Một phiên họp của Hội đồng Thẩm phán TANDTC - Ảnh: PV.
1. Tổng quan
Ngày nay, án lệ ngày càng đóng vai trò quan trọng tại Việt Nam cũng như nhiều quốc gia khác trên thế giới. Điều này có nguyên nhân từ những khiếm khuyết của pháp luật thành văn. Trong trường hợp pháp luật không có quy định hay quy định không rõ ràng thì Thẩm phán được xem như là nhà lập pháp bổ sung hay nói cách khác là Thẩm phán có vai trò sáng tạo luật khi đưa ra những giải pháp giải quyết những vụ việc cụ thể. Do vậy, việc xây dựng và ban hành án lệ phục vụ cho việc xét xử tại các nước đã và đang ngày càng được quan tâm. Tại Việt Nam, việc hình thành, công nhận và áp dụng án lệ đã có những bước tiến quan trọng và được đánh dấu bởi sự ra đời của Nghị quyết số 49/NQ-TW ngày 2/6/2005 của Bộ Chính trị về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020.
Nhằm thể chế hóa tinh thần của Nghị quyết 49 nêu trên, Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP về quy trình lựa chọn, công bố và áp dụng án lệ đã chính thức đưa ra khái niệm về “án lệ” và sau đó được thay thế bởi Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP (có hiệu lực ngày 15/7/2019). Theo đó, “án lệ” được hiểu là “những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử” (Điều 1 Nghị quyết 04/2019/NQ-HĐTP).
Như vậy, pháp luật Việt Nam hiện nay đã xây dựng một khái niệm đầy đủ về thuật ngữ “án lệ”. Có thể thấy điểm tương đồng trong khái niệm án lệ tại Việt Nam với khái niệm án lệ tại Pháp thể hiện ở chỗ án lệ được xác định không phải là toàn bộ bản án, quyết định của Tòa án mà chỉ là những nội dung trong bản án, quyết định của Tòa án chứa đựng những lập luận để giải thích những vấn đề, sự kiện pháp lý, chỉ ra nguyên tắc hoặc quy phạm pháp luật cần áp dụng hoặc là lý do để Tòa án đưa ra phán quyết[1]. Trong bối cảnh rất nhiều quốc gia trên thế giới trong đó có Pháp là một quốc gia có hệ thống pháp luật phát triển nhưng chưa có những ghi nhận chính thức về khái niệm án lệ trong hệ thống pháp luật nước mình thì việc khái niệm án lệ được ghi nhận trong một văn bản pháp luật tại Việt Nam được xem là một bước tiến quan trọng của nền tư pháp trong việc tạo tiền đề sử dụng án lệ một cách rộng rãi và chính thức trong hoạt động xét xử của Tòa án[2]. Tuy nhiên, tại Pháp cũng như Việt Nam không phải bất kỳ phán quyết có hiệu lực pháp luật nào của Tòa án cũng đều có thể trở thành án lệ. Để được xem là án lệ thì bản án, quyết định của Tòa án cần phải thỏa mãn một số điều kiện nhất định. Vấn đề này sẽ được trình bày trong mục tiếp theo về các tiêu chí lựa chọn án lệ.
2. Tiêu chí lựa chọn án lệ
Như đã đề cập ở trên, kể cả ở Pháp lẫn Việt Nam, không phải tất cả các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án các cấp đều trở thành án lệ. Ở các quốc gia khác nhau thì tiêu chí lựa chọn án lệ cũng sẽ khác nhau. Tuy nhiên, với xu hướng hội tụ, tiêu chí lựa chọn án lệ của các quốc gia nhìn chung thường có một số điểm tương đồng như sau:
Một là, nguồn gốc của án lệ thường là bản án của Tòa án cao nhất trong hệ thống Tòa án
Hệ thống Tòa án Pháp được chia thành hai ngạch là Tòa án Tư pháp và Tòa án Hành chính, đứng đầu là Tòa phá án và Hội đồng nhà nước. Trong đó Tòa Phá án là Tòa án cấp cao nhất của ngạch Tòa án Tư pháp, có vai trò quan trọng trong việc tạo ra án lệ tư pháp thông qua chức năng giám đốc thẩm của nó. Theo các điều L.411-1 và L.411-2 Bộ luật tổ chức Tòa án thì Tòa phá án có nhiệm vụ chủ yếu là đảm bảo việc giải thích luật thống nhất trên toàn lãnh thổ Cộng hòa Pháp mà không cần biết đến nội dung vụ việc nhằm để bảo đảm sự bình đẳng của công dân trước pháp luật. Hay nói cách khác là Tòa phá án kiểm soát việc áp dụng thống nhất quy định pháp luật còn việc xem xét nội dung vụ việc thuộc về Thẩm phán các Tòa án cấp dưới[3].
Tại Việt Nam theo Nghị quyết số 74/QĐ-TANDT năm 2012 về việc phê duyệt Đề án “Phát triển án lệ của Tòa án nhân dân tối cao” quy định: “Quyết định trở thành án lệ là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và Quyết định giám đốc thẩm của Toà chuyên trách Toà án nhân dân tối cao[4] được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao thông qua khi hội đủ ba điều kiện sau: Là quyết định chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số các văn bản quy phạm pháp luật (Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật) về một vấn đề pháp lý đặt ra chưa được văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đề cập hoặc đề cập còn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc có mâu thuẫn; Được Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hoặc các Thẩm phán viện dẫn làm căn cứ trong phần lập luận, quyết định của bản án, quyết định về vụ án cụ thể; Là Quyết định giám đốc thẩm của Tòa án nhân dân tối cao sau cùng về vấn đề pháp lý đó mà được các Toà án khác vận dụng giải quyết vụ việc có nội dung tương tự”[5]. Theo quy định này thì cũng chỉ có những quyết định Tòa án nhân dân tối cao mới có thể trở thành án lệ. Điều này có thể hiểu là do án lệ đóng vai trò quan trọng trong việc nâng cao chất lượng của bản án, quyết định của ngành Tòa án nói chung, đặc biệt là Quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao; góp phần đảm bảo việc áp dụng pháp luật đúng, thống nhất, từ đó đảm bảo sự bình đẳng của mọi tổ chức và công dân trước pháp luật[6]. Chính vì tầm quan trọng đó nên chỉ có những quyết định của Tòa án nhân dân tối cao mới có thể được lựa chọn để trở thành án lệ.
Tuy nhiên, tiêu chí này đã không còn được ghi nhận là một trong những tiêu chí lựa chọn án lệ trong pháp luật Việt Nam hiện nay. Cụ thể, điểm c, khoản 2, Điều 22 Luật tổ chức Tòa án nhân dân 2014 quy định Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao có nhiệm vụ, quyền hạn“Lựa chọn quyết định giám đốc thẩm của Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao, bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật, có tính chuẩn mực của các Tòa án, tổng kết phát triển thành án lệ và công bố án lệ để các Tòa án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Quy định trên cho thấy để có thể trở thành án lệ thì không nhất thiết phải là quyết định do Tòa án nhân dân tối cao ban hành mà có thể là bản án, quyết định của tất cả các Tòa án trong hệ thống Tòa án của Việt Nam.
Tiếp theo, Điều 1 của Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP cũng quy định thống nhất như trên, cụ thể: “Án lệ là những lập luận, phán quyết trong bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án về một vụ việc cụ thể được Hội đồng Thẩm phán Toà án nhân dân tối cao lựa chọn và được Chánh án Toà án nhân dân tối cao công bố là án lệ để các Toà án nghiên cứu, áp dụng trong xét xử”. Bên cạnh đó, Điều 2 của Nghị quyết nêu trên quy định về tiêu chí lựa chọn án lệ như sau: “Án lệ được lựa chọn phải đáp ứng các tiêu chí sau đây: Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể; có tính chuẩn mực và có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử”. Đồng thời, khi quy định về việc đề xuất bản án, quyết định để phát triển thành án lệ tại Điều 3 của cùng Nghị quyết thì có thể thấy tất cả các bản án, quyết định của Tòa án nhân dân các cấp đều có thể trở thành án lệ khi thỏa mãn các điều kiện tại Điều 2.
Như vậy, có thể thấy ở nước ta bản án, quyết định của bất kỳ Tòa án nào cũng đều có thể trở thành án lệ khi nó thỏa mãn được tất cả những tiêu chí cũng như được lựa chọn, công bố theo đúng trình tự, thủ tục luật định. Quy định này thể hiện sự khác biệt so với một số nước, ví dụ như ở Pháp thì chỉ có bản án của Tòa phá án hoặc Hội đồng nhà nước mới có thể trở thành án lệ như đã trình bày ở trên.
Thứ hai, nội dung của án lệ phải chứa đựng vấn đề về pháp lý
Vấn đề pháp lý được hiểu là câu hỏi đặt ra để Thẩm phán đi tìm lời giải cho một sự kiện hay tình huống pháp luật mới phát sinh trong thực tế. Do vậy, để có thể trở thành án lệ thì quyết định của Thẩm phán phải chứa đựng giải pháp cho những vấn đề pháp lý mới nảy sinh, làm cơ sở cho việc giải quyết những vụ việc tương tự trong tương lai[7]. Điều này có nghĩa là trước một sự kiện mới mà pháp luật chưa quy định hoặc quy định không rõ ràng, Thẩm phán phải tìm ra giải pháp để giải quyết vụ việc cụ thể đó trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình. Khi đó, những lập luận được đưa ra để giải thích cho giải pháp mà Thẩm phán tuyên bố sẽ trở thành án lệ giải quyết cho các vụ việc tương tự xảy ra.
Tại Pháp, áp dụng luật là một trong những thẩm quyền quan trọng của Thẩm phán. Tuy nhiên, bên cạnh thẩm quyền áp dụng luật, Thẩm phán tại Pháp còn có thẩm quyền giải thích luật nhằm đảm bảo thực hiện chức năng xét xử của mình bởi lẽ quy định pháp luật không phải lúc nào cũng rõ ràng, đầy đủ. Cũng cần lưu ý không phải tất cả những bản án của Tòa phá án đều trở thành án lệ. Theo đó, chỉ những bản án có tính nguyên tắc của Tòa phá án mà thông qua đó Tòa phá án giải quyết những vấn đề pháp lý mới, còn gây nhiều tranh cãi mới có thể trở thành án lệ. Qua bản án này, Tòa phá án thiết lập nguyên tắc giải quyết liên quan đến vấn đề pháp lý đó. Đây là những nguyên tắc chung được đưa ra nhằm để giải quyết những trường hợp tương tự nhau. Ngược lại, những bản án giải quyết các vụ tranh chấp cụ thể được đưa ra dựa trên những căn cứ pháp lý rõ ràng nhằm giải quyết những vụ việc cụ thể thì không thể áp dụng chung cho những trường hợp khác cho nên nó không thể trở thành án lệ[8].
Tại Việt Nam, một trong những điều kiện để trở thành án lệ được quy định tại điểm d, Khoản 3, Mục I, Điều 1 Quyết định số 74/QĐ-TANDTC đó là “quyết định chứa đựng sự giải thích, lập luận cho một hoặc một số các văn bản quy phạm pháp luật (Văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật) về một vấn đề pháp lý đặt ra chưa được văn bản hướng dẫn áp dụng pháp luật đề cập hoặc đề cập còn chung chung, thiếu tính cụ thể hoặc có mâu thuẫn…”. Từ quy định trên có thể thấy tương tự như ở Pháp, Thẩm phán sẽ đưa ra sự giải thích trong trường hợp quy định của luật không rõ ràng hoặc luật chưa có quy định nhằm đảm bảo cho việc thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình. Hay nói cách khác là, án lệ không chỉ là những bản án chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, có giá trị hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp luật trong xét xử mà còn phải là những bản án chứa đựng những lập luận, quan điểm, đường lối xử lý,… đối với những sự kiện pháp lý mới phát sinh của Tòa án trong trường hợp pháp luật chưa có quy định để điều chỉnh. Điều này tiếp tục được ghi nhận tại Điều 2 Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP khi quy định về tiêu chí lựa chọn án lệ thì có thể thấy bên cạnh tiêu chí “chứa đựng lập luận để làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau…” mà còn “…thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể”. Có nghĩa là Thẩm phán ngoài việc có thể giải thích các quy định chưa rõ ràng mà còn thông qua hoạt động xét xử, thẩm phán có thể “sáng tạo ra pháp luật” để áp dụng trong một số trường hợp luật không có quy định. Quy định này thể hiện sự thống nhất với quy định của Bộ luật tố dụng dân sự 2015 (viết tắt là BLTTDS 2015). Cụ thể, BLTTDS 2015 có quy định về việc Tòa án có trách nhiệm giải quyết các vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật để áp dụng hay nói cách khác là trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình Tòa án bằng mọi cách phải giải quyết yêu cầu của cá nhân, cơ quan, tổ chức kể cả khi chưa có điều luật để áp dụng. Căn cứ vào Điều 45 BLTTDS 2015 về nguyên tắc giải quyết vụ việc dân sự trong trường hợp chưa có điều luật áp dụng thì Tòa án có thể dựa vào tập quán, tương tự pháp luật, các nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự, án lệ, và lẽ công bằng để giải quyết những vụ việc dân sự khi chưa có điều luật để áp dụng. Khi đó, quyết định giải quyết vụ việc dân sự cụ thể này của Tòa án sẽ trở thành án lệ để các Tòa án khác áp dụng giải quyết những vụ việc tương tự.
Thứ ba, nội dung án lệ phải chứa đựng các quan điểm pháp luật
Có thể hiểu quan điểm pháp luật là sự khái quát hóa đường lối xét xử trong một vụ án cụ thể thành một nguyên tắc chung, mang tính tiền lệ để các Thẩm phán sau đó có thể noi theo trong các trường hợp tương tự. Tại Pháp, khi thực hiện nhiệm vụ giải thích luật, Thẩm phán có vai trò sáng tạo nhất định bởi lẽ Thẩm phán phải lựa chọn trong số những cách giải thích một cách giải thích được cho là phù hợp nhất. Trong trường hợp này Thẩm phán đóng vai trò là người sáng tạo ra pháp luật. Thông thường, bản án chứa đựng giải pháp giải quyết vấn đề pháp lý mới có nhiều ý kiến đối lập của Tòa phá án sẽ được các Tòa án cấp dưới tuân theo khi giải quyết những vụ việc tương tự mặc dù không bị bắt buộc. Nhưng để hạn chế việc bị kháng cáo và nhất là kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm, các Thẩm phán của Tòa án cấp dưới có xu hướng đưa ra quyết định phù hợp với cách giải thích của Tòa phá án. Khi đó, bản án của Tòa phá án sẽ trở thành án lệ[9].
Tại Việt Nam, theo Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP thì Thẩm phán không những có quyền đưa ra những giải thích nhằm làm rõ các quy định còn nhiều cách hiểu khác nhau mà còn có quyền đưa ra những giải thích có tính nguyên tắc và có giá trị thay thế luật trong trường hợp quy định pháp luật còn thiếu vắng như trình bày ở trên. Có thể thấy vai trò của Thẩm phán đã được mở rộng tương tự như thẩm quyền của Thẩm phán tại Pháp. Điều này đã thể hiện tư tưởng tiến bộ của các nhà lập pháp Việt Nam và là bước phát triển đáng kể trong lịch sử lập pháp nước ta. Đó là Thẩm phán có quyền đưa ra những lập luận để giải thích luật trong quá trình thực hiện nhiệm vụ xét xử của mình cũng như đưa ra nguyên tắc, đường lối xử lý đối với những vấn đề pháp lý mới. Như vậy, liên quan đến tiêu chí này thì có thể thấy án lệ ở cả Pháp và Việt Nam đều phải chứa đựng những lập luận, phân tích, giải thích các vấn đề; sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý trong vụ việc cụ thể đó.
Thứ tư, các án lệ phải phát sinh từ những tranh chấp có thật
Tại Pháp, việc đưa ra giải thích của Tòa phá án chỉ có thể được thực hiện trong quá trình giải quyết một vụ việc cụ thể. Nói cách khác là chúng ta không thể yêu cầu Tòa phá án giải thích cho một vấn đề pháp lý chưa xảy ra cụ thể trên thực tế. Điều này có nghĩa là Tòa phá án chỉ có thể đưa ra những lập luận trong khi thực hiện việc xem xét kháng cáo của một tranh chấp có thật xảy ra trên thực tế hoặc trong trường hợp đưa ra giải thích luật khi Tòa án cấp dưới thỉnh thị ý kiến khi gặp một vấn đề pháp lý mới phát sinh trong quá trình giải quyết một vụ kiện. Và những lập luận này sẽ trở thành án lệ[10].
Tương tự, tại Việt Nam, một trong những tiêu chí để được lựa chọn trở thành án lệ đó là những bản án “Có giá trị làm rõ quy định của pháp luật còn có cách hiểu khác nhau, phân tích, giải thích các vấn đề, sự kiện pháp lý và chỉ ra nguyên tắc, đường lối xử lý, quy phạm pháp luật cần áp dụng trong một vụ việc cụ thể hoặc thể hiện lẽ công bằng đối với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể”[11]. Như vậy, tại Pháp và Việt Nam, việc Thẩm phán tạo ra án lệ phải được thực hiện trong quá trình trực tiếp xét xử những tranh chấp thực tế mà luật quy định còn mơ hồ dẫn đến nhiều cách hiểu khác nhau hoặc pháp luật chưa có quy định để điều chỉnh. Nói cách khác quá trình giải thích và áp dụng các văn bản quy phạm pháp luật vào giải quyết tranh chấp cụ thể là con đường hình thành nên án lệ bởi vì những giải thích này sẽ được sử dụng để giải quyết những vụ việc tương tự trong tương lai bởi các Thẩm phán khác.
Tóm lại, căn cứ vào các quy định hiện nay về tiêu chí lựa chọn án lệ, chúng ta có thể thấy Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP đã khắc phục được vấn đề vướng mắc trong quy định trước đây như đã đảm bảo tính thống nhất với các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan như Bộ luật dân sự 2015, BLTTDS 2015 về việc Thẩm phán có quyền đưa ra nguyên tắc, đường lối xét xử với những vấn đề chưa có điều luật quy định cụ thể như đã phân tích ở trên. Tuy nhiên, đối với tiêu chí “có tính chuẩn mực” thì vẫn chưa được quy định một cách minh thị. Vấn đề đặt ra là như thế nào thì được xem là “có tính chuẩn mực”?
Có thể hiểu án lệ phải có “tính chuẩn mực” là một án lệ chứa đựng những lập luận chặt chẽ, có cơ sở khoa học, có tính pháp lý và thuyết phục cao. Tuy nhiên, liên quan đến tiêu chí này, từ Nghị quyết số 03/2015/NQ-HĐTP đến Nghị quyết số 04/2019/NQ-HĐTP – văn bản quy định trực tiếp về tiêu chí lựa chọn án lệ - lẫn các văn bản quy phạm pháp luật khác đều chưa có giải thích rõ ràng. Có thể thấy việc đưa ra một tiêu chí lựa chọn án lệ mang tính định tính như trên cùng với việc thiếu quy định hướng dẫn sẽ gây khó khăn cho quá trình lựa chọn án lệ cũng như có thể khiến cho quá trình lựa chọn án lệ ít nhiều phụ thuộc vào ý chí chủ quan của chủ thể có thẩm quyền lựa chọn, thông qua và công bố án lệ. Do vậy, thiết nghĩ nên có quy định giải thích cụ thể tiêu chí“tính chuẩn mực” là gì? Việc quy định một cách minh thị sẽ góp phần giúp cho việc lựa chọn án lệ được thuận lợi và khách quan hơn[12].
3. Kết luận
Tóm lại, chính từ sự khác nhau về văn hóa, xã hội, truyền thống pháp lý giữa các quốc gia mà án lệ của mỗi quốc gia cũng sẽ mang những đặc trưng riêng. Có thể thấy những quy định pháp luật Việt Nam hiện hành đã xây dựng và khái quát được một số tiêu chí giúp xác định được những bản án có thể trở thành án lệ.
Nhìn chung, các tiêu chí lựa chọn án lệ của nước ta khá tương đồng với các quốc gia khác mà cụ thể là Cộng hòa Pháp như đã trình bày ở trên. Tuy nhiên, các quy định về tiêu chí lựa chọn án lệ vẫn còn tồn tại một số hạn chế cần phải được xem xét điều chỉnh để có thể góp phần phát huy hết vai trò, ý nghĩa của án lệ trong quá trình xét xử theo tinh thần cải cách tư pháp ở nước ta hiện nay.
ThS. HUỲNH THỊ NAM HẢI
ThS. NGUYỄN THỊ KHÁNH NGỌC
Trường Đại học Kinh tế - Luật VNU – HCM
(Theo Tạp chí Tòa án)
Lệ phí cấp Căn cước công dân gắn chip từ ngày 01/01/2021