tham gia tố tụng khác... Đối với quyền bào chữa, pháp luật không chỉ quy định quyền tự bào chữa hoặc nhờ người khác bào chữa, mà còn cả quyền được cử người bào chữa trong những trường hợp pháp luật quy định.

Bảo đảm thực hiện quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị cáo trong thực tiễn xét xử

Những ưu điểm:

Các quy định của BLTTHS là cơ sở pháp lý quan trọng cho việc tôn trọng và bảo vệ cũng như bảo đảm thực hiện các quyền và nghĩa vụ tố tụng của bị cáo trong thực tiễn xét xử ở nước ta thời gian qua. Phải nói rằng, nhìn chung các cơ quan tiến hành tố tụng đã quán triệt và thực hiện tốt các quy định của BLTTHS trong việc bảo đảm cho bị cáo thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình:

- Trước hết, các quyền con người cơ bản của bị cáo (như quyền bất khả xâm phạm về thân thể; quyền được bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản; quyền bình đẳng trước pháp luật, trước tòa án...) đã được bảo đảm thực hiện tốt từ phía các cơ quan, người tiến hành tố tụng. Các vi phạm trong tố tụng hình sự dần được khắc phục;

- Các quyền, nghĩa vụ tố tụng của bị cáo quy định trong BLTTHS được tôn trọng và cơ bản được bảo đảm thực hiện đầy đủ. Bị cáo được giải thích quyền và nghĩa vụ; được nhận bản cáo trạng, quyết định đưa ra vụ án ra xét xử; được bảo đảm tham gia tố tụng, tham gia xét hỏi, đưa ra tài liệu, chứng cứ và các yêu cầu; bảo đảm thực hiện các quyền tố tụng của mình tại phiên tòa với tính tranh tụng ngày càng cao.

Đặc biệt, quyền bào chữa của bị cáo được thực hiện tương đối tốt. Tỉ lệ các bị cáo có người bào chữa tham gia ngày càng cao; tòa án đã chú trọng yêu cầu các đoàn Luật sư cử người bào chữa trong những trường hợp luật định. Quyền của người bào chữa được tôn trọng; tòa án đã tạo điều kiện để người bào chữa thực hiện nhiệm vụ của mình. Chất lượng bào chữa ngày càng được nâng cao, đã thực sự góp phần vào việc giải quyết đúng đắn, khách quan vụ án, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của bị cáo…

Quyền khiếu nại trong tố tụng hình sự, nhất là quyền khiếu nại của bị cáo đã được tôn trọng. Hàng năm, tòa án các cấp đã nhận được số lượng rất lớn, ngày càng tăng các khiếu nại tư pháp. Ngoài yêu cầu giám đốc thẩm, các khiếu nại đã được các cơ quan tư pháp có thẩm quyền giải quyết cơ bản là thỏa đáng.

Những hạn chế:

Cùng với những ưu điểm trên, từ góc độ bảo đảm quyền con người của bị cáo, theo chúng tôi, việc thực hiện các thủ tục tố tụng trong giải quyết vụ án hình sự còn có những điểm hạn chế và bất cập sau đây:

Thứ nhất, vẫn còn những trường hợp truy cứu trách nhiệm hình sự người không có tội hoặc chưa đến mức chịu trách nhiệm hình sự; tòa án kết tội oan người không có tội hoặc kết tội nặng hơn tội mà bị cáo thực hiện trên thực tế.

Thứ hai, còn có những vi phạm trong bảo đảm quyền bào chữa của bị cáo, nhất là quyền được nhờ người khác bào chữa. Vi phạm quyền bào chữa của bị can, bị cáo là vi phạm thủ tục tố tụng nghiêm trọng. Vi phạm này thể hiện cụ thể ở nhiều dạng khác nhau như:

- Mặc dù BLTTHS đã quy định quyền thu thập chứng cứ của người bào chữa, nhưng lại không quy định trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ đó; cho nên, người bào chữa rất khó khăn trong việc thu thập chứng cứ nói riêng, chứng minh nói chung;

- Cơ quan điều tra, VKS không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can người chưa thành niên, cho bị can bị khởi tố, truy tố về tội có khung hình phạt 20 năm tù, tù chung thân hoặc tử hình;

- Cơ quan tiến hành tố tụng từ chối yêu cầu cử người bào chữa không đúng pháp luật. Có thẩm phán thuyết phục bị can, bị cáo lập biên bản từ chối người bào chữa trong một số trường hợp thuộc khoản 1 Điều 76 BLTTHS. Có trường hợp tòa án không yêu cầu cử người bào chữa cho bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi khi chỉ một mình người đó từ chối là không đúng pháp luật. Theo quy định của khoản 3 Điều 77 BLTTHS thì trong trường hợp bắt buộc phải có người bào chữa, thì chỉ khi nào cả bị can, bị cáo và đại diện của bị can, bị cáo cùng từ chối người bào chữa thì tòa án mới không yêu cầu cử người bào chữa trong vụ án; nếu chỉ bị can, bị cáo hoặc chỉ người đại diện  của bị can, bị cáo từ chối thì tòa án vẫn phải yêu cầu cử người bào chữa trong vụ án;

- Việc xét xử vắng mặt người bào chữa cũng đang gặp những vướng mắc. khoản 1 Điều 291 BLTTHS quy định “nếu người bào chữa vắng mặt vì lý do bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan thì tòa án hoãn phiên tòa xét xử”. Tuy nhiên, thế nào là lý do bất khả kháng, trở ngại khách quan thì chưa được nhận thức thống nhất.

Đồng thời, khoản 2 Điều 291 BLTTHS quy định trong những trường hợp người bào chữa được chỉ định, nhưng nếu bị cáo hoặc người đại diện (tức một trong hai người) đồng ý thì tòa án có thể xét xử vắng mặt người bào chữa. Quy định này của BLTTHS mâu thuẫn với quy định tại khoản 3 Điều 77 là cả bị can, bị cáo và người đại diện cùng từ chối thì việc xét xử mới không cần có người bào chữa.

Thứ ba, thủ tục phiên tòa vẫn còn những quy định hạn chế hoặc không bảo đảm cho việc việc thực hiện quyền tố tụng của bị cáo. Những vi phạm phổ biến là:

- Giải thích quyền và nghĩa vụ tố tụng cho những người tham gia tố tụng chưa đầy đủ hoặc không rõ ràng. Việc bảo đảm cho bị cáo thực hiện quyền tố tụng của mình, nhất là quyền yêu cầu, quyền xét hỏi, quyền tranh luận… nhiều trường hợp còn mang tính hình thức;

- Trong xét hỏi chưa tạo điều kiện cho bị cáo trình bày hết ý kiến của mình về các tình tiết của vụ án; vẫn còn những trường hợp mớm cung, dụ cung; tỏ thái độ không vừa lòng khi bị cáo khai báo không theo ý thẩm phán. Đặc biệt, do việc điều hành của chủ tọa phiên tòa, các bị cáo rất ít thực hiện quyền xét hỏi tại phiên tòa. Các tài liệu, chứng cứ dùng làm căn cứ cho việc ra bản án, quyết định chưa được công bố công khai tại phiên tòa nên người tham gia tố tụng không được biết để trình bày ý kiến của mình về các tài liệu, chứng cứ đó nhằm bảo vệ lợi ích của mình. Các tòa án còn lúng túng trong việc xét hỏi do BLTTHS không quy định cụ thể trình tự được xét hỏi, cho rằng trình tự xét hỏi cũng như cũ…;

-Trong tranh luận vẫn có những trường hợp chủ tọa phiên tòa chưa phát huy được tinh thần tranh tụng dân chủ tại phiên tòa như hạn chế thời gian trình bày ý kiến của bị cáo, người bào chữa; chưa hướng dẫn, động viên bị cáo thực hiện việc tranh luận để bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của mình; chưa yêu cầu kiểm sát viên tranh luận, đối đáp với tất cả ý kiến của người tham gia tố tụng;

- Văn hóa tố tụng, nhất là tại phiên tòa xét xử vẫn còn nhiều hạn chế. Cách xưng hô thiếu thống nhất, thậm chí nhiều trường hợp còn xâm phạm nhân phẩm, danh dự của bị cáo; thái độ hách dịch, coi thường người tham gia tố tụng của người tiến hành tố tụng, nhất là kiểm sát viên vẫn tồn tại…;

Thứ tư, nhiều trường hợp do pháp luật chưa quy định hoặc quy định thiếu rõ ràng dẫn đến những kết quả tố tụng bất lợi, thậm chí gây thiệt hại cho người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Ví dụ:

- Thủ tục rút gọn là một trong những chế định tố tụng hình sự có ý nghĩa thực tiễn quan trọng giúp cho việc giải quyết nhanh gọn vụ án, bảo đảm quyền được giải quyết nhanh vụ án của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo, tiết kiệm chi phí tố tụng… Thế nhưng trên thực tế, thủ tục này rất ít được áp dụng. Chúng tôi cho rằng một trong những lý do ít áp dụng đó là việc BLTTHS không quy định yêu cầu hoặc ít nhất là sự đồng ý của bị can, bị cáo là một trong những điều kiện để áp dụng thủ tục này nên cơ quan có thẩm quyền (viện kiểm sát) ngại áp dụng do sợ bị khiếu nại;

- Do BLTTHS không quy định thủ tục nhận tội, trong khi đó Bộ luật Hình sự không quy định nhận tội như một trường hợp giảm nhẹ trách nhiệm hình sự đặc biệt (chỉ là một trong những tình tiết giảm nhẹ thông thường), cho nên người phạm tội đã không có “cơ hội” để thể hiện sự ăn năn hối cải, trách nhiệm bồi thường, phục hồi quan hệ xã hội bị xâm hại, tiết kiệm chi phí, thời gian, công sức cho hoạt động tố tụng, nâng cao hiệu quả hoạt động tố tụng;

- Mặc dù BLTTHS có quy định quyền của bị cáo, nhưng lại không quy định cụ thể trách nhiệm của cơ quan, người tiến hành tố tụng bảo đảm thực hiện các quyền đó và chế tài của các vi phạm, cho nên các vi phạm đó từ phía cơ quan, người tiến hành tố tụng chậm được khắc phục… 

Kiến nghị hoàn thiện các quy định của Bộ luật Tố tụng Hình sự nhằm bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo

Trên cơ sở những quan điểm lý luận, phân tích các quy định của BLTTHS hiện hành với những bất cập của nó, nghiên cứu thực tiễn tố tụng và tham khảo pháp luật tố tụng hình sự quốc tế, để đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền và cải cách tư pháp hiện nay ở nước ta, việc hoàn thiện các quy định của BLTTHS để tạo cơ sở pháp lý bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự là một yêu cầu cấp thiết.

Theo chúng tôi, cần hướng dẫn thực hiện các quy định của BLTTHS nhằm bảo đảm quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo theo các hướng sau đây:

Một là, hướng dẫn nhận thức và thực hiện các nguyên tắc tố tụng liên quan đến bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự như nguyên tắc suy đoán vô tội, nguyên tắc xác định sự thật của vụ án; nguyên tắc tranh tụng, tăng cường yếu tố tranh tụng trong mô hình tố tụng xét hỏi là bảo đảm quan trọng cho việc giải quyết vụ án được đúng đắn, khách quan trên cơ sở bảo đảm tốt nhất quyền con người của người tham gia tố tụng, nhất là của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo.

Hai là, hoàn thiện các quy định về quyền và nghĩa vụ của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo. Hướng dẫn bảo đảm thực hiện một số quyền quan trọng của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo như quyền im lặng và không coi sự im lặng như là thái độ thiếu thiện chí của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo; quyền được thông báo việc buộc tội và chứng cứ buộc tội; quyền được thu thập chứng cứ, chứng minh, được xét hỏi, đối chất với người làm chứng, người bị hại và người tham gia tố tụng khác trong quá trình điều tra cũng như tại phiên tòa…

Ba là, mở rộng phạm vi người bào chữa để có thể thu hút được một số lượng lớn những người có trình độ chuyên môn làm người bào chữa tham gia tố tụng hình sự. Không nên quy định người bào chữa đối với người bị tạm giữ và như vậy thủ tục người bị tạm giữ nhờ người bảo vệ quyền lợi cho mình sẽ đơn giản hơn trong bối cảnh hạn chế về thời hạn tạm giữ.

Bốn là, hoàn thiện thủ tục rút gọn; coi yêu cầu hoặc sự đồng ý của bị can, bị cáo như là một trong những điều kiện để áp dụng thủ tục rút gọn trong tố tụng hình sự.

Năm là, bổ sung thủ tục nhận tội trong tố tụng hình sự. Đồng thời trong Bộ luật Hình sự cũng cần bổ sung quy định nhận tội là tình tiết giảm nhẹ đặc biệt, giảm nhẹ đáng kể trách nhiệm hình sự.

Sáu là, để bảo đảm thực hiện tốt quyền con người của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo trong tố tụng hình sự, theo chúng tôi, cùng với việc bổ sung, hoàn thiện các quy định về quyền, nghĩa vụ của họ, cần hoàn thiện các quy định sau đây: quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng và các quy định khác về mặt tổ chức… nhằm bảo đảm để các quy định đó được thực hiện nghiêm túc trên thực tế; quy định về các chế tài tố tụng cũng như kỷ luật áp dụng trong trường hợp các quy định về quyền của người bị tạm giữ, bị can, bị cáo bị vi phạm.

[1] GS. TS Đào Trí Úc, Hệ thống những nguyên tắc cơ bản của tố tụng hình sự Việt Nam theo Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, trong sách “Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015”, Nxb Chính trị quốc gia, 2016, trang 54-85.

[2] PGS. TS Nguyễn Thái Phúc, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Kỷ yếu Hội thảo quốc tế về quyền con người trong tố tụng hình sự, VKSNDTC - Uỷ ban Nhân quyền Australia, tháng 3/2010, trang 20-30.

[3] PGS. TS Trần Văn Độ, Bảo đảm quyền con người trong tố tụng hình sự - Khái quát các tiêu chuẩn quốc tế và pháp luật Việt Nam, trong sách “Bảo đảm quyền con người trong hoạt động tố tụng”, Chủ biên Vũ Công Giao, Đinh Ngọc Thắng, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, 2018, tr 91-93.

[4] Xem: Phạm Hồng Hải, Hoàn thiện các quy định về bị can, bị cáo trong BLTTHS, Tạp chí Kiểm sát, số 01/2009, tr 41.

[5] Xem thêm, PGS.TS Nguyễn Hoà Bình (Chủ biên), Những nội dung mới trong Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2016.

PGS. TS. TRẦN VĂN ĐỘ

Nguyên Phó chánh án TAND tối cao

Quy định của pháp luật Việt Nam và một số nước trên thế giới về xử lý hành vi vi phạm về phòng, chống dịch bệnh

Admin