/ Trao đổi - Ý kiến
/ Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dựng tại các Tòa án trên địa bàn TP. Hà Nội

Biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và thực tiễn áp dựng tại các Tòa án trên địa bàn TP. Hà Nội

21/04/2023 12:16 |

(LSVN) - Trong giai đoạn hiện nay, nhằm tăng cường hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong các vụ án dân sự là tư tưởng quan trọng của chiến lược cải cách tư pháp do Bộ Chính trị Trung ương ban hành. Tư tưởng này đã được thể chế hóa thành chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự năm 2015. Trong bài viết này, tác giả sẽ đề cập cụ thể đến chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự. Bên cạnh các quy định pháp luật, bài viết còn phân tích và đánh giá thực tiễn áp dụng tại các Tòa án trên địa bàn TP. Hà Nội nhằm hoàn thiện chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và nâng cao hiệu quả áp dụng tại các Tòa án ở Việt Nam.

 

Ảnh minh họa.

I. Đặt vấn đề

Trong quá trình phát triển của xã hội, các hoạt động của con người để tồn tại và phát triển rất đa dạng và phức tạp. Xuất phát từ mưu cầu lợi ích cá nhân không thể kiềm soát được trong quan hệ giữa người với người thường xuất hiện những hành động tranh quyền đoạt lợi, xâm phạm quyền và lợi ích người khác. Để nền kinh tế xã hội phát triển tốt, an ninh trật tự được đảm bảo, tạo được sự công bằng, dân chủ trong cuộc sống thì không thể thiếu sự can thiệp của Nhà nước thông qua hàng lang pháp lý. Mà cụ thể chính là các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm bảo vệ kịp thời quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự trong tố tụng dân sự. Hiện nay, việc hoàn thiện chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự và đưa ra giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng tại các Tòa án đang thu hút sự quan tâm của nhiều luật gia và những người hoạt động trong lĩnh vực pháp luật.

 

II. Cơ sở lý luận

2.1. Khái niệm biện pháp khẩn cấp tạm thời

Biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định trong  Bộ luật tố tụng dân sự là một chế định quan trọng, tác động trực tiếp đến quyền và lợi ích của người yêu cầu và người bị áp dụng. Chính vì vậy, Bộ luật tố tụng dân năm 2015 đã dành hẳn một chương riêng để quy định về các Biện pháp khẩn cấp tạm thời. Để hiểu và thực hiện tốt các quy định về Biện pháp khẩn cấp tạm thời, thì việc tìm hiểu xây dựng một khái niệm đầy đủ, hoàn chỉnh, thống nhất là cần thiết. Tuy nhiên, vấn đề này lại không đuọcq uy định cụ thể trong một điều luật nào. Mặc dù chưa có văn bản hướng dẫn hay điều khoản giải nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng trên thực tế cũng đã có khá nhiều những luôn quan điểm khác nhau xoay quanh vấn đề này và đều hướng tới có thể đưa ra một định nghĩa chính xác nhất cho biện pháp khẩn cấp tạm thời.  Ở quan điểm thứ nhất cho rằng “Biện pháp khẩn cấp tạm thời  là biện pháp do Tòa án quyết định áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự nhằm giải quyết nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo vệ bằng chứng, bảo toàn tài sản tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm việc thi hành án”[1]. Ở quan điểm thứ hai thì lại cho rằng “Biện pháp khẩn cấp tạm thời phải được hiểu là những biện pháp cụ thể mà Tòa án cần áp dụng để tạm thời giải quyết yêu cầu cấp bách của đương sự hoặc để bảo vệ bằng chứng bảo toàn tình trạng hiện có tránh gây thiệt hại không thể khắc phục được hoặc bảo đảm cho viêc thi hành án”. [2]Dựa trên tinh thần của hai nhóm quan điểm trên thì tác giả xin đưa ra một khái niệm thống nhất, ngắn gọn mà vẫn đảm bảo chứa đựng đầy đủ nội hàm của biện pháp khẩn cấp tạm thời như sau: “Biện pháp khẩn cấp tạm thời là biện pháp do Tòa án quyết định trong quá trình giải quyết vụ án dân sự nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của đương sự, bảo toàn, tình trạng tài sản, bảo vệ chứng cứ hoặc bảo đảm cho việc thi hành án”.

2.2. Đặc điểm của biện pháp khẩn cấp tạm thời

Các biện pháp hỗ trợ tạm thời có đặc thù là vừa mang tính khẩn cấp vừa mang tính tạm thời. Như vậy, so với các biện pháp khác của Tòa án áp dụng trong quá trình giải quyết vụ việc dân sự thì biện pháp khẩn cấp tạm thời có những đặc điểm khác biệt:

Tính khẩn cấp trong tố tụng của các biện pháp khẩn cấp tạm thời đòi hỏi Tòa án phải xem xét ra ngay quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời (trước hoặc trong bất kỳ giai đoạn nào của quá trình giải quyết vụ án khi yêu cầu của đương sự hoặc Tòa án quyết định) đồng thời biện pháp đó cũng phải được thi hành ngay.

Tính tạm thời trong tố tụng của biện pháp khẩn cấp tạm thời thể hiện ở chỗ, biện pháp khẩn cấp tạm thời chỉ được áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định có tính thời điểm. Quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không phải là quyết định cuối cùng để giải quyết một vụ án dân sự.

2.3. Ý nghĩa của biện pháp khẩn cấp tạm thời

Về phía Tòa án, do có xung đột về lợi ích trong vụ án nên các bên đương sự thường tìm cách tẩu tán tài sản, hủy hoại chứng cứ làm sai lệch nội dung vụ việc, gây khó khăn cho hoạt động xét xử của Tòa án. áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời do vậy sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho Tòa án trong việc giải quyết vụ án dân sự, bảo đảm khả năng thực thi của bản án, quyết định sau khi có hiệu lực.

Về phía đương sự, biện pháp khẩn cấp tạm thời là cơ chế pháp vì giúp đáp ứng yêu cầu của thực tiễn giải quyết tranh chấp dân sự - tính khẩn cấp, nhanh chóng và bảo đảm an toàn pháp lý cho các bên đương sự trong vụ án dân sự. Áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đúng và phù hợp sẽ bảo vệ được lợi ích cấp bách của đương sự trong trường hợp cần thiết: bảo vệ được tính mạng, sức khỏe; giữ lại được tài sản tranh chấp, tránh bị hủy hoại, tẩu tán nhầm ổn định cuộc sống của họ. quyền lợi và nghĩa vụ của các bên đương sự cũng được xác định phù hợp với pháp luật khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

2.4. Phân loại biên pháp khẩn cấp tạm thời

Dựa vào bản chất, mục đích của các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể phân loại thành 5 nhóm[3]: Các biện pháp khẩn cấp tạm thời buộc thực hiện trước một phần nghĩa vụ; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng đối với tài sản đang tranh chấp; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời phong tỏa tài sản, tài khoản; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm hoặc buộc thực hiện những hành vi nhất định; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do pháp luật quy định

Dựa vào tiêu chí chủ thể yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể phân thành 2 nhóm: biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án tự mình ra quyết định áp dụng trong trường hợp không có yêu cầu của cá nhân, cơ quan tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; biện pháp khẩn cấp tạm thời do Tòa án áp dụng bắt buộc phải có yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời;

Dựa vào đối tượng tác động của các biện pháp khẩn cấp tạm thời thì có thể phân thành 3 nhóm: Các biện pháp khẩn cấp tạm thời tác động đến quyền nhân thân; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời tác động đến tài sản, quyền tài sản; Các biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do pháp luật quy định;

Dựa vào đặc tính của biện pháp khẩn cấp tạm thời thì có thể phân loại thành 3 nhóm sau: Nhóm biện pháp buộc tạm ứng trước một số tiền nhằm đáp ứng nhu cầu cấp bách của dương sự; Nhóm biện pháp nhằm đảm bảo thi hành nghĩa vụ hoặc đảm bảo thi hành án; Nhóm biện pháp buộc thực hiện hoặc không thực hiện một công việc nhất định hoặc biện pháp khẩn cấp tạm thời khác nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.

III. Phương pháp nghiên cứu

Để có thể nghiên cứu một cách khoa học về vấn đề thực trạng quy định, kiến nghị hoàn thiện về chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Tố tụng dân sự. Đồng thời với vấn đề thực tiễn áp dụng, từ đó đưa ra giải pháp giúp nâng cao hiệu quả áp dụng tại các Tòa án tại Việt Nam. Bài viết này, tác giả đã sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

3.1. Phương pháp phân tích

- Phân tích nguồn tài liệu là các tạp chí, báo cáo khoa học, công trình nghiên cứu khoa học,…có nghiên cứu về chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời. Thông qua các nguồn tài liệu đó mà tác giả đã thu thập được những thông tin khoa học liên quan đến vấn đề nghiên cứu.

- Phân tích tác giả: Các tác giả trong hay ngoài ngành, tác giả đã từng áp dụng hay yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc tác giả chưa từng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời…đều được tác giả tham khảo quan điểm khoa học cũng như kết quả nghiên cứu của họ. Mỗi một góc nhìn riêng của từng tác giả về vấn đề nghiên cứu đã giúp tác giả có thể tiếp cận vấn đề nghiên cứu theo nhiều phương diện, từ đó có cái nhìn tổng thể, đa chiều về chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự.

- Phân tích nội dung: Phương pháp phân tích theo cấu trúc logic của nội dung vấn đề nghiên cứu giúp tác giả giả định hướng được các nội dung cơ bản, các vấn đề cần đề cập về đối tượng nghiên cứu : Các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như căn cứ áp dụng, thẩm quyền áp dụng, trình tự thủ tục áp dụng,…

3.2. Phương pháp tiếp thu, kế thừa

Trong suốt quá trình nghiên cứu, tác giả bài viết này đã dựa trên cơ sở các tài liệu chứa đựng thông tin khoa học, các quan điểm khoa học của các nhà khoa học trước đó để tiếp thu, kế thừa và phát triển có chọn lọc những nội dụng phù hợp của đề tài nghiên cứu.

3.3. Phương pháp tổng hợp

Tác giả bài viết sử dụng phương pháp tổng hợp để liên kết những mặt, những bộ phận, mối quan hệ thông tin từ các lý thuyết đã thu thập được thành một chỉnh thể thống nhất, từ đó tạo ra một hệ thống lý thuyết mới đầy đủ và sâu sắc về chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự Việt Nam.

Tổng hợp lý thuyết bao gồm những nội dung sau:

- Sau khi phân tích tài liệu, tác giả đã phát hiện thông tin còn thiếu, đã cũ hoặc còn sai lệch, chưa thống nhất.

- Lựa chọn tài liệu, chọn lọc ra những thông tin khoa học cần thiết để xây dựng luận cứ về vấn đề nghiên cứu.

- Sắp xếp tài liệu theo một logic phù hợp để nhận dạng động thái; sắp xếp tài liệu theo quan hệ nhân – quả để nhận dạng tương tác.

- Làm tái hiện quy luật. Đây là bước quan trọng nhất trong nghiên cứu tài liệu. Đây cũng chính là mục đích tiếp cận lịch sử.

- Giải thích quy luật. Công việc này đòi hỏi phải sử dụng các thao tác logic để đưa ra những phán đoán về bản chất các quy luật của sự vật hoặc hiện tượng.

3.3. Phương pháp thu thập số liệu

Tác giả bài viết sử dụng phương pháp thu thập số liệu từ thực tiễn áp dụng chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án trên địa bàn thành phố Hà Nội. Với phương pháp này, số liệu được thu thập bằng cách quan sát, theo dõi, thống kê hồ sơ vụ án trong giai đoạn từ năm 2017 đến năm 2022. Từ kết quả của sự thống kê có chọn lọc những vụ án dân sự trong các lĩnh vực như lao động, dân sự, hôn nhân – gia đình,…Tác giả có thể đưa ra được đánh giá toàn diện về hiệu quả áp dụng chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong vòng 5 năm qua. Để lấy đó làm nền tảng, làm cơ sở để đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án ở Việt Nam.

IV. Kết quả và thảo luận

4.1. Thực tiễn áp dụng chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự

Hiện nay, chế định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 đã được Hội đồng Thẩm phán Tòa án Nhân dân Tối cao hướng dẫn áp dụng bằng Nghị quyết 02/2022/NQ- HĐTP ngày 24/09/2020. Mặc dù đã làm rõ nhiều vấn đề hơn nhằm hướng tới tăng hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhưng tuy nhiên hướng dẫn trên vẫn chưa hướng dẫn cụ thể toàn bộ các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 mà chỉ hướng đẫn mội vài biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Hội đồng thẩm phán cho rằng gặp nhiều vướng mắc trên thực tế. Đây cũng là một trong các nguyên nhân dẫn đến hiệu quả việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong quá trình giải quyết vụ án dân sự chưa cao. Cụ thể hạn chế trong quy định như sau:

Thứ nhất, về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời: Theo quy định tại khoản 2 Điều 111 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 vẫn đi theo hướng ngay cả “trường hợp do tình thế khẩn cấp, cần phải bảo vệ ngay chứng cứ, ngắn chặn hậu quả nghiêm trọng có thể xảy ra” (trường hợp đặc biệt khẩn cấp) thì các chủ thể có quyền cũng chỉ có thể yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời “đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án đó.” Như vậy, sẽ không đảm bảo ý nghĩa về tính khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời đang hướng tới.

Thứ hai, về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Việc xác định thẩm phán được Chánh cán phân công thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời có đồng thời là Thẩm phán được phân công xem xét thụ lý và giải quyết vụ án hay không. Ngoài ra, điều này cũng chưa đề cập đến thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục rút gọn

Thứ ba, về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Theo quy định tại điều 113 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì chưa có quy định về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời đã được áp dụng. Ngoài ra, cũng chưa có quy định về trách nhiệm khi không áp dụng đúng thời hạn theo quy định của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng.

Thứ tư, về biện pháp kê biên tài sản tranh chấp. Theo quy định tại khoản 1 Điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 quy định điều kiện áp dụng là có căn cứ cho thấy người giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản. Với quy định này thì việc Tòa án chỉ có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời kê biên khi người gửi tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu án, hủy hoại tài sản có thể chưa thực sự hiệu quả trong việc bảo vệ lợi ích của đương sự hoặc bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án.

Thứ năm, về biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp. Căn cứ điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì cũng tương tự như điều 120 thì điều kiện để áp dụng biện pháp này là có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp cho người khác. Với quy định này thì Tòa án chỉ có quyền áp dụng khi người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch quyền có thể chưa thực sự hiệu quả trong việc bảo đảm cho việc xét xử cũng như thi hành án. 

Thứ sáu, về biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. Theo quy định tại điều 122 thì các xây dựng cũng tương tự như điều 120 và 121 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về điều kiện áp dụng là cần “có căn cứ cho thấy có hành vi..”. Điều 122 năm 2015 quy định áp dụng khi có căn cứ cho thấy người đang chiếm hữu hoặc gửi giữ tài sản đang tranh chấp cói hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó. Quy định như vậy sẽ không đảm bảo tính khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời và không thực sự đạt được hiệu quả trong việc bảo toàn tình trạng tài sản bảo đảm cho việc xét xử và thi hành án.

Thứ bảy, về việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm. Hiện nay, cả quy định tại điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 13 và Điều 14 Nghị quyết hướng dẫn số 02/2020.NQ- HĐTP ngày 24/9/2020. Việc quy định cũng như hướng dẫn về thực hiện biện pháp bảo đảm trong nhiều trường hợp sẽ khó bảo đảm tính hiệu quả của biện pháp khẩn cấp, không bảo đảm được quyền lợi chính đáng của nguyên đơn. Bị đơn có thể lợi dụng các quy định của pháp luật để chuyển dịch, thay đổi hiện trạng, tẩu tán tài sản, đặc biệt đối với các vụ án mà nguyên đơn là người nghèo không có tiền, kim khí quý, đá quý hoặc giấy tờ có giá để gửi vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng theo quy định.

Ngoài điểm hạn chế trong quy định của pháp luật tố tụng dân sự về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì bên cạnh đó còn có những bận cấp trong việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại Tòa án như sau:

Thứ nhất, bất cập trong việc áp dụng biện pháp “giao người chưa thành niên, người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục”. Việc áp dụng quy định này phát sinh vướng mắc trong trường hợp người chưa thành niên có người đại diện hợp pháp, người giám hộ nhưng họ đang do người không có quyền nuôi dưỡng chiếm giữ thì người có quyền nuôi dưỡng có được yêu cầu áp dụng Biện pháp khẩn cấp tạm thời này hay không.

Thứ hai, bất cập trong việc xác định Tòa án có thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch về tài sản. Nhiều Tòa án tại các địa phương vẫn còn lúng túng trong việc xác định thẩm quyền của Tòa án áp dụng biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản là đất đai. Theo đó, thẩm quyền của Tòa án theo lãnh thổ đối với bất động sản được xác định cụ thể “đối tượng tranh chấp là bất động sản thì chỉ Tòa án nơi có bất động sản có thẩm quyền giải quyết”. Tranh chấp liên quan đến bất động sản được hiểu là tranh chấp về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng dân sự hoặc giao dịch liên quan đến bất động sản như: mua bán, tặng cho, thừa kế, ủy quyền quản lý…Tiêu chí xác định một tranh chấp liên quan đến bất động sản được xác định nếu các bên tranh chấp với nhau về việc phải giao đất, giao nhà đã bán, đã cho thuê hay trả nhà đã thuê; hoặc một trong các bên yêu cầu hủy bỏ hợp đồng chuyển nhượng quyền sử dụng đất hoặc hợp đồng mua bán,…

4.2. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả áp dụng

Trên cơ sở những luận điểm về mặt lý luận, khó khăn và thực tiễn quy định cũng như áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời còn nhiều hạn chế và bất cập, tác giả xin được đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện chế định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 như sau:

Thứ nhất, về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.  Để khắc phục được hạn chế trong quy định về việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời đồng thời với việc nộp đơn khởi kiện cho Tòa án. Thì tác giả đề xuất việc quy định về quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự cần theo hướng áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời độc lập với vụ kiện chính. Từ đó sẽ đảm bảo được ý nghĩa của chế định biện pháp khẩn cấp tạm thời đang hướng tới đó chính là tính khẩn cấp và tính tạm thời.

Thứ hai, về thẩm quyền quyết định áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời. Để khắc phục được việc chưa có quy dịnh rõ ràng về việc thẩm phán được Chánh án phân công thụ lý giải quyết đơn yêu cầu áp dụng có đồng nhất với thẩm phán được phân công xem xét thụ lý vụ án và giải quyết vụ án hay không thì cần có sự hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao để có thể áp dụng thống nhất giữa các Tòa án trên cả nước. Ngoài ra, cũng cần thiết phải sửa đổi quy định tại điều 112 theo hướng quy định rõ về thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong thủ tục giải quyết việc dân sự và thủ tục rút gọn để việc áp dụng ở trên thực tế được thuận lợi hơn.

Thứ ba, về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tác giả đề xuất việc phải sửa đổi quy định tại điều 113 theo hướng quy định về trách nhiệm bồi thường trong trường hợp thay đổi hoặc hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được áp dụng. Ngoài ra, cũng cần có những hướng dẫn bổ sung trong việc quy định trách nhiệm khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời trong trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng thời hạn của pháp luật hoặc không áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời mà không có lý do chính đáng gây thiệt hại cho chủ thể có liên quan. 

Thứ tư, về biện pháp kê biên tài sản tranh chấp.  Để khắc phục hạn chế của quy định tại điều 120 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tác giả xin được đề xuất sửa đổi quy định như sau: “Kê biên tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần phải ngăn chặn người gữi tài sản đang tranh chấp có hành vi tẩu tán, hủy hoại tài sản”. Quy định như vậy sẽ đáp ứng tốt hơn yêu cầu về tính hiệu quả của việc áp dụng biện pháp này ở trên thực tế.

Thứ năm, về biện pháp cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp[4]. Nhằm khắc phục được nhược điểm của quy định tại điều 121 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tác giả xin phép được đề xuất nên sửa đổi quy định trên theo hướng như sau: “Cấm chuyển dịch quyền về tài sản đối với tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cú cho thấy cần phải ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi chuyển dịch về tài sản cho người khác”. Hướng của quy định trên sẽ giúp cho biện pháp này đảm bảo được đặc tính của biện pháp khẩn cấp tạm thời đó chính là tính khẩn cấp. Bên cạnh đó, cũng đáp ứng được tốt yêu cầu về tính hiệu quả và tăng cường áp dụng trên thực tiễn.

Thứ sáu, về biện pháp cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp. Để khắc phục hạn chế tại điều 122 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 thì tác giả xin được đề xuất nên sửa đổi quy dịnh này theo hướng: “Cấm thay đổi hiện trạng tài sản đang tranh chấp được áp dụng nếu trong quá trình giải quyết vụ án có căn cứ cho thấy cần phải ngăn chặn người đang chiếm hữu hoặc giữ tài sản đang tranh chấp có hành vi tháo gỡ, lắp ghép, xây dựng thêm hoặc có hành vi khác làm thay đổi hiện trạng tài sản đó”. Việc quy dịnh sửa đổi theo hướng trên sẽ đáp ứng được tính khẩn cấp của biện pháp khẩn cấp tạm thời bên cạnh đó đảm bảo được tính hiệu quả áp dụng trên thực tế.

Thứ bảy, về việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm. Thưc tiễn quy định tại điều 136 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và Điều 13 và Điều 14 Nghị quyết hướng dẫn số 02/2020.NQ- HĐTP ngày 24/09/2020 đã đảm bảo được ý nghĩa của buộc thực hiện biện pháp bảo đảm nhằm tạo cơ chế giải quyết dễ dàng khi có thiệt hại phát sinh từ iệc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng. Bên cạnh đó, cũng nhằm bảo vệ lợi ích của người bị áp dụng và ngăn ngừa sự lam dụng quyền yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuy nhiên, đối tượng trong xã hội cũng rất đa dạng bao gồm cả những người có hoàn cảnh khó khăn hay nói một cách dân dã là người nghèo thì họ rất khó có thể đảm bảo được quy định này. Từ đó tạo tiền đề để bị đơn thực hiện các hành vi chuyển dịch, thay đổi hiện trạng, tẩu tán tài sản. Vì những lẽ đó, tác giả xin phép được kiến nghị sửa đổi quy định trên theo hướng: “Việc buộc thực hiện biện pháp bảo đảm không hạn chế người có hoàn cảnh khó khăn theo quy định của pháp luật yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khi khởi kiện”. Như vậy, sẽ giúp quy định về buộc thực hiện biện pháp bảo đảm trên thực tễ sẽ đảm bảo được sự công bằng hơn và hơn nữa là quyền, lợi ích hợp pháp của nguyên của các bên đương sự được tốt hơn.

Thứ tám, đối với biện pháp “giao người chưa thành niên, người bị mất hoặc hạn chế năng lực hành vi dân sự cho cá nhân hoặc tổ chức trông nom, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo duc”. Nhằm khắc phục nhược điểm của việc hiểu chưa đúng cum từ “người giám hộ” thì tác giả xin được đề xuất thay cụm từ “người giám hộ” thành “người giám hộ hoặc người đại diện hợp pháp heo quy định của pháp luật hoặc theo bản án, quyết định của Tòa án đã hiệu lực pháp luật”.

Cuối cùng, về biện pháp khẩn cấp tạm thời cấm chuyển dịch tài sản. Nhằm khắc phục việc còn lúng túng trong việc áp dụng của các thẩm phấn tại các Tòa án thì cần thiết có văn bản hướng dẫn xác đinh rõ thế nào là tranh chấp về bất động sản, tranh chấp có liên quan đến bất động sản để các Tòa án địa phương áp dụng thống nhất trong viêc xác định cấp có thẩm quyền giải quyết.

Bên cạnh những kiến nghị hoàn thiện pháp luật, qua tìm hiểu, phân tích những điểm còn hạn chế, khó khăn, vướng mắc còn tồn tại trong áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, tác giả tiêp tục đưa ra một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng và thi hành chế định về các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015:

Thứ nhất, về phía thẩm phán. Chúng ta nên thực hiện quản lý, tổ chức tập huấn, học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực nghiệp vụ cho đội ngũ thẩm phán. Hiện nay có một thực tế là mỗi một nơi thì thẩm phán sẽ có một cách hiểu khác nhau đối với quy định mà chưa có sự hướng dẫn của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao. Bên cạnh, một số thẩm phán cũng chưa thực sự sát sao trong việc đánh giá tính khấn cấp của vụ việc dân sự theo yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền yêu cầu. Ngoài ra, chính bởi vì sự e ngại của các thẩm phán về trách nhiệm do áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không đúng nên dẫn đến tình trạng các vụ việc nên áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để giảm tải được rủ ro nhưng các thẩm phán có thẩm quyền cũng không mặn mà áp dụng và cũng chỉ áp dụng khi có đơn yêu cầu của chủ thể có thẩm quyền gửi lên. Nếu cứ tiếp tục như vậy thì chế định về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự mặc dù hướng tới ý nghĩa, vai trò rất to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các dương sự có liên quan nhưng cũng không được khai thác tối đa trên thực tiễn. Bởi những lẽ trên thì rất cần sự vào cuộc quản lý sát sao của các cấp lãnh đạo nhất là đối với những tranh chấp liên quan đến bất động sản mà đang áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là cấm chuyển dịch về tài sản cũng như cần có phương án lên kế hoạch và tổ thức ra những buổi tập huấn học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ năng lực nghiệp vụ của đội ngũ thẩm phán.

Thứ hai, về phía đương sự có quyền áp dụng. Chúng ta cần có sự tuyên truyền phổ biến, giáo dục những quy định về biện pháp khẩn cấp tạm thời đến rộng rãi trong quần chúng nhân dân hiểu và biết rõ được quyền của mình cũng như lợi ích mà người dân sẽ có nhận được khi áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Tuyên truyền, phổ biến giáo dục là biện pháp cơ bản, có ý nghĩa quyết định trong công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật tới quần chúng nhân dân.Việc tuyên truyền, phổ biến giáo dục cần phải được tiến hành thường xuyên qua các phương tiện truyền thông đại chúng. Làm tốt công tác này sẽ giúp trnag bị kiến thức pháp luật nói chung và những quy định của biện pháp khẩn cấp tạm thời trong Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 nói riêng nhằm hướng tới người dân có thói quan ứng xử theo pháp luật. Trách nhiệm này thuộc về các tổ chức Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức chính trị - xã hội, các cán bộ làm công tác tuyên truyền, phổ biến, giáo dục pháp luật trong ngành Công an, Tư pháp, Tòa án,..Như vậy, để đảm bảo cho người dân nói chung hay người có quyền yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nói riêng có thể hiểu đúng và không ngần ngại áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là một quá trình đồi hỏi việc lên kế hoạch bài bản, chọn lựa những nội dụng cơ bản và truyền tải đến người dân theo hướng thông hiểu cũng như lựa chọn ngôn ngữ phổ thông phù hợp với đại đa số người dân trong quá trình tuyên truyền và phổ biến giáo dục pháp luật. 

V. Kết luận

Trong giai đoạn hiện nay, Việt Nam đang tiếp tục công cuộc đối mới, tiếp tục triển khai chiến lược cải cách tư pháp, hoàn thiện pháp luật về Biện pháp khẩn cấp tạm thời, nhất là trong thời buổi ngày càng phát triển của công 4.0 như hiện nay. Chính vì vậy, việc nghiên cứu và đề ra được những kiến nghị, giải pháp giúp hoànn thiện pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự là một đòi hỏi tất yếu, khách quan. Việc hoàn thiện pháp luật nói chung hay pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời nói riêng sẽ góp phần phát triển kinh tế xã hội, đẩy mạnh tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, đồng thời là một hoạt động thiết thực xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Công tác hoàn thiện pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời được xác định phải bám sát với tư tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước, kế thừa pháp luật truyền thống của Việt Nam, đồng thời tiếp thu có chọn lọc những điểm tiến bộ trong công tác lập pháp của một số nước trên thế giới. Từ nền tảng cở sở hoàn thiện pháp luật về biện pháp khẩn cấp tạm thời trong tố tụng dân sự sẽ góp phần nâng cao hiệu quả áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời tại các Tòa án ở Việt Nam.

Tài liệu tham khảo:

(1) Quộc hội (2015)Bộ luật tố tụng dân sự nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt nam số 92/2015/QH13;

(2) Trường Đại học Luật Hà Nội (2018). Giáo trình Luật tố tụng dân sự Việt Nam, Tái bản lần thứ 16 có sửa đổi, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội;

(3) Nguyễn Mạnh Hùng (2011). Thuật ngữ pháp lý, Nhà xuất bản chính trị Quốc gia – Sự thật, Hà Nội;

(4) Nguyễn Văn Hải (2016). Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng theo pháp luật Việt Nam, Luân văn Thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

(5) Trần Anh Tuấn [chủ biên] (2017). Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, Nhà xuất bản Tư pháp, Hà Nội.

 

[1]Trường đại học Luật Hà Nội, 2018, “Giáo trình luật Tố tụng dân sự Việt Nam”, NXB.Hồng Đức, tr 179
 
[2] Sách tham khâor của TS. Khuất Duy Kim Hải,2011, “Thuật ngữ pháp lý”, NXB.Chính trị Quốc gia – Sự thật, tr 42
 
[3] Nguyễn Văn Hải, 2016, Biện pháp khẩn cấp tạm thời tiền tố tụng theo pháp luật Việt Nam, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội, tr 17,18
 
[4] Trần Anh Tuấn [chủ biên] (2017). Bình luận khoa học Bộ luật Tố tụng dân sự của nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2015, NXB. Tư pháp, Hà Nội. tr 150
 
 
VŨ MINH QUÂN
Khoa Luật, Trường đại học Mở Hà Nội
 
Nguyễn Hoàng Lâm