/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Chính sách của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân giai đoạn 1986 - 2025: Nhận thức, thể chế và động lực phát triển

Chính sách của Nhà nước đối với kinh tế tư nhân giai đoạn 1986 - 2025: Nhận thức, thể chế và động lực phát triển

26/05/2025 06:42 |15 ngày trước

(LSVN) - Kể từ khi tiến hành công cuộc Đổi mới năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã có những chuyển biến quan trọng trong nhận thức và hoạch định chính sách đối với khu vực kinh tế tư nhân. Từ chỗ còn định kiến và giới hạn vai trò, đến nay kinh tế tư nhân đã được khẳng định là một trong những động lực quan trọng, thậm chí quan trọng nhất của nền kinh tế. Bài viết hệ thống hóa sự phát triển chính sách của Đảng qua các thời kỳ, từ đó rút ra những nhận định về xu thế thể chế hóa vai trò kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở Việt Nam hiện nay.

1. Đặt vấn đề

Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong tiến trình phát triển ấy, việc xác định đúng đắn vai trò của các thành phần kinh tế, nhất là kinh tế tư nhân - một bộ phận quan trọng, năng động của nền kinh tế - là yêu cầu khách quan, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế sâu rộng. Từ thực tiễn và yêu cầu của công cuộc đổi mới, Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước đổi mới tư duy lý luận, bổ sung và hoàn thiện các quan điểm, chủ trương lớn về phát triển kinh tế tư nhân, phù hợp với điều kiện thực tế của đất nước và xu thế phát triển của thời đại.

Trong bối cảnh chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, Đảng đã thể hiện bản lĩnh chính trị và năng lực tư duy lý luận sắc bén khi chủ động từng bước tháo gỡ các định kiến, rào cản đối với khu vực kinh tế tư nhân, từng bước đưa khu vực này trở thành một bộ phận cấu thành quan trọng của nền kinh tế quốc dân. Đại hội VI của Đảng năm 1986 là dấu mốc mở đầu cho sự chuyển hướng mạnh mẽ trong nhận thức về vai trò của kinh tế tư nhân, với chủ trương phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, trong đó có kinh tế cá thể, tiểu chủ - tiền đề cho việc nhìn nhận lại vị thế và vai trò của khu vực tư nhân trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội đất nước [1].

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet. 

Quá trình hoạch định và thực thi chính sách đối với kinh tế tư nhân trong gần 40 năm qua vừa là sự phát triển biện chứng của tư duy lý luận của Đảng, vừa là sự thích ứng linh hoạt với yêu cầu của thực tiễn. Nếu như trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, kinh tế tư nhân mới chỉ được thừa nhận như một yếu tố bổ trợ, cần kiểm soát thì đến các giai đoạn sau - đặc biệt là từ sau Đại hội IX (2001) và nhất là sau Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII (2017) - Đảng đã khẳng định mạnh mẽ rằng kinh tế tư nhân là “một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [2].

Sự phát triển về quan điểm lý luận của Đảng đối với kinh tế tư nhân cũng đi đôi với những chuyển động mang tính thể chế hóa ngày càng sâu rộng. Luật Doanh nghiệp qua các lần sửa đổi (1999, 2005, 2014, 2020), Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, cùng hàng loạt nghị quyết, chiến lược, chương trình hỗ trợ khu vực tư nhân đã và đang từng bước tạo lập khung khổ pháp lý và môi trường kinh doanh thuận lợi hơn, khơi thông các nguồn lực xã hội và phát huy tinh thần khởi nghiệp, sáng tạo của người dân và doanh nghiệp.

Tuy nhiên, cần thẳng thắn nhìn nhận rằng sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân ở Việt Nam vẫn chưa tương xứng với tiềm năng và kỳ vọng. Năng lực cạnh tranh còn yếu, quy mô doanh nghiệp còn nhỏ và siêu nhỏ chiếm đa số, khả năng tham gia vào chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu còn thấp. Những bất cập trong thể chế, chính sách và tổ chức thực hiện - đặc biệt là về bảo đảm quyền bình đẳng trong tiếp cận nguồn lực, đất đai, tín dụng, thông tin... - vẫn đang là rào cản lớn đối với sự phát triển lành mạnh, bền vững của khu vực này.

Trước yêu cầu mới của thời kỳ phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn 2045, cùng với những thách thức to lớn từ quá trình chuyển đổi số, kinh tế xanh, phát triển bền vững và hội nhập quốc tế sâu rộng, việc tiếp tục hoàn thiện chính sách phát triển kinh tế tư nhân là một yêu cầu cấp thiết, mang tính chiến lược. Đây không chỉ là vấn đề kinh tế - kỹ thuật, mà còn là biểu hiện sinh động của việc vận dụng sáng tạo và phát triển lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN ở Việt Nam.

Với cách tiếp cận tổng thể, bài viết này tập trung phân tích sự phát triển nhất quán trong tư duy, thể chế và chính sách của Đảng đối với kinh tế tư nhân qua các giai đoạn 1986 - 2025. Qua đó, khẳng định sự vận động nội tại, khoa học và biện chứng của Đảng trong việc khơi dậy, phát huy và đưa kinh tế tư nhân trở thành một trong những động lực quan trọng nhất cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nước trong thời kỳ mới.

2. Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với kinh tế tư nhân giai đoạn 1986 - 2025: Nhận thức đổi mới, hoàn thiện thể chế và thúc đẩy động lực phát triển

Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với kinh tế tư nhân từ năm 1986 đến nay là quá trình chuyển biến sâu sắc cả về nhận thức lý luận, định hướng chiến lược lẫn thực tiễn thể chế hóa và tổ chức thực hiện. Từ một khu vực kinh tế từng bị xem là thứ yếu, tạm thời, kinh tế tư nhân ngày nay đã được xác lập là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Đây là hành trình nhất quán nhưng mang tính cải cách đột phá, phản ánh tư duy đổi mới không ngừng của Đảng trước yêu cầu phát triển đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập và cạnh tranh khốc liệt.

2.1. Giai đoạn 1986 - 2000: Thừa nhận và mở đường

Sau một thời kỳ dài xây dựng nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung, với định kiến sâu sắc về khu vực kinh tế tư nhân, Đại hội VI của Đảng (1986) đã mở ra một thời kỳ đổi mới toàn diện, trong đó có việc thừa nhận sự tồn tại khách quan và tất yếu của nền kinh tế nhiều thành phần. Kinh tế tư nhân, từ vị trí bên lề, đã được nhìn nhận như một bộ phận cấu thành trong tổng thể nền kinh tế quốc dân. Tuy nhiên, trong giai đoạn này, nhận thức vẫn mang tính dè dặt, còn chịu ảnh hưởng của tư duy “quản lý - kiểm soát” truyền thống. Kinh tế tư nhân được cho là mang tính bổ sung, phục vụ những phần việc mà khu vực nhà nước chưa thể bao phủ hết, và chưa được xem là một động lực phát triển dài hạn [7].

Tuy vậy, những bước đi chính sách đầu tiên đã có tác dụng “mở đường”. Đại hội VII (1991) và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã đánh dấu bước tiến mới khi xác định: “Kinh tế tư nhân là một bộ phận quan trọng của nền kinh tế” [8]. Cùng với đó, việc ban hành Luật Doanh nghiệp tư nhân và Luật Công ty năm 1990 là những nỗ lực thể chế hóa, tạo dựng khung pháp lý ban đầu cho khu vực tư nhân hoạt động hợp pháp và từng bước phát triển [9]. Đây là tiền đề quan trọng cho giai đoạn cải cách thể chế sâu rộng sau này.

2.2. Giai đoạn 2001 - 2016: Khuyến khích phát triển và cải cách thể chế

Bước sang thế kỷ XXI, sự nghiệp đổi mới bước vào giai đoạn phát triển mạnh mẽ. Tại Đại hội IX (2001), Đảng đã lần đầu tiên khẳng định một cách rõ ràng: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực của nền kinh tế” [10]. Đây là bước phát triển vượt bậc về mặt lý luận, thể hiện nhận thức ngày càng sâu sắc về vai trò thiết yếu của khu vực tư nhân trong thúc đẩy tăng trưởng, tạo việc làm và huy động nguồn lực xã hội cho phát triển.

Từ Đại hội X (2006) đến Đại hội XI (2011), Đảng tiếp tục nhấn mạnh vai trò của kinh tế tư nhân như một cấu phần quan trọng trong cơ cấu nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Trong thực tiễn, Nhà nước đã đẩy mạnh cải cách thể chế, ban hành Luật Doanh nghiệp 2005 và hàng loạt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa, đổi mới thủ tục đăng ký kinh doanh, thu hút đầu tư tư nhân trong nhiều lĩnh vực, từ sản xuất đến hạ tầng, dịch vụ [11].

Tuy nhiên, giai đoạn này cũng bộc lộ nhiều điểm nghẽn. Tư duy phân biệt, phân bổ nguồn lực không công bằng giữa các thành phần kinh tế vẫn còn tồn tại. Nhiều doanh nghiệp tư nhân gặp khó khăn trong tiếp cận vốn, đất đai, thông tin thị trường; trong khi đó, khu vực doanh nghiệp nhà nước vẫn giữ vai trò chi phối ở nhiều lĩnh vực then chốt, dẫn đến sự cạnh tranh không bình đẳng [12]. Những bất cập này cho thấy cần có một cú hích chính sách toàn diện, rõ ràng hơn để khu vực kinh tế tư nhân thực sự trở thành động lực phát triển quốc gia.

2.3. Giai đoạn 2017 - 2025: Khẳng định là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế

Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII (Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017) được xem là dấu mốc chiến lược trong tư duy và chính sách của Đảng đối với kinh tế tư nhân. Lần đầu tiên, Đảng xác định rõ ràng: “Phát triển kinh tế tư nhân thực sự trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN” [13]. Đây không chỉ là một tuyên bố chính trị, mà còn là sự thể hiện quyết tâm cải cách thể chế, tháo gỡ rào cản để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ, lành mạnh và bền vững.

Nghị quyết đã đề ra các chủ trương đột phá như: đảm bảo bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển giữa các thành phần kinh tế; xây dựng môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn; hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân đổi mới sáng tạo, phát triển sản phẩm có giá trị gia tăng cao; thúc đẩy hình thành các tập đoàn tư nhân có quy mô lớn, năng lực cạnh tranh khu vực và toàn cầu [14]. Đồng thời, yêu cầu đặt ra là phát triển doanh nhân Việt Nam có đạo đức kinh doanh, tinh thần dân tộc và trách nhiệm xã hội.

Đặc biệt, tại Đại hội XIII của Đảng (2021), vấn đề phát triển kinh tế tư nhân tiếp tục được khẳng định là một trụ cột chiến lược trong mô hình phát triển kinh tế quốc gia. Văn kiện Đại hội xác định nhiệm vụ: “Phát triển mạnh mẽ kinh tế tư nhân cả về số lượng, chất lượng, hiệu quả và bền vững; phấn đấu đến năm 2030, có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp; một số doanh nghiệp tư nhân có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế” [15].

Đỉnh cao của nhận thức và hoạch định chính sách về kinh tế tư nhân được thể hiện rõ nét trong Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị. Nghị quyết nhấn mạnh: “Kinh tế tư nhân là một trong những động lực quan trọng nhất của nền kinh tế”; đặt ra mục tiêu đến năm 2045, Việt Nam có khoảng 3 triệu doanh nghiệp, khu vực tư nhân đóng góp trên 60% GDP, hình thành một số tập đoàn kinh tế tư nhân lớn, có thương hiệu quốc tế, dẫn dắt đổi mới sáng tạo và phát triển công nghệ [16]. Nghị quyết cũng nhấn mạnh việc hoàn thiện thể chế về quyền sở hữu, quyền tự do kinh doanh, tăng cường khuyến khích đầu tư tư nhân vào các lĩnh vực công nghệ cao, công nghiệp nền tảng, dịch vụ chất lượng cao, đồng thời thúc đẩy tinh thần liêm chính và trách nhiệm xã hội trong giới doanh nhân.

Như vậy, qua gần 40 năm đổi mới, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với kinh tế tư nhân đã từng bước phát triển từ nhận thức ban đầu mang tính “thừa nhận và bổ sung” sang “khuyến khích và hỗ trợ”, và hiện nay là “xác lập động lực chiến lược”. Những chuyển biến này không chỉ tạo cơ sở lý luận và pháp lý quan trọng, mà còn thể hiện năng lực thích ứng và tư duy đổi mới sâu sắc của Đảng trong tổ chức nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

3. Một số nhận định và gợi mở chính sách phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn 1986 - 2025

3.1. Nhận định có tính chính luận về quá trình phát triển tư duy, thể chế và động lực đối với kinh tế tư nhân

Chặng đường gần bốn thập niên đổi mới vừa qua đã chứng kiến sự chuyển biến sâu sắc và nhất quán trong tư duy lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam về vai trò và vị trí của khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Từ chỗ bị coi là thành phần kinh tế “tự phát”, “phi XHCN”, bị hạn chế trong nhiều chính sách giai đoạn trước Đổi mới, đến nay, kinh tế tư nhân đã được xác định rõ là “một động lực quan trọng của nền kinh tế” theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 5 khóa XII năm 2017 và được tiếp tục khẳng định tại các văn kiện Đại hội XIII của Đảng. Đây là bước phát triển lý luận có tính đột phá, phản ánh sự trưởng thành vượt bậc trong nhận thức của Đảng về kinh tế thị trường định hướng XHCN - một mô hình đặc thù mà Việt Nam kiên định lựa chọn và từng bước hoàn thiện[17].

Chính sách của Đảng đối với kinh tế tư nhân ngày càng trở nên rõ ràng, đồng bộ, và có tầm chiến lược cao. Từ việc xóa bỏ định kiến, bảo đảm quyền sở hữu và quyền kinh doanh của các chủ thể tư nhân, đến xây dựng cơ chế hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa, thúc đẩy khởi nghiệp sáng tạo, tăng cường tiếp cận vốn, đất đai, và các yếu tố đầu vào cho sản xuất, Đảng đã đặt khu vực kinh tế tư nhân vào trung tâm của chiến lược phát triển quốc gia. Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định định hướng phát triển kinh tế tư nhân trở thành “một động lực quan trọng”, với mục tiêu đến năm 2030 có ít nhất 2 triệu doanh nghiệp, trong đó có nhiều tập đoàn kinh tế tư nhân có năng lực cạnh tranh khu vực và quốc tế[18].

Tuy nhiên, bên cạnh những chuyển biến tích cực về nhận thức và chính sách, vẫn tồn tại những khoảng cách không nhỏ giữa định hướng của Đảng và thực tiễn triển khai trong hệ thống pháp luật và điều hành kinh tế. Nhiều chính sách vẫn còn độ trễ trong thực thi; thủ tục hành chính dù đã cải cách nhưng còn rườm rà; môi trường kinh doanh chưa thực sự minh bạch và bình đẳng. Đặc biệt, việc tiếp cận các nguồn lực thiết yếu như đất đai, vốn tín dụng, thông tin thị trường... của doanh nghiệp tư nhân vẫn gặp nhiều rào cản do sự bất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế, tình trạng “xin - cho”, nhũng nhiễu trong một số bộ phận công quyền và thiết chế thực thi pháp luật yếu kém [19]. Những hạn chế này không chỉ làm suy giảm niềm tin của khu vực tư nhân, mà còn là lực cản lớn cho việc hình thành một khu vực doanh nghiệp tư nhân phát triển mạnh cả về số lượng lẫn chất lượng.

3.2. Gợi mở một số định hướng, giải pháp chính sách trọng tâm cho giai đoạn tiếp theo

Để kinh tế tư nhân thực sự phát triển trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN trong giai đoạn tới, cần tiếp tục kiên định và hành động quyết liệt theo các định hướng chiến lược sau:

Thứ nhất, tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng XHCN, trong đó trọng tâm là bảo đảm đầy đủ quyền tự do kinh doanh, quyền bình đẳng trong tiếp cận các nguồn lực phát triển như đất đai, vốn, tài nguyên và thông tin. Cần khắc phục triệt để tình trạng phân biệt đối xử, ưu ái doanh nghiệp nhà nước hoặc nhóm lợi ích, gây méo mó cạnh tranh và làm mất động lực phát triển của khu vực tư nhân [20].

Thứ hai, xây dựng và phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo hoàn chỉnh, bao gồm: cơ chế chính sách khuyến khích đổi mới sáng tạo; quỹ đầu tư mạo hiểm; tổ chức ươm tạo khởi nghiệp; hệ thống kết nối doanh nghiệp - viện nghiên cứu - trường đại học; đồng thời hỗ trợ mạnh mẽ doanh nghiệp tư nhân chuyển đổi số, áp dụng công nghệ cao, hướng tới nền kinh tế xanh và kinh tế tuần hoàn. Điều này không chỉ nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia mà còn giúp Việt Nam nhanh chóng thích ứng với các xu hướng phát triển mới của thế giới [21].

Thứ ba, chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có bản lĩnh chính trị, đạo đức kinh doanh, tinh thần dân tộc, có trình độ quản trị hiện đại, và tầm nhìn chiến lược. Đội ngũ doanh nhân là một lực lượng quan trọng trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, là cầu nối giữa lý tưởng XHCN và hiệu quả kinh tế. Do đó, cần xây dựng các chương trình đào tạo doanh nhân cấp quốc gia, thúc đẩy văn hóa kinh doanh chân chính, trách nhiệm xã hội và đổi mới sáng tạo [22].

Thứ tư, hoàn thiện các thiết chế kiểm soát quyền lực nhà nước, tăng cường công khai, minh bạch, phòng, chống tham nhũng, lợi ích nhóm và các biểu hiện tiêu cực trong quản lý nhà nước, đặc biệt là trong các lĩnh vực liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp tư nhân. Tạo lập môi trường kinh doanh cạnh tranh công bằng, minh bạch, có trách nhiệm, để khu vực tư nhân phát triển lành mạnh, đúng hướng, đóng góp tích cực vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [23].

Thứ năm, cần tăng cường sự phối hợp giữa các cấp ủy Đảng, chính quyền và Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội trong giám sát quá trình thực thi chính sách phát triển kinh tế tư nhân. Đồng thời, cần tiếp tục lắng nghe tiếng nói từ cộng đồng doanh nghiệp tư nhân, qua đó điều chỉnh kịp thời các chính sách cho sát với thực tiễn, hạn chế tình trạng chính sách “trên nóng dưới lạnh” kéo dài [24].

Phát triển kinh tế tư nhân trong giai đoạn 1986 - 2025 là một minh chứng điển hình cho sự đổi mới tư duy lý luận, năng lực hoạch định chính sách và bản lĩnh cách mạng của Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc kết hợp nhuần nhuyễn giữa lý tưởng XHCN với thực tiễn vận hành nền kinh tế thị trường. Đây không chỉ là một quá trình kinh tế, mà còn là một quá trình chính trị, xã hội và văn hóa sâu rộng, đòi hỏi sự kiên định về nguyên tắc, linh hoạt trong tổ chức thực hiện và quyết liệt trong hành động. Trong bối cảnh mới, việc phát huy vai trò của kinh tế tư nhân cần tiếp tục được coi là một trong những nhiệm vụ chiến lược quan trọng hàng đầu để thực hiện khát vọng phát triển đất nước phồn vinh, hạnh phúc, vươn lên thành nước phát triển vào giữa thế kỷ XXI như mục tiêu Đại hội XIII đã xác định [25].

4. Kết luận

Chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với kinh tế tư nhân trong giai đoạn 1986 - 2025 là một quá trình vận động, phát triển không ngừng, phản ánh sự đổi mới sâu sắc và toàn diện về tư duy lý luận, định hướng chiến lược cũng như tổ chức thực tiễn phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Từ những bước khởi đầu thận trọng, mang tính thử nghiệm trong bối cảnh bao cấp còn đè nặng, đến việc chính thức thừa nhận, bảo đảm quyền hoạt động của kinh tế tư nhân, và cao hơn nữa là xác định khu vực này là một trong những động lực quan trọng của nền kinh tế quốc dân - tất cả đều cho thấy tầm nhìn chính trị sâu sắc, khả năng tự đổi mới của Đảng và sự nhạy bén trong lãnh đạo phát triển đất nước.

Việc từng bước thể chế hóa vai trò, vị trí của kinh tế tư nhân trong hệ thống pháp luật và cơ chế quản lý nhà nước là minh chứng rõ nét cho nỗ lực hiện thực hóa tinh thần của các nghị quyết Trung ương và các văn kiện Đại hội Đảng qua các thời kỳ. Chính sách phát triển kinh tế tư nhân không chỉ là câu chuyện kinh tế, mà còn là kết tinh của sự thích ứng chính trị, cải cách thể chế và kiến tạo động lực phát triển quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa và chuyển đổi số.

Tuy nhiên, để kinh tế tư nhân thực sự phát triển đúng tầm, trở thành một trụ cột vững chắc trong nền kinh tế và là động lực then chốt thúc đẩy tăng trưởng nhanh, bền vững, đòi hỏi Đảng và Nhà nước tiếp tục hoàn thiện thể chế, cải thiện môi trường kinh doanh, đảm bảo cạnh tranh công bằng, đồng thời nâng cao chất lượng nguồn nhân lực và đạo đức doanh nhân, qua đó hình thành một cộng đồng doanh nghiệp tư nhân vừa có năng lực hội nhập quốc tế, vừa gắn bó trách nhiệm với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.

Tổng kết lại, chính sách của Đảng đối với kinh tế tư nhân từ năm 1986 đến năm 2025 không chỉ là biểu hiện sinh động của tinh thần đổi mới và sáng tạo trong tư duy phát triển, mà còn là nền tảng quan trọng cho chiến lược phát triển đất nước đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 - xây dựng nước Việt Nam hùng cường, thịnh vượng, dân chủ, công bằng và văn minh.

Tài liệu tham khảo, trích dẫn

[1] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật, Hà Nội.

[2] [13] [18] Đảng Cộng sản Việt Nam (2017), Nghị quyết số 10-NQ/TW ngày 03/6/2017 của Hội nghị Trung ương 5 khóa XII về phát triển kinh tế tư nhân trở thành một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN.

[3] [15] [25] Đảng Cộng sản Việt Nam (2021), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng lần thứ XIII, tập I, II, Nxb CTQGST, Hà Nội.

[4] [16] Đảng Cộng sản Việt Nam (2025), Nghị quyết số 68-NQ/TW ngày 04/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân.

[5] Quốc hội, Luật Doanh nghiệp (1999, 2005, 2014, 2020); Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa (2017).

[6] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Báo cáo của Ban Kinh tế Trung ương tổng kết 15 năm thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa IX về tiếp tục đổi mới cơ chế, chính sách, khuyến khích và tạo điều kiện phát triển kinh tế tư nhân.

[7] Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.

[8] Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb CTQG, Hà Nội.

[9] Quốc hội (1990), Luật Doanh nghiệp tư nhân số 48-LCT/HĐNN8 ngày 21/12/1990 và Luật Công ty số 47-LCT/HĐNN8 ngày 21/12/1990.

[10] Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng, Nxb CTQGST, Hà Nội.

[11] Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp số 60/2005/QH11 ngày 29/11/2005.

[12] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Báo cáo của Ban Kinh tế Trung ương tổng kết 30 năm đổi mới kinh tế tư nhân.

[14] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2020), Báo cáo đánh giá 3 năm thực hiện Nghị quyết 10-NQ/TW.

[17] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nxb CTQGST, Hà Nội.

[19] Đảng Cộng sản Việt Nam (2022), Báo cáo tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 10-NQ/TW của Ban Kinh tế Trung ương.

[20] Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2023), Sách trắng doanh nghiệp Việt Nam, Nxb Thống kê, Hà Nội.

[21] Bộ Khoa học và Công nghệ (2023), Báo cáo hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam.

[22] Hội đồng Lý luận Trung ương (2022), Báo cáo chuyên đề về vai trò đội ngũ doanh nhân trong thời kỳ mới.

[23] Đảng Cộng sản Việt Nam (2023), Báo cáo của Ban Nội chính Trung ương đánh giá công tác phòng, chống tham nhũng trong khu vực kinh tế tư nhân.

[24] VCCI (2023), Báo cáo Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) năm 2023.

LÊ HÙNG

Các tin khác