/ Nghiên cứu - Trao đổi
/ Chiến lược quốc gia phòng, chống lãng phí đến năm 2035 - hướng tiếp cận toàn diện và những điểm nhấn pháp lý

Chiến lược quốc gia phòng, chống lãng phí đến năm 2035 - hướng tiếp cận toàn diện và những điểm nhấn pháp lý

25/06/2025 06:45 |19 ngày trước

(LSVN) - Bài viết phân tích các nội dung trọng tâm, cốt lõi của Chiến lược quốc gia về phòng, chống lãng phí đến năm 2035 theo Quyết định số 806/QĐ-TTg ngày 22/4/2025 của Thủ tướng Chính phủ. Qua đó, chỉ ra những điểm mới về tư duy chiến lược, hệ thống giải pháp đồng bộ và các đề xuất hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả phòng, chống lãng phí ở Việt Nam giai đoạn tới.

1. Mở đầu

Thực tiễn quản lý nhà nước ở Việt Nam cho thấy, tình trạng lãng phí trong các lĩnh vực như đầu tư công, tài sản công, đất đai, thời gian lao động, sử dụng năng lượng, tài nguyên thiên nhiên... vẫn diễn ra phổ biến, tinh vi và kéo dài. Những hệ lụy mà lãng phí để lại không chỉ là sự thất thoát tài chính đơn thuần mà còn là sự xói mòn niềm tin của Nhân dân, suy giảm năng lực cạnh tranh quốc gia, làm suy yếu nội lực phát triển của nền kinh tế, ảnh hưởng đến an ninh tài chính và tính chính danh của bộ máy công quyền [1].

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Trong bối cảnh đó, việc Thủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 806/QĐ-TTg ngày 22/4/2025 phê duyệt Chiến lược quốc gia về phòng, chống lãng phí đến năm 2035 (Chiến lược 806) mang ý nghĩa chính trị, pháp lý và thực tiễn sâu sắc. Đây là lần đầu tiên một chiến lược cấp quốc gia về phòng, chống lãng phí được ban hành với tầm nhìn dài hạn, định hướng rõ ràng, tích hợp đa chiều các yếu tố thể chế, quản trị, pháp lý và xã hội. Chiến lược 806 là sự cụ thể hóa những định hướng lớn tại Chỉ thị số 27-CT/TW của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí [2], đồng thời là sự nối tiếp có hệ thống các chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước từ Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 của Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012 của Hội nghị lần thứ 5 Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XI) về việc tiếp tục thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí, đến Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 [3].

2. Cơ sở chính trị, pháp lý và bối cảnh ban hành Chiến lược 806

Về phương diện pháp lý, Chiến lược 806 được xây dựng trên nền tảng của Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 - đạo luật đóng vai trò khung pháp lý nền tảng điều chỉnh toàn bộ các hành vi sử dụng tài chính công, tài sản công, thời gian làm việc và nguồn lực xã hội, nhằm ngăn ngừa, phát hiện và xử lý lãng phí. Luật đã cụ thể hóa tinh thần Hiến pháp 2013 về quản lý tiết kiệm, hiệu quả tài sản của Nhà nước và Nhân dân, tạo hành lang pháp lý quan trọng để điều chỉnh hành vi công vụ và bảo đảm kỷ cương ngân sách [4].

Chiến lược 806 cũng thể hiện sự tiếp nối và phát triển các định hướng lớn trong Nghị quyết số 74/2022/QH15 của Quốc hội về đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí. Nghị quyết đã chỉ rõ nhiều tồn tại cố hữu như: ban hành văn bản chậm, chưa đồng bộ; tổ chức thực hiện chưa hiệu quả; trách nhiệm người đứng đầu chưa được xác định rõ ràng; các hành vi lãng phí chưa được xử lý nghiêm khắc tương xứng với hậu quả gây ra [5].

Đặc biệt, về mặt chính trị - pháp lý, Chiến lược 806 là sự thể chế hóa kịp thời và đầy đủ tinh thần của Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị, trong đó khẳng định: “Lãng phí là một hình thức tham nhũng không thu lợi cá nhân, nhưng gây tổn thất không kém phần nghiêm trọng cho nền kinh tế và uy tín chính trị của Nhà nước” [6]. Chỉ thị nhấn mạnh sự cần thiết phải nâng tầm phòng, chống lãng phí ngang hàng với công tác phòng, chống tham nhũng, xem đây là nhiệm vụ chính trị trọng yếu, thường xuyên của cả hệ thống chính trị.

Cùng với đó, Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/6/2024 và Nghị quyết số 218/NQ-CP ngày 12/11/2024 của Chính phủ đã ban hành các chương trình hành động cụ thể hóa chỉ đạo của Bộ Chính trị, đề ra các nhóm giải pháp từ thể chế đến tổ chức thực hiện, nhấn mạnh vai trò của người đứng đầu và trách nhiệm giải trình trong phòng, chống lãng phí tại các bộ, ngành, địa phương [7].

Về phương diện thực tiễn, Chiến lược 806 được ban hành trong bối cảnh Việt Nam đang bước vào giai đoạn chuyển mình mạnh mẽ với định hướng phát triển nhanh và bền vững trên nền tảng đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số và hội nhập quốc tế sâu rộng. Những thành tựu phát triển đạt được trong thời gian qua là đáng ghi nhận, song đi kèm với đó là nguy cơ gia tăng lãng phí dưới nhiều hình thức mới, phức tạp hơn, như: lãng phí trong đầu tư công, quản lý tài sản công, sử dụng lao động công, đầu tư dàn trải, dự án đội vốn, chậm tiến độ, tài nguyên bị khai thác không hiệu quả, hệ thống công quyền cồng kềnh, chồng chéo chức năng...

Lãng phí không chỉ làm thất thoát ngân sách, cạn kiệt tài nguyên, mà còn tạo ra những “khoảng tối pháp lý” - nơi kỷ cương bị xói mòn, lòng tin công chúng bị lung lay và môi trường đầu tư - kinh doanh bị méo mó. Trong khi đó, các quy định pháp luật hiện hành chưa đủ mạnh để nhận diện, ngăn chặn và xử lý hiệu quả các hành vi lãng phí. Nhiều lĩnh vực vẫn chưa có tiêu chí đánh giá định lượng, hệ thống định mức kỹ thuật - tài chính lạc hậu, thiếu thống nhất, dẫn đến khó khăn trong kiểm tra, giám sát.

Do vậy, yêu cầu đặt ra là phải có một chiến lược mang tính định hướng dài hạn, toàn diện, đồng bộ giữa các cấp, các ngành và các lĩnh vực. Chiến lược quốc gia phòng, chống lãng phí đến năm 2035 đã trở thành lời đáp chính sách cho những đòi hỏi cấp thiết đó.

3. Nội dung trọng tâm và cốt lõi của Chiến lược 806

Chiến lược quốc gia về phòng, chống lãng phí đến năm 2035 không chỉ là văn bản định hướng hành động mang tính vĩ mô, mà còn là một tuyên ngôn chính trị - pháp lý thể hiện quyết tâm của Đảng và Nhà nước trong việc đặt công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí lên hàng đầu trong quá trình hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Trên cơ sở đánh giá toàn diện thực trạng và xu thế phát triển, Chiến lược đã đề ra các quan điểm chỉ đạo sâu sắc, mục tiêu cụ thể và hệ thống giải pháp đồng bộ, tạo hành lang pháp lý và định hướng quản trị bền vững trong sử dụng nguồn lực công.

3.1. Quan điểm chỉ đạo: Đổi mới tư duy, pháp quyền hóa phòng, chống lãng phí

Chiến lược xác lập rõ ràng quan điểm: phòng, chống lãng phí là nhiệm vụ trọng yếu, đặt ngang hàng với phòng, chống tham nhũng - tức không chỉ là hành vi vi phạm hành chính hay sai sót trong quản trị, mà là một loại “tội lỗi thể chế” cần được kiểm soát bằng các công cụ pháp luật sắc bén và đồng bộ. Việc tiếp cận vấn đề từ góc độ pháp quyền, thay vì thuần túy hành chính, là điểm đột phá quan trọng của Chiến lược.

Tư duy “phòng ngừa là chính” được quán triệt xuyên suốt, đòi hỏi hệ thống chính trị phải vận hành trên nguyên tắc minh bạch, trách nhiệm giải trình và kiểm soát quyền lực hiệu quả. Phòng, chống lãng phí không thể chỉ dựa vào các phong trào ngắn hạn hay biện pháp kỹ thuật đơn lẻ, mà phải kết hợp hài hòa giữa pháp lý - chính trị - hành chính - tổ chức - công nghệ - kinh tế - tư tưởng. Đặc biệt, chiến lược nhấn mạnh yêu cầu gắn phòng, chống lãng phí với cải cách hành chính, tinh gọn bộ máy, tái cấu trúc thể chế quản lý công và đẩy mạnh chuyển đổi số như một động lực then chốt của quá trình đổi mới quản trị nhà nước [8].

3.2. Mục tiêu: Không chỉ ngăn chặn, mà kiến tạo văn hóa tiết kiệm bền vững

Với tầm nhìn dài hạn đến năm 2035, chiến lược hướng tới việc ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng lãng phí, nhưng hơn thế, là hình thành một văn hóa tiết kiệm quốc gia, ăn sâu vào hệ giá trị của cán bộ, công chức và toàn xã hội. Đây là biểu hiện sinh động của việc xây dựng “đạo đức công vụ” trong nền hành chính hiện đại - nơi pháp luật và đạo đức cùng song hành điều chỉnh hành vi công.

Mục tiêu cụ thể đến năm 2030 là đưa Việt Nam vào nhóm 50 quốc gia hàng đầu về chính phủ điện tử, và đứng thứ 3 trong ASEAN về phát triển kinh tế số - một bước tiến về chất trong lộ trình phát triển bền vững dựa trên hiệu quả sử dụng nguồn lực, năng suất, công nghệ và pháp trị [9].

3.3. Tám nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm: Cấu trúc thể chế chống lãng phí

Chiến lược 806 đề ra tám nhóm nhiệm vụ - giải pháp lớn, vừa mang tính cấu trúc thể chế, vừa có giá trị thực tiễn sâu rộng:

- Hoàn thiện pháp luật: Đây là nền tảng cốt lõi. Chiến lược yêu cầu sửa đổi hàng loạt đạo luật chủ chốt như Luật Ngân sách Nhà nước, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, Luật Quản lý tài sản công, Luật Đầu tư công... theo hướng kiểm soát chặt quyền lực, nâng cao trách nhiệm giải trình và siết chặt kỷ luật pháp lý đối với hành vi gây lãng phí [10].

- Cải cách bộ máy hành chính: Tập trung tinh gọn tổ chức, phân định rõ thẩm quyền - trách nhiệm người đứng đầu; đẩy mạnh phân cấp gắn với kiểm tra, giám sát để bảo đảm trách nhiệm giải trình của từng cấp chính quyền, đặc biệt trong quản lý chi ngân sách, đầu tư công và sử dụng tài sản công [11].

- Nâng cao hiệu quả quản lý nguồn lực công: Chiến lược nhấn mạnh yêu cầu quản lý chặt ngân sách, vốn đầu tư công, tín dụng đầu tư của nhà nước, vốn tại doanh nghiệp nhà nước, dự án hợp tác công - tư (PPP), tài nguyên thiên nhiên... theo nguyên tắc hiệu quả, bền vững và tiết kiệm. Quản trị tài chính công được xem là điểm then chốt để ngăn chặn lãng phí từ gốc [12].

- Đẩy mạnh chuyển đổi số, cải cách thủ tục hành chính: Xây dựng chính phủ số, hệ thống dữ liệu kết nối đồng bộ, giảm chi phí tuân thủ pháp luật cho người dân và doanh nghiệp là giải pháp thực tiễn để thu hẹp “vùng xám” dễ phát sinh lãng phí do chồng chéo, phiền hà, thiếu minh bạch [13].

- Xử lý các dự án kém hiệu quả: Chiến lược yêu cầu “quyết liệt, dứt điểm” đối với các dự án đội vốn, kéo dài, không hiệu quả - vốn là biểu hiện điển hình của lãng phí trong đầu tư công. Việc xử lý phải đi kèm phân loại nguyên nhân, xác định rõ trách nhiệm pháp lý cá nhân để làm rõ tính răn đe và công lý tài chính [14].

- Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, kiểm toán: Tạo lập cơ chế kiểm soát chéo hiệu quả, tăng cường vai trò của Kiểm toán Nhà nước, Thanh tra Chính phủ, Mặt trận Tổ quốc và cộng đồng dân cư trong giám sát quản lý ngân sách, tài sản công và đầu tư công - nơi nguy cơ lãng phí cao nhất [15].

- Phát huy vai trò xã hội - giám sát của Nhân dân: Thúc đẩy truyền thông, giáo dục, các phong trào thi đua tiết kiệm; khuyến khích giám sát xã hội từ báo chí, tổ chức nghề nghiệp và cộng đồng dân cư - các lực lượng có vai trò quan trọng trong phát hiện và lên tiếng với các hành vi lãng phí [16].

- Nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ làm công tác phòng, chống lãng phí: Xây dựng đội ngũ cán bộ chuyên trách vững về chuyên môn, thạo pháp luật, có bản lĩnh chính trị và đạo đức công vụ là điều kiện không thể thiếu để hiện thực hóa Chiến lược.

Tám nhóm nhiệm vụ trên không chỉ đơn thuần là các chương trình hành động, mà là cấu trúc của một thiết chế pháp lý - chính trị hoàn chỉnh nhằm phòng ngừa, phát hiện và xử lý hành vi lãng phí ở mọi cấp độ. Đặc biệt, việc lồng ghép các giải pháp công nghệ và chuyển đổi số vào quản lý tài sản công là bước chuyển hiện đại, phản ánh tư duy phòng, chống lãng phí phù hợp với bối cảnh của Cách mạng công nghiệp 4.0.

4. Điểm mới và đề xuất hoàn thiện pháp luật

Chiến lược quốc gia phòng, chống lãng phí đến năm 2035 không chỉ dừng lại ở việc liệt kê các nhóm nhiệm vụ theo hướng hành động, mà còn là sự đổi mới mang tính bản lề trong cách tiếp cận về pháp lý - chính trị đối với vấn đề lãng phí trong quản trị quốc gia. Tính mới đầu tiên và nổi bật nhất của Chiến lược 806 là sự nhấn mạnh đến văn hóa tiết kiệm như một giá trị nền tảng cho xây dựng đạo đức công vụ, bên cạnh các chế tài và công cụ cưỡng chế pháp lý truyền thống. Bằng cách đặt ra yêu cầu chuyển từ “quản lý bằng mệnh lệnh hành chính” sang “quản lý bằng chuẩn mực giá trị”, Chiến lược đã mở ra một không gian pháp lý mới - nơi tiết kiệm trở thành biểu hiện của tư duy hiện đại, ý thức pháp quyền và phẩm chất chính trị của cán bộ, công chức trong bộ máy nhà nước [17].

Thứ hai, điểm nhấn mang tính đổi mới thể chế của Chiến lược 806 là đề xuất xây dựng và vận hành Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả phòng, chống lãng phí theo ngành, lĩnh vực và địa phương. Đây là công cụ kiểm soát định lượng mang tính định hướng hành vi, nhằm nâng cao tính minh bạch, trách nhiệm giải trình và hiệu quả trong quản lý nhà nước. Việc hình thành bộ chỉ số này không chỉ giúp các cơ quan chức năng phát hiện và can thiệp sớm các nguy cơ lãng phí, mà còn là cơ sở pháp lý - kỹ thuật để đánh giá trách nhiệm cá nhân, tổ chức theo kết quả đầu ra, thay vì chỉ dừng ở đầu vào hoặc quy trình [18]. Bộ chỉ số này cần được tích hợp vào hệ thống chỉ tiêu quốc gia, được số hóa và cập nhật định kỳ để đảm bảo khả năng giám sát độc lập, liên tục và phản ánh khách quan thực trạng quản trị công.

Thứ ba, Chiến lược đặc biệt nhấn mạnh yêu cầu quy định rõ trách nhiệm cá nhân, nhất là trách nhiệm của người đứng đầu, như một yếu tố mang tính “then chốt pháp lý” trong phòng, chống lãng phí. Đây là bước tiến cần thiết để khắc phục triệt để tình trạng “trách nhiệm tập thể”, “vô danh pháp lý” - vốn đã và đang làm suy yếu năng lực cưỡng chế và răn đe của hệ thống pháp luật hiện hành [19]. Việc khẳng định nguyên tắc truy cứu trách nhiệm cá nhân trước pháp luật sẽ tạo động lực và rào cản đủ mạnh để ngăn ngừa lãng phí ngay từ khâu ra quyết định, phê duyệt và tổ chức thực hiện chính sách.

Từ những yêu cầu đặt ra trong Chiến lược 806, có thể khẳng định: Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí năm 2013 đã đến thời điểm cần sửa đổi, bổ sung một cách căn cơ và toàn diện. Dự thảo sửa đổi luật hiện nay cần tiếp cận theo hướng: (i) tăng tính khả thi và cụ thể hóa các hành vi bị cấm, mức độ vi phạm; (ii) bổ sung chế tài hành chính, dân sự, thậm chí hình sự đối với hành vi lãng phí nghiêm trọng; (iii) xây dựng cơ chế cảnh báo sớm, đánh giá định lượng và truy trách nhiệm rõ ràng; (iv) tăng cường công cụ kiểm tra, kiểm toán chuyên đề về lãng phí; và (v) thiết lập hệ thống thông tin, dữ liệu quốc gia để quản lý rủi ro lãng phí theo thời gian thực [20].

5. Kết luận

Chiến lược quốc gia phòng, chống lãng phí đến năm 2035 là sự thể hiện nhất quán quan điểm chỉ đạo của Đảng, pháp luật của Nhà nước và đòi hỏi từ thực tiễn quản trị quốc gia hiện đại. Không chỉ là một bản kế hoạch hành động mang tính hành chính thuần túy, Chiến lược còn là cam kết pháp lý - chính trị sâu sắc về xây dựng một nền công vụ liêm chính, tiết kiệm và có trách nhiệm. Chiến lược mở đường cho sự chuyển đổi quan trọng trong phương thức điều hành - từ định lượng nguồn lực sang định lượng hiệu quả; từ kiểm tra nội bộ sang giám sát xã hội; từ mệnh lệnh hành chính sang pháp quyền.

Trong tiến trình đó, giới luật sư - với tư cách là lực lượng nòng cốt trong phản biện chính sách, bảo vệ công lý và thúc đẩy pháp quyền - cần phát huy vai trò của mình một cách mạnh mẽ hơn nữa. Luật sư không chỉ là người đại diện cho pháp luật tại tòa án, mà còn là chủ thể phản biện chính sách, tham gia góp ý xây dựng pháp luật, đồng hành cùng Nhà nước trong tuyên truyền, phổ biến, giám sát thực hiện Chiến lược. Việc nâng cao nhận thức pháp lý trong xã hội về tiết kiệm - chống lãng phí không thể chỉ dựa vào bộ máy nhà nước, mà cần cả “trí tuệ xã hội hóa” từ những người hành nghề luật, trong đó luật sư giữ vai trò trung tâm.

Thực hiện thành công Chiến lược này sẽ không chỉ nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, tiết kiệm ngân sách quốc gia, mà còn là điều kiện tiên quyết để khẳng định giá trị của Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam: một nhà nước của dân, do dân và vì dân - nơi mọi nguồn lực công được sử dụng công khai, minh bạch, đúng mục đích và vì lợi ích tối cao của quốc gia, dân tộc.

Tài liệu tham khảo:

[1] [4] Quốc hội (2013), Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí số 44/2013/QH13 ngày 26/11/2013.

[2] [6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), Chỉ thị số 27-CT/TW ngày 25/12/2023 của Bộ Chính trị về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

[3] Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 04-NQ/TW ngày 21/8/2006 và Kết luận số 21-KL/TW ngày 25/5/2012.

[5] Quốc hội (2022), Nghị quyết số 74/2022/QH15 ngày 15/11/2022 đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

[7] Chính phủ, Nghị quyết số 98/NQ-CP ngày 26/6/2024 và Nghị quyết số 218/NQ-CP ngày 12/11/2024.

[8] Thủ tướng Chính phủ (2025), Quyết định số 806/QĐ-TTg ngày 22/4/2025 ban hành Chiến lược quốc gia phòng, chống lãng phí đến năm 2035.

[9] Chính phủ (2025), Nghị quyết số 03/NQ-CP ngày 09/01/2025 về chương trình hành động thực hiện chuyển đổi số quốc gia.

[10] Bộ Tài chính (2025), Dự thảo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi).

[11] Bộ Nội vụ (2025), Kế hoạch số 47-KH/BCĐ ngày 14/4/2025 về sắp xếp đơn vị hành chính và tổ chức chính quyền địa phương hai cấp.

[12] Kiểm toán Nhà nước, Báo cáo tổng hợp kết quả kiểm toán ngân sách nhà nước năm 2024.

[13] Văn phòng Chính phủ, Cổng Dịch vụ công quốc gia - Thống kê cải cách thủ tục hành chính 2024.

[14] Quốc hội (2024), Nghị quyết số 170/2024/QH15 ngày 15/11/2022 đẩy mạnh việc thực hiện chính sách, pháp luật về thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

[15] Thanh tra Chính phủ (2024), Báo cáo công tác thanh tra chuyên đề diện rộng về đầu tư công.

[16] Mặt trận Tổ quốc Việt Nam (2023), Đề án tăng cường giám sát xã hội trong quản lý tài chính công.

[17] Bộ Nội vụ (2024), Báo cáo tổng kết 10 năm thực hiện Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí.

[18] Bộ Tài chính (2025), Đề án xây dựng Bộ chỉ số đánh giá hiệu quả quản lý, sử dụng tài sản công giai đoạn 2025 - 2035.

[19] Thanh tra Chính phủ (2024), Khuyến nghị về chế tài trách nhiệm cá nhân trong phòng, chống lãng phí, Tạp chí Thanh tra, số 4/2024.

[20] Ủy ban Pháp luật Quốc hội (2025), Dự thảo Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí (sửa đổi).

LÊ HÙNG

Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh

BÙI NGUYÊN PHÚC

Cục 4, Thanh tra Chính phủ

Các tin khác