CHƯA ĐĂNG

17/03/2022 03:26 |

(LSVN) -

1. Quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi

(LSVN) - Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

Ảnh minh họa.

Vừa qua, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao, Chánh án Tòa án nhân dân Tối cao, Bộ trưởng Bộ Công an, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội đã ký ban hành Thông tư liên tịch số 01/2022/TTLT-VKSNDTC-TANDTC-BCA-BQP-BLĐTBXH ngày 18/02/2022 về phối hợp giữa các cơ quan có thẩm quyền trong tiếp nhận, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử sơ thẩm các vụ án xâm hại tình dục người dưới 18 tuổi. Trong đó, quy định về phối hợp trong việc lấy lời khai, hỏi cung người tham gia tố tụng dưới 18 tuổi.

Cụ thể, việc lấy lời khai người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại Điều 188, Điều 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự và Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018.

Trường hợp người bị xâm hại tình dục dưới 18 tuổi có biểu hiện bất thường, hoảng loạn về tâm lý, Điều tra viên có thể mời thêm người thân trong gia đình, đại diện nhà trường, chuyên gia tâm lý, đại diện cơ quan Lao động - Thương binh và Xã hội hoặc các tổ chức, cá nhân khác tham gia khi lấy lời khai để phối hợp hỗ trợ ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục. Người được mời tham gia có trách nhiệm phối hợp, hỗ trợ Điều tra viên ổn định tâm lý cho người bị xâm hại tình dục và phải giữ bí mật thông tin liên quan đến việc lấy lời khai.

Hoạt động lấy lời khai người làm chứng, người bị tố giác, người bị kiến nghị khởi tố, người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can là người dưới 18 tuổi được thực hiện theo quy định tại các điều 183, 186, 421 của Bộ luật Tố tụng hình sự, Điều 14 Thông tư liên tịch số 06/2018 và quy định tương ứng tại khoản 1 Điều này.

Kiểm sát viên kiểm sát chặt chẽ việc lấy lời khai, hỏi cung của Điều tra viên; nếu thấy lời khai chưa rõ, còn mâu thuẫn, không phù hợp với các tài liệu, chứng cứ khác thì yêu cầu Điều tra viên lấy lời khai, hỏi cung bổ sung; nếu phát hiện có vi phạm trong việc lấy lời khai, hỏi cung thì yêu cầu Điều tra viên khắc phục ngay. Điều tra viên có trách nhiệm thực hiện các yêu cầu của Kiểm sát viên. Nếu thấy cần thiết, Kiểm sát viên trực tiếp lấy lời khai, hỏi cung. Điều tra viên có trách nhiệm hỗ trợ, tạo điều kiện để Kiểm sát viên lấy lời khai, hỏi cung theo quy định pháp luật.

Trường hợp cần ghi lời khai người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, hỏi cung bị can đang bị tạm giam, Điều tra viên phối hợp cung cấp cho Kiểm sát viên biết về diễn biến tâm lý, thái độ của người bị giữ trong trường hợp khẩn cấp, người bị bắt, người bị tạm giữ, bị can và các thông tin liên quan để phục vụ việc lấy lời khai và hỏi cung.

TIẾN HƯNG

Thực hiện dự án xử lý rác thải có phải thành lập doanh nghiệp không?

2. Hoàn thiện một số vấn đề về tội ‘Vô ý làm chết người’

(LSVN) - Bài viết chỉ ra cấu thành tội "Vô ý làm chết người", phân tích các hạn chế, vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật của tội phạm này. Từ đó kiến nghị một số biện pháp hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật; tăng cường đấu tranh, phòng, chống tội phạm.

Ảnh minh họa.

Quyền sống là quyền thiêng liêng và cao quý của con người. Vì thế, ngoài việc quy định các hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người khác, pháp luật hình sự còn ghi nhận hành vi vô ý làm chết người cũng phải chịu trách nhiệm hình sự. Quy định này là hợp lý, tuy nhiên thực tiễn áp dụng còn gặp phải một số vướng mắc cần được nghiên cứu sửa đổi, bổ sung.

1. Các yếu tố cấu thành tội "Vô ý làm chết người"

Khách thể: Tội "Vô ý làm chết người" xâm phạm đến quyền sống của con người, khách thể trực tiếp của tội này là quyền sống hay còn gọi là quyền được tôn trọng, bảo vệ tính mạng của con người.

Mặt khách quan: Hành vi khách quan của tội này là hành vi vi phạm các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người, qua đó gây hậu quả chết người. Các quy tắc bảo đảm an toàn tính mạng con người có thể thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau, có thể đã được quy định, cũng có thể chỉ là những quy tắc xử sự trong xã hội thông thường mà mọi người đều biết và thừa nhận.

Hậu quả chết người là dấu hiệu bắt buộc trong mặt khách quan của tội này. Hành vi khách quan thuộc cấu thành tội này phải dẫn đến hậu quả chết người, mối quan hệ nhân quả phải được làm rõ và là dấu hiệu bắt buộc.

Tuy nhiên, cần chú ý nếu hành vi vi phạm quy tắc an toàn thuộc một số lĩnh vực và gây hậu quả chết người nhưng đã được quy định thành các tội riêng thì người thực hiện hành vi đó phải bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng mà không bị xử lý về tội "Vô ý làm chết người".

Chủ thể: Chủ thể của tội này là người có năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS).

Mặt chủ quan: Người phạm tội thực hiện tội phạm với lỗi vô ý, bao gồm vô ý vì cẩu thả và vô ý vì quá tự tin.

2. Một số vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật tội "Vô ý làm chết người".

Vướng mắc trong định tội danh:

Xuất phát từ thực tiễn đa dạng của hành vi khách quan trong tội "Vô ý làm chết người", việc quy định như Điều 128 BLHS là hợp lý. Tuy nhiên, quá trình giải quyết vụ án, cần xác định quy tắc an toàn nào đã bị vi phạm, nhưng các quy tắc đó không phải lúc nào cũng được quy định, xác định rõ ràng, cụ thể. Do đó, nhiều trường hợp còn vướng mắc, tồn tại nhiều quan điểm khác nhau.

Ví dụ: Khoảng 11h00 ngày 12/02/2021, A (chiến sỹ) thực hiện nhiệm vụ trực gác tại đơn vị thì trời mưa, B từ phòng nghỉ đơn vị chạy ra giúp A đưa đồ vào trong phòng trực gác rồi ngồi lại cùng nói chuyện. Quá trình nói chuyện A cầm súng, đột nhiên A nói với B: “Mày dám bóp cò không B” rồi cầm súng bằng hai tay, nòng súng kề vào ngực mình, báng súng quay về phía B. Thấy A vừa nói vừa cười, nghĩ A nói đùa và trong súng không có đạn (về nguyên tắc súng gác không có đạn, quá trình điều tra không xác định được nguyên nhân tại sao súng có đạn) nên B đưa tay ra bóp cò làm súng nổ khiến A chết. Quá trình giải quyết vụ án, có 2 quan điểm khác nhau:

Quan điểm thứ nhất cho rằng hành vi của B cấu thành tội “Vô ý làm chết người” do quá trình điều tra, truy tố, xét xử đều không thu thập được bất kỳ văn bản nào thể hiện các quy tắc hành chính, quy tắc nghề nghiệp có liên quan. Hành vi của B được xác định là vi phạm quy tắc bảo đảm an toàn (bất thành văn) là “không được đùa nghịch súng, không được bóp cò khi súng đang hướng về phía người khác” (các cơ quan tiến hành tố tụng đã thu thập, Tòa án đã yêu cầu bổ sung chứng cứ, tài liệu nhưng không thể thu thập được). 

Quan điểm thứ hai cho rằng hành vi của B phải cấu thành tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính” vì mặc dù không tìm được văn bản nào thể hiện các quy tắc như trên, nhưng đây là những quy tắc mà bất kỳ quân nhân nào cũng được quán triệt, học tập từ những ngày đầu bước chân vào quân ngũ. 

Trường hợp này, tác giả đồng ý với quan điểm của Tòa án đã xét xử B về tội “Vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính”, bởi vì: Hành vi tự ý đưa tay bóp cò súng của B khi chưa kiểm tra các điều kiện an toàn đã vi phạm những “quy tắc bảo đảm an toàn khi tiếp xúc, sử dụng các loại vũ khí quân dụng” mà bất kỳ quân nhân nào cũng đều phải chấp hành. Khi sử dụng phải kiểm tra các quy tắc an toàn, súng chỉ được sử dụng cho việc thực hiện nhiệm vụ. Mặc dù không thu thập được văn bản chứa đựng các quy định trên, nhưng đã xác định được đơn vị đã giáo dục chiến sỹ những nội dung này, quán triệt thường xuyên, liên tục theo đúng quy định chung của quân đội. Mọi quân nhân đều có nghĩa vụ chấp hành nghiêm các quy tắc này nhưng B đã vi phạm dẫn đến hậu quả chết người.

Chưa quy định rõ trách nhiệm của chủ nuôi các loài động vật nguy hiểm:

Liên quan đến việc động vật làm chết người, đây không phải trường hợp hiếm gặp nhưng hiện nay việc xử lý còn khó khăn. Trước đây, năm 2009 đã xảy ra trường hợp hổ cắn chết người tại Bình Dương. Thời điểm đó, do chưa có quy định về tiêu chuẩn chuồng trại nuôi thú giữ nên các cơ quan chức năng không đủ căn cứ xử lý hình sự mặc dù người chủ rõ ràng đã có hành vi vô ý vì quá tự tin. Hiện nay, việc nuôi một số loài động vật như cá sấu, rắn… diễn ra ngày càng nhiều. Những loại động vật này hoàn toàn có khả năng gây nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con người. Do đó, cần sớm ban hành những tiêu chuẩn, quy định nghiêm ngặt đối với việc nuôi nhốt các loại động vật có nguy cơ gây nguy hiểm cho tính mạng, sức khỏe con người.

Bên cạnh đó, một số loại động vật như chó săn, chó becgiê, trâu, bò… cũng là một nguồn nguy hiểm đối với tính mạng, sức khỏe con người, mới đây là vụ bé trai 07 tuổi bị đàn chó cắn chết tại Hưng Yên vào ngày 04/3/2019. Nhưng chúng có phải nguồn nguy hiểm cao độ hay không lại chưa có hướng dẫn. Theo quy định tại Điều 601 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2015, thú dữ là nguồn nguy hiểm cao độ và theo từ điển tiếng việt, thú dữ là động vật bậc cao có lông mao, tuyến vú, nuôi con bằng sữa, rất dữ, có thể làm hại người khác như hổ, báo, sư tử, gấu,… Đồng thời, BLDS quy định trách nhiệm bồi thường của chủ vật nuôi nhưng chỉ là trách nhiệm dân sự.

Thực tế khi xảy ra các trường hợp vật nuôi gây thiệt hại đến sức khỏe, tính mạng của người khác, các cơ quan tiến hành tố tụng không đủ căn cứ để truy cứu trách nhiệm hình sự. Liên tiếp các trường hợp này đã gây nên sự bất bình trong dư luận. Bởi vì BLHS 2015 mặc dù có quy định về tội Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác tại Điều 138 và tội "Vô ý làm chết người" tại Điều 128 nhưng cả hai quy định này đều thể hiện “Người nào…”, có nghĩa đã trực tiếp chỉ ra rằng, chủ thể của tội phạm là con người. 

Vậy, chủ nuôi những động vật này khi có hậu quả chết người xảy ra thì phải chịu trách nhiệm hình sự hay chỉ chịu trách nhiệm dân sự cần được quy định rõ ràng bởi hậu quả nó mang lại là nghiêm trọng. Tham khảo quy định của một số quốc gia trên thế giới có thể thấy rằng pháp luật Cộng hòa Pháp có riêng một điều khoản quy định về tội Vô ý làm chết người do chó gây ra (Điều 221-6-2 BLHS Pháp); các nước Canada, Úc, Thụy Sỹ… đều quy định trách nhiệm hình sự đối với chủ vật nuôi trong trường hợp này [1].

Theo đó, cần sửa đổi, bổ sung theo hướng chủ vật nuôi có hành vi vô ý trong quản lý, nuôi mà để vật nuôi gây ra hậu quả chết người cần bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội "Vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác" hoặc tội "Vô ý làm chết người".

Trường hợp sử dụng điện để chống trộm, chống chuột, bảo vệ tài sản gây hậu quả chết người:

Đây là trường hợp đã xảy ra nhiều trên thực tế nhưng biện pháp này vẫn được người dân sử dụng. Hiện nay, đã có đủ cơ sở truy cứu trách nhiệm hình sự đối với hành vi này, nhưng các văn bản hướng dẫn còn mâu thuẫn với nhau. 

- Theo Công văn giải đáp nghiệp vụ số 81/2002/TANDTC của HĐTP TANDTC thì về nguyên tắc chung, TANDTC hướng dẫn như sau:

"a. Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để chống trộm cắp mà làm chết người thì người phạm tội phải bị xét xử về tội giết người.

b. Đối với trường hợp sử dụng điện trái phép để diệt chuột, chống súc vật phá hoại mùa màng thì cần phân biệt như sau:

+ Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi có nhiều người qua lại (cho dù có làm biển báo hiệu), biết việc mắc điện trong trường hợp này là nguy hiểm đến tính mạng con người, nhưng cứ mắc hoặc có thái độ bỏ mặc cho hậu quả xảy ra và thực tế là có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội giết người.

+ Nếu người sử dụng điện mắc điện ở nơi họ tin rằng không có người qua lại, có sự canh gác cẩn thận, có biển báo nguy hiểm và tin rằng hậu quả chết người không thể xảy ra..., nhưng hậu quả có người bị điện giật chết, thì người phạm tội bị xét xử về tội vô ý làm chết người".

Như vậy, TANDTC hướng dẫn theo hai nội dung là mục đích sử dụng điện và thái độ của người thực hiện hành vi đối với hậu quả. Mọi trường hợp sử dụng điện để chống trộm cắp, do đối tượng hướng tới là con người nên phải chịu trách nhiệm về tội giết người với lỗi cố ý gián tiếp. Trường hợp sử dụng điện để chống chuột, súc vật thì căn cứ vào thái độ đối với hậu quả chết người có thể bị truy cứu về tội giết người hoặc vô ý làm chết người.

- Tại Thông báo số 228/P4 ngày 26/5/1998 của Cục Cảnh sát điều tra - Bộ Công an: Đối với các trường hợp dùng điện để bảo vệ tài sản, nếu bản thân các đối tượng đã có thông báo công khai, treo biển cấm, dặn dò những người xung quanh..., nhưng trong lúc trông coi lại bỏ đi làm việc khác để xảy ra hậu quả chết người thì họ sẽ bị xử lí về tội "Giết người" với lỗi cố ý gián tiếp. 

Trường hợp khi mắc điện họ có thông báo cho mọi người biết đồng thời có tổ chức trông coi, đề phòng người qua lại, nhưng không may hậu quả chết người vẫn xảy ra thì có thể khởi tố về tội sử dụng điện trái phép gây hậu quả nghiêm trọng. 

Trường hợp việc chết người xảy ra sau khi người sử dụng điện trái phép đã ngắt điện, nhưng do tác động của thiên nhiên hoặc do người khác vô tình làm cho hệ thống dây bảo vệ đó bị dẫn điện dẫn đến chết người thì có thể khởi tố về tội "Vô ý làm chết người" [2].

Theo đó, hướng dẫn của Cục Cảnh sát điều tra đã thể hiện một số nội dung không đồng nhất với hướng dẫn của TANDTC, ngoài tội "Giết người" và "Vô ý làm chết người", có trường hợp phải chịu trách nhiệm về tội "Sử dụng điện trái phép gây hậu quả nghiêm trọng".

- Tại Công văn số 2293/KSĐT-TA ngày 08/11/1999 Viện Kiểm sát nhân dân Tối cao hướng dẫn: Đối với hành vi dùng điện diệt chuột... nếu trước, trong và sau khi mắc điện đã có các biện pháp phòng ngừa như: Thông báo về việc mắc điện cho mọi người biết; cử người trông coi cẩn thận; mắc điện vào ban đêm ở những nơi không có người qua lại và có canh gác, phòng ngừa, nhưng hậu quả chết người vẫn xảy ra thì họ sẽ bị xử lí về tội "Vô ý làm chết người". 

Nếu hành vi dùng điện để diệt chuột đã được chính quyền nhân dân nhắc nhở hoặc không có các biện pháp phòng ngừa, mắc điện ở những thời điểm hoặc ở những nơi mọi người thường qua lại và đã gây ra hậu quả chết người thì họ sẽ bị xử lí về tội "Giết người với lỗi cố ý gián tiếp". 

Hành vi sử dụng điện để diệt chuột gây chết người không bị xử lí về tội sử dụng điện trái phép gây hậu quả nghiêm trọng.

Như vậy, các hướng dẫn trên là chưa thống nhất, cho đến nay vẫn chưa có hướng dẫn cụ thể, hoàn chỉnh và mang tính liên ngành áp dụng chung nào đáp ứng được yêu cầu thực tiễn. 

3. Đề xuất, kiến nghị

Thứ nhất, cần linh hoạt trong xét xử, phân biệt hành vi vô ý làm chết người và vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính theo hướng nếu có căn cứ rõ ràng cho thấy hành vi vô ý làm chết người đã vi phạm các nguyên tắc đã được thừa nhận rộng rãi, bản thân người thực hiện hành vi đã biết, hiểu và có nghĩa vụ chấp hành các quy tắc đó nhưng vẫn vi phạm thì thuộc trường hợp vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc hành chính.

Thứ hai, cần sửa đổi quy định tại Điều 128, 138 BLHS hoặc có văn bản hướng dẫn trong đó quy định rõ trách nhiệm của chủ vật nuôi khi xảy ra các trường hợp gây tổn hại cho sức khỏe, tính mạng của người khác. Trong hướng dẫn này, cần phân định rõ tỷ lệ tổn thương sức khỏe ở các mức khác nhau phải chịu các trách nhiệm khác nhau.

Thứ ba, có văn bản hướng dẫn liên ngành, thống nhất về việc xử lý hành vi sử dụng điện trái phép gây hậu quả chết người theo hướng: Người nào sử dụng các biện pháp bất hợp pháp để bảo vệ tài sản, gây hậu quả chết người mà có ý thức ngăn chặn con người, hoặc không có ý thức ngăn chặn con người nhưng không có ý thức lợi trừ hậu quả chết người thì truy cứu trách nhiệm hình sự tội "Giết người". Trường hợp chỉ nhằm bảo vệ tài sản và có ý thức bảo vệ tính mạng con người thì truy cứu tội "Vô ý làm chết người"./.

[1] TS. Nguyễn Văn Quân, Trách nhiệm của chủ vật nuôi trong trường hợp vật nuôi gây thiệt hại cho người khác; Khoa Luật, ĐHQG Hà Nội, Tạp chí Kiểm sát Online, ngày 10/4/2019.

[2] Phạm Thị Hồng Đào, Quy định của pháp luật hình sự về hành vi giết người cần được hướng dẫn; https://moj.gov.vn/qt/tintuc/Pages/nghien-cuu-trao-doi.aspx?ItemID=1952.

VĂN LINH

TAQS Khu vực Hải quân

Tách Luật GTĐB 2008 thành hai luật chuyên biệt: Nên hay không?

3. Thông báo rút kinh nghiệm vụ án dân sự ‘Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu’

(LSVN) - Thông qua công tác kiểm sát theo thủ tục giám đốc thẩm vụ án dân sự “Yêu cầu tuyên bố văn bản công chứng vô hiệu” giữa nguyên đơn cụ Ngô Quang Đ với bị đơn Văn phòng công chứng LV do TAND thành phố P giải quyết tại Bản án phúc thẩm số 20/2020/DS-PT ngày 16/01/2020, VKSND cấp cao tại Thành phố D thấy Tòa án cấp sơ thẩm và phúc thẩm có vi phạm trong việc đánh giá chứng cứ dẫn đến tuyên bố bản Di chúc số công chứng 360.2014/DC ngày 01/4/2014 do cụ N lập tại Văn phòng công chứng LV vô hiệu không có căn cứ. VKSND cấp cao tại thành phố D thấy cần thông báo để rút kinh nghiệm chung nhằm nâng cao hiệu quả công tác kiểm sát trong lĩnh vực dân sự.

1. Nội dung và quá trình giải quyết vụ án

Cụ Ngô Thị N sinh năm 1928, có hộ khẩu thường trú tạ số 4 ngõ 195A, MK, phường MG, quận HBT, thành phố D. Ngày 01/4/2014, tại Văn phòng công chứng LV, cụ N điểm chỉ bằng ngón trỏ phải vào phiếu yêu cầu công chứng và ký chữ “N” vào bản di chúc cho cháu ruột là anh Ngô Mạnh C được hưởng toàn bộ thửa đất số 14, tờ bản đồ số 51-I-21 và tài sản gắn liền trên đất tại số 195 MK, phường MG, quận HBT, thành phố D theo Giấy chứng nhận quyền sử hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở số 10107351080 do UBND thành phố D cấp ngày 03/7/2001. Ngày 27/4/2017, cụ N chết. Ông Ngô Quang Đ, nhận được bản Di chúc đồng thời tự nhận là em ruột của cụ N, ông cho rằng cụ N bị giảm sút trí nhớ, không minh mẫn và bị lừa dối khi lập di chúc, cụ N là người không biết chữ và chỉ viết được chữ “N” nên ông không đồng ý với nội dung bản di chúc của cụ N ký ngày 01/4/2014. Cụ N không có chồng, không có con, ông Đ là người thừa kế duy nhất theo pháp luật của cụ N. Do đó, ông khởi kiện yêu cầu Tòa án tuyên bố bản di chúc số công chứng 360.2014/DC ngày 01/4/2014 của Văn phòng công chứng LV vô hiệu.

Bản án dân sự sơ thẩm số 21/2019/DSST ngày 23/9/2019 của TAND quận BĐ, thành phố D quyết định: Chấp nhận đơn khởi kiện của ông Ngô Quang Đ. Tuyên văn bản Di chúc công chứng số 360.2014/DC ngày 01/4/2014 của Văn phòng công chúng LV vô hiệu.

Bản án dân sự phúc thẩm số 20/2020/DS-PT ngày 16/01/2020 của TAND thành phố P xử: Không chấp nhận kháng cáo của bị đơn Văn phòng công chứng LV và người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan anh Ngô Mạnh C. Giữ nguyên bản án dân sự sơ thẩm số 21/2019/DSST ngày 23/9/2019 của TAND quận BĐ, thành phố D.

Ngày 25/5/2020, VKSND cấp cao tại thành phố D nhận được Đơn đề nghị xem xét kháng nghị giám đốc thẩm của anh Ngô Mạnh C với nội dung đề nghị xem xét theo thủ tục giám đốc thẩm đối với bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm nêu trên.

Ngày 28/7/2020, Viện trưởng VKSND cấp cao tại thành phố D ban hành Quyết định số 24/KNGĐT-VC1-DS, kháng nghị giám đốc thẩm đối với bản án phúc thẩm nêu trên theo hướng hủy án phúc thẩm, sơ thẩm để giải quyết lại.

2. Vi phạm cần rút kinh nghiệm

Bản di chúc có số công chứng 360.2014/DC ngày 01/4/2014 lập tại Văn phòng công chứng LV (địa chỉ số 49 phố VC, phường LG, quận BĐ, thành phố D) có nội dung thể hiện cụ Ngô Thị N ký, điểm chỉ vào bản di chúc cho anh Ngô Mạnh C được hưởng toàn bộ thửa đất số 74, tờ bản đồ số 51-I-21 và tài sản gắn liền với đất tại số 195 MK, phường MG, quận HBT, thành phố D. Bản di chúc này có lời chứng của công chứng viên Bùi Huy B. Trước khi ký bản di chúc, cụ N còn điểm chỉ bằng ngón trỏ phải vào phiếu yêu cầu công chứng. Kết luận giám định số 87/C09-P5 ngày 15/5/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an và Kết luận giám định số 61/C09(P3) ngày 17/5/2019 của Viện khoa học hình sự - Bộ Công an đều kết luận chữ ký “N”, chữ viết “Ngô Thị N” và dấu vân tay điểm chỉ trên bản di chúc số công chứng 360.2014/DC ngày 01/4/2014 là của cụ Ngô Thị N. Như vậy, có căn cứ khẳng định cụ N lập di chúc tại Văn phòng công chứng LV bảo đảm đúng trình tự, thủ tục theo quy định của Luật Công chứng năm 2014.

Ông Đ cho rằng cụ N bị lừa dối khi lập di chúc vì cụ N bị giảm sút trí nhớ, không còn minh mẫn, cụ N không được đi học, không biết đọc, không biết viết mà chỉ biết viết duy nhất chữ “N” nhưng ông Đ không có tài liệu, chứng cứ chứng minh cụ N bị hạn chế năng lực hành vi dân sự và không biết chữ. Trong khi bà Nguyễn Thị Z là Tổ trưởng tổ dân phố số 12A phường MG (nơi cụ sinh sống trước khi chết) xác nhận: “Đến năm 2015 sức khỏe của cụ N vẫn bình thường, cụ vẫn tự sinh hoạt, vẫn minh mẫn”.

Tuy nhiên, Tòa án cấp sơ thẩm và cấp phúc thẩm xác định cụ N không biết đọc, không biết viết chỉ biết viết duy nhất chữ “N”, để từ đó xử tuyên bản di chúc số công chứng 360.2014/DC ngày 01/4/2014 do cụ N lập tại Văn phòng Công chứng LV vô hiệu do vi phạm Điều 656 Bộ luật Dân sự năm 2005 là không đủ căn cứ, ảnh hưởng đến quyền lợi của anh Ngô Mạnh C.

Do bản án sơ thẩm và bản án phúc thẩm của Tòa án hai cấp thành phố thành phố D có vi phạm nghiêm trọng trong việc đánh giá chúng cứ nên tại Quyết định giám đốc thẩm số 41/2021/DS-GĐT ngày 23/6/2021 của Ủy ban Thẩm phán TAND cấp cao tại thành phố D xét xử giám đốc thẩm đã chấp nhận toàn bộ kháng nghị của Viện trưởng VKSND cấp cao tại thành phố D; hủy bản án phúc thẩm nêu trên và bản án sơ thẩm số 21/2019/DSST ngày 23/9/2019 của TAND quận BĐ, thành phố D để xét xử lại theo quy định của pháp luật.

PV

Một số bất cập trong quá trình thực hiện cung cấp lý lịch tư pháp

4. 

Admin