(LSO) - Tùy vào từng giai đoạn tố tụng thì có những tên gọi khác nhau đối với những người bị buộc tội nói chung và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ khác nhau tại mỗi giai đoạn này theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự.
Theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự về nguyên tắc suy đoán vô tội thì người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Do đó, dưới góc độ pháp lý, khi bản án kết tội của toà án có hiệu lực pháp luật thì người bị buộc tội mới được coi là người bị kết án. Khi đó, người bị kết án có nghĩa vụ chấp hành hình phạt theo quyết định của bản án kết án đối với mình. Còn trong trường hợp khi không đủ và không thể làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do Bộ luật này quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội.
Trước đây, khi Luật Hồng Đức (Quốc triều hình luật) ra đời thì những người bị kết án được coi là tội nhân. Sau đó, trong một số sắc lệnh về tổ chức các cơ quan tư pháp đều gọi người bị kết tội bằng một bản án đã có hiệu lực pháp luật của toà án là "tội nhân", "phạm nhân” - đây đều là những từ gốc Hán, có nghĩa Hán Việt chỉ người phạm tội, tức là người đã bị toà án tuyên là đã có tội phải chịu hình phạt và bản án đã có hiệu lực pháp luật.
Đến nay, khi trải qua nhiều giai đoạn lịch sử, Bộ luật Hình sự được sửa đổi thì người bị buộc tội chỉ được coi là người bị kết án khi bản án của tòa án có hiệu lực. Tuy nhiên, việc buộc tội phải trải qua các giai đoạn tố tụng khác nhau và có nhiều cách gọi khác nhau đối với người bị buộc tội.
Cụ thể, từ trước giai đoạn khởi tố vụ án hình sự và trong giai đoạn xác minh tin báo tố giác tội phạm thì đối với những người bị người khác tố giác được gọi là người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố. Còn bị đối với người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, bị bắt trong trường hợp phạm tội quả tang, bị bắt theo quyết định truy nã hoặc người phạm tội tự thú, đầu thú và đối với họ đã có quyết định tạm giữ thì được gọi là người bị tạm giữ theo Điều 59 Bộ luật Tố tụng hình sự hiện hành.
Đến giai đoạn khởi tố vụ án hình sự thì người hoặc pháp nhân bị cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố về hình sự thì được gọi là bị can (Điều 60 BLTTHS). Đến khi tòa án có thẩm quyền ra quyết định đưa vụ án ra xét xử thì khi đó người bị buộc tội được gọi là bị cáo (Điều 61 BLTTHS). Đến khi bản án kết tội họ có hiệu lực pháp luật thì những người đó được gọi là người bị kết án. Trong trường hợp có quyết định thi hành án thì người bị kết án được gọi là người chấp hành án theo quy định tại Điều 3 Luật Thi hành án hình sự.
Như vậy, tùy vào từng giai đoạn tố tụng thì có những tên gọi khác nhau đối với những người bị buộc tội nói chung và họ sẽ có những quyền và nghĩa vụ khác nhau tại mỗi giai đoạn này theo quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật Thi hành án hình sự.
Thông thường trong đời sống xã hội có nhiều cách gọi khác nhau đối với người bị buộc tội, thậm chí có những cách gọi không đúng được "truyền tai" nhau từ lâu, nhưng cách gọi ngoài đời sống xã hội thì không thể làm thay đổi bản chất pháp lý của người bị buộc tội tại các giai đoạn tố tụng mà phải căn cứ vào các quyết định của cơ quan có thẩm quyền tại các giai đoạn tố tụng đó.
Qua sự phân tích nêu trên phần nào để mọi người hiểu được các cách gọi khác nhau của người bị buộc tội tại các giai đoạn tố tụng hình sự theo quy định pháp luật.
LUẬT SƯ ĐẶNG VĂN CƯỜNG