Ảnh minh họa.
Dưới góc độ pháp lý, theo Tiến sĩ, Luật sư Đặng Văn Cường, Trưởng Văn phòng Luật sư Chính pháp cho biết, tại Điều 4 Thông tư 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định rõ Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án quyết định mức tiền cụ thể mà bị can, bị cáo phải đặt để bảo đảm, nhưng không dưới:
- 30.000.000 đồng đối với tội phạm ít nghiêm trọng;
- 100.000.000 đồng đối với tội phạm nghiêm trọng;
- 200.000.000 đồng đối với tội phạm rất nghiêm trọng;
- 300.000.000 đồng đối với tội phạm đặc biệt nghiêm trọng.
Tuy nhiên trong một số trường hợp Cơ quan điều tra, Viện Kiểm sát, Tòa án có thể quyết định mức tiền phải đặt để bảo đảm thấp hơn nhưng không dưới một phần hai (1/2) mức tương ứng như:
- Bị can, bị cáo là thương binh, bệnh binh, là người được tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân; Anh hùng lao động, Nhà giáo nhân dân; Thầy thuốc nhân dân; hoặc được tặng Huân chương; Huy chương kháng chiến; các danh hiệu Dũng sĩ trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước;
- Là con đẻ, con nuôi hợp pháp của liệt sĩ; bà mẹ Việt Nam anh hùng, của gia đình được tặng bằng “Gia đình có công với nước”;
- Là người dưới 18 tuổi; người có nhược điểm về tâm thần; hoặc thể chất.
Luật sư Cường cho biết: "Cần lưu ý khi nộp tiền để tại ngoại phải nộp công khai vào tài khoản mở tại Kho bạc Nhà nước để bảo đảm cho việc chấp hành quy định trong thời gian cấm đi khỏi nơi cư trú, chứ không phải là khoản tiền tiêu cực, đưa tay cho người có chức vụ quyền hạn".
Điều 5 Thông tư số 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC quy định về quản lý tiền đặt để bảo đảm. Theo đó, tiền được đặt để bảo đảm trong giai đoạn điều tra, truy tố được quản lý trong tài khoản tạm giữ của Cơ quan điều tra có thẩm quyền tiến hành tố tụng đối với vụ án tại Kho bạc Nhà nước. Tiền được đặt để bảo đảm trong giai đoạn xét xử được quản lý trong tài khoản tạm giữ của Tòa án nhân dân nơi có thẩm quyền xét xử sơ thẩm tại Kho bạc Nhà nước. Tiền được đặt để bảo đảm theo quyết định của Cơ quan điều tra trong quân đội, Viện Kiểm sát quân sự, Tòa án quân sự được quản lý tại cơ quan tài chính tương ứng trong Quân đội.
Kho bạc Nhà nước, cơ quan tài chính trong Quân đội có trách nhiệm:
- Tiếp nhận và quản lý tiền được đặt để bảo đảm theo hướng dẫn tại Thông tư liên tịch này và các quy định của pháp luật khác có liên quan;
- Trả lại tiền được đặt để bảo đảm cho bị can, bị cáo, người được bị can, bị cáo ủy quyền, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất theo hướng dẫn của Thông tư liên tịch này;
- Phối hợp chặt chẽ với cơ quan ra quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm và tạo điều kiện thuận lợi cho việc giao nhận tiền được đặt để bảo đảm.
Thông tư này cũng quy định bị can, bị cáo, người thân thích của bị can, bị cáo hoặc người đại diện của bị can, bị cáo là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất có quyền đề nghị bằng văn bản với cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án về việc áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo trừ trường hợp quy định tại khoản 2 Điều 7 Thông tư liên tịch này.
Đơn đề nghị của bị can, bị cáo, được gửi qua cơ sở giam giữ hoặc gửi trực tiếp cho cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án. Trong thời hạn 01 ngày làm việc kể từ khi nhận được đơn đề nghị của bị can, bị cáo, cơ sở giam giữ có trách nhiệm chuyển đến cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án. Đơn đề nghị của người thân thích, người đại diện của bị can, bị cáo được gửi trực tiếp đến cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án.
Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ khi nhận được đơn đề nghị và các giấy tờ có liên quan, cơ quan tiến hành tố tụng đang thụ lý vụ án có trách nhiệm xem xét, nếu thấy có đủ điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm theo quy định thì ra Thông báo cho bị can, bị cáo, người thân thích hoặc người đại diện của bị can, bị cáo theo Mẫu số 04 ban hành kèm theo Thông tư liên tịch này để làm thủ tục đặt tiền để bảo đảm.
Trường hợp thấy không đủ điều kiện áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm đối với bị can, bị cáo thì phải thông báo bằng văn bản cho người đề nghị biết trong đó nêu rõ lý do.
Căn cứ vào tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, tình trạng tài sản, nhân thân của bị can, bị cáo; bị can, bị cáo có nơi cư trú rõ ràng, phạm tội lần đầu, tố giác đồng phạm, có tình tiết giảm nhẹ (như tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, lập công chuộc tội, tích cực hợp tác với cơ quan có trách nhiệm trong việc phát hiện tội phạm hoặc trong quá trình giải quyết vụ án, ăn năn hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại...). Việc cho bị can, bị cáo tại ngoại không gây khó khăn cho việc điều tra, truy tố, xét xử, thi hành án thì cơ quan tiến hành tố tụng có thể quyết định áp dụng biện pháp đặt tiền để bảo đảm trừ các trường hợp sau:
- Bị can, bị cáo dùng thủ đoạn xảo quyệt, phạm tội có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng;
- Bị can, bị cáo là người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm, tái phạm nguy hiểm;
- Bị tạm giam trong trường hợp bị bắt theo lệnh, quyết định truy nã;
- Phạm nhiều tội;
- Phạm tội nhiều lần.
Như vậy, việc đưa ra yêu cầu đề nghị thay đổi biện pháp ngăn chặn là quyền của bị can và người thân của bị can, yêu cầu này có được cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận hay không thì phải căn cứ vào quy định của pháp luật. Trong đó những trường hợp người phạm tội rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng nhưng có căn cứ cho thấy bị can thả ra sẽ tiếp tục phạm tội, có thể bỏ trốn, có thể cản trở hoạt động điều tra thì sẽ không được thay đổi biện pháp ngăn chặn.
Điều 7 Thông tư 06/2018/TTLT-BCA-BQP-BTC-VKSNDTC-TANDTC cũng quy định rõ rõ trường hợp bị can phạm tội nhiều lần cũng không được áp dụng biện pháp ngăn chặn là đặt tiền để đảm bảo.
DUY ANH