/ Trợ giúp pháp lý
/ Bộ Tư pháp trả lời kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc của Bộ luật Dân sự

Bộ Tư pháp trả lời kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc của Bộ luật Dân sự

22/10/2025 06:32 |

(LSVN) - Mới đây, Bộ Tư pháp đã có Công văn 6350/BTP-PLDSKT ngày 09/10/2025 về việc trả lời Sở Tư pháp các tỉnh và các tổ chức đã có những phản ánh, kiến nghị về những khó khăn, vướng mắc do quy định của pháp luật liên quan đến Bộ luật Dân sự.

Mâu thuẫn, chồng chéo về quy định đặt tên của công dân Việt Nam

Cụ thể, Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh phản ánh: Khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự quy định: “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”. Điểm đ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự quy định: “Thay đổi tên của vợ, chồng trong quan hệ hôn nhân và gia đình có yếu tố nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân hoặc lấy lại tên trước khi thay đổi”.

Sở Tư pháp tỉnh Bắc Ninh cho rằng quy định nêu trên là không thống nhất giữa quy định của 2 điều Luật trong trường hợp vợ hoặc chồng đề nghị thay đổi thành tên nước ngoài để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân.

Trả lời vấn đề này, Bộ Tư pháp cho biết, quy định tại khoản 3 Điều 26 không mẫu thuẫn với quy định tại điểm đ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự. Lý do là khoản 3 Điều 26 Bộ luật Dân sự quy định về quyền đặt tên của công dân Việt Nam; điểm đ khoản 1 Điều 28 quy định về quyền thay đổi tên của công dân Việt Nam trong trường hợp có quan hệ hôn nhân với người nước ngoài.

Bên cạnh đó, điểm đ khoản 1 Điều 28 Bộ luật Dân sự chỉ áp dụng đối với trường hợp công dân Việt Nam kết hôn với người nước ngoài và để phù hợp với pháp luật của nước mà vợ, chồng người nước ngoài là công dân.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Kiến nghị thống nhất về thời hiệu khởi kiện

Công ty Luật B. phán ánh quy định về thời hiệu khởi kiện còn có sự chồng chéo và khác biệt giữa Bộ luật Dân sự, Luật Trọng tài Thương mại và các văn bản pháp luật khác. Cần sửa đổi, bổ sung các quy định pháp luật về thời hiệu khởi kiện và quy định rõ về các trường hợp/nguyên tắc ưu tiên áp dụng thời hiệu khởi kiện tại các bộ luật, luật để tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật liên quan.

Liên quan đến vấn đề này, Bộ Tư pháp cho biết sẽ phối hợp với Hội Luật gia Việt Nam và Bộ Công thương trong quá trình sửa đổi, bổ sung Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Luật Thương mại năm 2005 theo hướng bỏ quy định về thời hiệu khởi kiện, thực hiện thống nhất theo quy định tại Điều 429 Bộ luật Dân sự 2015.

Cũng theo Công ty Luật B, khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 về Hợp đồng theo mẫu quy định như sau: "Trường hợp hợp đồng theo mẫu có điều khoản miễn trách nhiệm của bên đưa ra hợp đồng theo mẫu, tăng trách nhiệm hoặc loại bỏ quyền lợi chính đáng của bên kia thì điều khoản này không có hiệu lực, trừ trường hợp có thỏa thuận khác".

Thực tế, các bên có thể có các cách hiểu khác nhau trong việc áp dụng quy định nêu trên vào việc giải thích các điều khoản của hợp đồng trên thực tế. Cụ thể, khi hợp đồng theo mẫu có điều khoản loại trừ hiệu lực của chính khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 (Ví dụ: Hợp đồng theo mẫu có nội dung “Các bên đồng ý rằng các khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 sẽ không được áp dụng và đồng ý bị ràng buộc bởi các điều khoản và điều kiện liên quan đến trách nhiệm và bồi thường như được quy định trong Hợp đồng này", một số cách hiểu như sau có thể được áp dụng:

Cách hiểu 1: Điều khoản loại trừ hiệu lực của Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 được xem là có hiệu lực. Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 có cụm từ “trừ trường hợp có thỏa thuận khác”. Theo đó, việc các bên cùng ký kết hợp đồng mẫu có nội dung thỏa thuận loại trừ áp dụng Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự  2015 cũng có thể được coi là một “thỏa thuận khác” giữa các bên và do đó, điều khoản loại trừ khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 được xem là có hiệu lực.

Cách hiểu 2: Điều khoản loại trừ hiệu lực của Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 là trái luật và không có hiệu lực. Khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự 2015 là một quy định có tính chất bảo vệ, nhằm ngăn chặn việc lạm dụng vị thế của bên đưa ra hợp đồng mẫu.

Do đó, mặc dù hợp đồng theo mẫu có nội dung loại trừ áp dụng Khoản 3 Điều 405 đều phải được coi là trái với mục đích và tinh thần của pháp luật, và do đó bị xem là không có hiệu lực. Sự tồn tại của hai cách hiểu trên tạo ra sự không chắc chắn về mặt pháp lý và gây khó khăn trong quá trình áp dụng trên thực tế.

Liên quan đến phản ánh, kiến nghị này, Bộ Tư pháp cho biết, khoản 3 Điều 405 Bộ luật Dân sự năm 2015 là sự cụ thể hóa nguyên tắc quy định tại khoản 2 Điều 3 Bộ luật Dân sự và khoản 2 Điều 401 Bộ luật Dân sự. Về nguyên tắc, điều khoản tại hợp đồng thuộc trường hợp quy định tại khoản 3 Điều 405 là vô hiệu, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác về việc công nhận hiệu lực của điều khoản này (trường hợp vô hiệu tương đối, điều khoản có hiệu lực khi các bên thỏa thuận chấp nhận).

Như vậy, hợp đồng theo mẫu được giải thích phụ thuộc vào tình huống, bối cảnh cụ thể. Trường hợp hợp đồng theo mẫu áp dụng với người tiêu dùng (bên có vị thế yếu hơn) thì Điều 25 Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2023 đã quy định về điều khoản không được phép quy định trong hợp đồng theo mẫu với người tiêu dùng.

Ngoài ra, theo Sở Tư pháp tỉnh Thanh Hóa, tại khoản 3, điều 26, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Tên của công dân Việt Nam phải bằng tiếng Việt hoặc tiếng dân tộc khác của Việt Nam; không đặt tên bằng số, bằng một ký tự mà không phải là chữ”.

Tuy nhiên, đối với những trường hợp đăng ký khai sinh có yếu tố nước ngoài, mặc dù cha mẹ lựa chọn quốc tịch Việt Nam cho trẻ em nhưng do trẻ em có một bên cha hoặc mẹ là người nước ngoài nên ngoài việc lựa chọn theo họ cha hoặc họ mẹ thì cha mẹ trẻ thường muốn trẻ có tên ghép giữa tên Việt Nam và tên nước ngoài, ví dụ như các tên: Trần John, Lê Anna.

Trả lời vấn đề này, theo Bộ Tư pháp, quy định này đã được Quốc hội thảo luận và lựa chọn để đảm bảo giữ gìn bản sắc văn hóa Việt Nam tại tên gọi của công dân Việt Nam. Tuy nhiên, Bộ Tư pháp ghi nhận và sẽ nghiên cứu trong quá trình hoàn thiện pháp luật dân sự.

DUY ANH

Các tin khác