Ảnh minh họa.
Luật Kinh doanh bất động sản năm 2013 đã quy định về trường hợp cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ cụ thể hơn so với Luật Kinh doanh bất động sản năm 2014. Cụ thể, tại khoản 3 và 4 Điều 9 của Luật này quy định: "Cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật.Tổ chức, cá nhân bán nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng không nhằm mục đích kinh doanh hoặc bán, cho thuê, cho thuê mua nhà ở,công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng dưới mức quy mô nhỏ thì không phải tuân thủ các quy định của Luật này nhưng phải kê khai nộp thuế theo quy định của pháp luật; trường hợp cá nhân bán, cho thuê mua nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng thì còn phải thực hiện công chứng, chứng thực theo quy định tại khoản 5 Điều 44 của Luật này”. Tại khoản 6Điều 9 của Luật Kinh doanh bất động sảnnăm 2023 đã giao Chính phủ quy định cụ thể việc xác định kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ quy định tại khoản 3 và khoản 4 Điều 9 của Luật.
Hiện nay, Bộ Xây dựng đãhoàn thành Dự thảo (lần3) Nghị định quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023thay thế Nghị định số 02/2022/NĐ-CP của Chính phủ).Theo đó , cá nhân kinh doanh bất động sản quy mô nhỏ theo quy định tại khoản 3 Điều 9 Luật Kinh doanh bất động sản năm 2023 khi đưa nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng, quyền sử dụng đất đã có hạ tầng kỹ thuật trong dự án bất động sản vào kinh doanh thì không phải thành lập doanh nghiệp kinh doanh bất động sản, phải đáp ứng 06 điều kiện sau:
Thứ nhất, có Giấy chứng nhận về quyền sử dụng đất theo quy định của pháp luật về đất đai. Trường hợp bán nhà ở, công trình xây dựng thì trong Giấy chứng nhận phải có ghi nhận quyền sở hữu nhà ở, công trình xây dựng đó theo quy định pháp luật về đất đai.
Thứ hai, không có tranh chấp về quyền sử dụng đất gắn với nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng; không có tranh chấp về quyền sở hữu nhà ở, công trình xây dựng, phần diện tích sàn xây dựng trong công trình xây dựng, đang được cơ quan có thẩm quyền thông báo, thụ lý và giải quyết.
Thứ ba, không bị kê biên để bảo đảm thi hành án.
Thứ tư, không thuộc trường hợp đang trong thời gian bị đình chỉ, tạm đình chỉ giao dịch theo quy định của pháp luật.
Thứ năm, không trong thời gian cầm cố, thế chấp.
Thứ sáu, trường hợp đầu tư xây dựng nhà ở, công trình xây dựng trên đất thuộc quyền sử dụng hợp pháp của mình để bán, cho thuê mua, cho thuê thì phải bảo đảm không thuộc diện phải lập dự án theo quy định của pháp luật về nhà ở, xây dựng.
Luật sư NGUYỄN HỒNG HÀ
Đoàn Luật sư tỉnh Khánh Hòa
Trình Quốc hội Nghị quyết sửa đổi, bổ sung Điều 252, Luật Đất đai năm 2024