1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh toàn cầu hóa và kỷ nguyên số, Đảng và Nhà nước ta xác định đổi mới sáng tạo là động lực trung tâm để phát triển kinh tế xã hội. Việt Nam đã tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP), trong đó bảo hộ và thực thi quyền sở hữu trí tuệ (SHTT) là điều kiện quan trọng để thu hút đầu tư, thúc đẩy nghiên cứu – phát triển (R&D) và nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia. Điều này cũng phù hợp với tinh thần của Nghị quyết 57-NQ/TW năm 2024 về của Bộ Chính trị về đột phá phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia và Nghị quyết 68-NQ/TW năm 2025 về của Bộ Chính trị và phát triển kinh tế tư nhân. Nghị quyết nhấn mạnh vai trò của việc bảo vệ quyền SHTT để khuyến khích đổi mới sáng tạo và phát triển bền vững. Đặc biệt, từ ngày 01/7/2025, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 (sửa đổi, bổ sung 2025), Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2025, Việt Nam chính thức ghi nhận Tòa sở hữu trí tuệ là Tòa chuyên trách thuộc Tòa án nhân dân cấp khu vực. Đây là bước ngoặt quan trọng trong việc xây dựng cơ chế tài phán chuyên trách, đáp ứng yêu cầu hội nhập và bảo vệ hiệu quả quyền SHTT, đồng thời bảo đảm công bằng, minh bạch, môi trường cạnh tranh lành mạnh cho doanh nghiệp và khuyến khích đổi mới sáng tạo.
Thông qua nội dung tham luận“Cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ trong bảo vệ đổi mới sáng tạo ở Việt Nam hiện nay và đề xuất hoàn thiện”, tác giả phân tích cơ sở pháp lý, đánh giá thực trạng cơ chế tài phán SHTT ở Việt Nam, chỉ ra hạn chế, đồng thời đưa ra các kiến nghị đề xuất hoàn thiện quy định pháp luật về bảo vệ đổi mới sáng tạo.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.
2. Cơ sở pháp lý về tài phán sở hữu trí tuệ bảo vệ đổi mới sáng tạo
2.1. Khái niệm đổi mới sáng tạo
Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 lần đầu tiên đưa ra khái niệm về đổi mới sáng tạo như sau: Đổi mới sáng tạo (innovation) là việc tạo ra, ứng dụng thành tựu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa.
Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2015 (hiệu lực từ ngày 01/10/2025), khái niệm về đổi mới sáng tạo được hiểu“là hoạt động tạo ra sản phẩm mới, dịch vụ mới, quy trình mới, mô hình kinh doanh mới hoặc cải tiến đáng kể so với sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh đã có”.
Về bản chất khái niệm Luật Khoa học và công nghệ năm 2013 tập trung vào việc ứng dụng thành tựu khoa học công nghệ với mục tiêu gia tăng hiệu quả phát triển kinh tế – xã hội, năng suất, chất lượng; phạm vi áp dụng gồm sản phẩm, hàng hóa. Tuy nhiên, Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2015 ra đời đã thay đổi về tư duy tiếp cận: Về bản chất đổi mới sáng tạo nhấn mạnh kết quả trực tiếp của đổi mới (sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh); mục tiêu tạo mới và cải tiến đáng kể so với cái cũ, hướng đến khả năng thương mại hóa; đồng thời không chỉ dừng lại ở phạm vi sản phẩm, hàng hóa mà mở rộng sang sang dịch vụ, quy trình, mô hình kinh doanh.
Như vậy, chúng ta thấy Luật Khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo năm 2015 đã có một bước tiến rõ rệt về tư duy pháp lý khi đưa ra khái niệm đổi mới sáng tạo, tiệm cận cách định nghĩa của quốc tế khi xem đổi mới sáng tạo là kết quả cụ thể dưới dạng sản phẩm, dịch vụ, quy trình, mô hình mới hoặc cải tiến đáng kể so với cũ, đề cao yếu tố khả năng cạnh tranh và thương mại hóa, không chỉ dừng lại ở việc hoạt động ứng dụng công nghệ để nâng cao năng suất và hiệu quả phát triển kinh tế - xã hội. Đây là sự dịch chuyển từ tư duy “ứng dụng khoa học công nghệ” sang tư duy “hệ sinh thái đổi mới sáng tạo toàn diện”.
2.2 Cơ sở pháp lý về tài phán sở hữu trí tuệ
Hiện nay, chưa có văn bản pháp luật nào đưa ra khái niệm về tài phán hay tài phán sở hữu trí tuệ. Trong khoa học pháp lý, tài phán được hiểu là quyền lực của Nhà nước trong việc xét xử và giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm pháp luật thông qua cơ quan có thẩm quyền. Tài phán thể hiện chức năng cốt lõi của quyền tư pháp, bảo đảm việc thực thi và bảo vệ pháp luật một cách công bằng, khách quan. Tài phán SHTT được hiểu là hoạt động của cơ quan có thẩm quyền (chủ yếu là Tòa án và các cơ quan được giảo nhiệm vụ quản lý nhà nước về SHTT) trong việc giải quyết tranh chấp, xử lý hành vi xâm phạm quyền SHTT, nhằm bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các chủ thể sáng tạo.
Về cơ sở pháp lý, quyền SHTT ở Việt Nam được ghi nhận trước hết tại Hiến pháp năm 2013: Khoản 1 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 quy định: “Ở nước Cộng hòa XHCN, các quyền con người, quyền công dân về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa, xã hội được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp và pháp luật”. Theo đó, quyền SHTT được pháp luật ghi nhận và bảo hộ. Cụ thể, Hiến pháp năm 2013 đã quy định: Mọi người có quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ, sáng tạo văn học, nghệ thuật và thụ hưởng lợi ích từ các hoạt động đó (Điều 40); Mọi người có quyền hưởng thụ và tiếp cận các giá trị văn hoá, tham gia vào đời sống văn hóa, sử dụng các cơ sở văn hóa (Điều 41); Nhà nước ưu tiên đầu tư và khuyến khích tổ chức, cá nhân đầu tư nghiên cứu, phát triển, chuyển giao, ứng dụng có hiệu quả thành tựu khoa học và công nghệ; bảo đảm quyền nghiên cứu khoa học và công nghệ; bảo hộ quyền SHTT (khoản 2 Điều 62)
Thứ hai, Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền nhân thân và quyền tài sản của cá nhân, pháp nhân, trong đó quyền SHTT là một bộ phận của quyền dân sự, nền tảng xác lập và bảo vệ quyền dân sự (Điều 4, Điều 8, Điều 105 Bộ luật Dân sự). Bộ luật Dân sự đóng vai trò “luật gốc” để xác định quyền sở hữu, quyền sử dụng, quyền định đoạt đối với tài sản trí tuệ: Xác lập quyền đối với tài sản vô hình, giao dịch dân sự liên quan đến chuyển nhượng, chuyển quyền sử dụng quyền SHTT. Chủ sở hữu có quyền khai thác, định đoạt, chuyển nhượng nhưng đồng thời có nghĩa vụ tôn trọng lợi ích công cộng và quyền của chủ thể khác (Điều 12, Điều 158 Bộ luật Dân sự).
Thứ ba, Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi 2019, 2022) đóng vai trò là Luật chuyên ngành quy định cụ thể từng loại quyền (quyền tác giả, quyền liên quan, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng) và cơ chế xử lý hành vi xâm phạm: Dân sự (khởi kiện yêu cầu Tòa án buộc chấm dứt hành vi, xin lỗi, bồi thường thiệt hại), hành chính (xử phạt vi phạm hành chính, tịch thu, tiêu hủy hàng hóa vi phạm), hình sự (xử lý hình sự với các hành vi xâm phạm nghiêm trọng, nguy hiểm cho xã hội (Điều 225, 226 Bộ luật Hình sự).
Thứ tư, Bộ luật Tố tụng dân sự 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025) là khung thủ tục giải quyết tranh chấp, xác lập thẩm quyền của Tòa án nhân dân các cấp đối với tranh chấp SHTT (Điều 30 khoản 4; Điều 35, Điều 37), trình tự, thủ tục giải quyết tranh chấp tại Tòa án từ thụ lý đơn khởi kiện, hòa giải, xét xử sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm; tạo cơ sở pháp lý để đảm bảo quyền SHTT không chỉ tồn tại trên lý thuyết mà còn được bảo vệ bằng cơ chế tố tụng chính thức, công khai và có tính cưỡng chế. Đặc biệt, lần đầu tiên Tòa Sở hữu trí tuệ được ghi nhận là một trong các Tòa chuyên trách của Tòa án nhân dân cấp khu vực, đánh dấu sự chuyên môn hóa trong hoạt động xét xử đối với bảo vệ quyền SHTT và đổi mới sáng tạo.
Ngoài ra, Việt Nam còn tham gia nhiều Điều ước quốc tế quan trọng về SHTT: Công ước Paris (1883), Công ước Berne (1886), Hiệp định TRIPS (1994), cũng như các FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA. Các văn kiện này không chỉ đặt ra nghĩa vụ bảo vệ và thực thi quyền SHTT mà còn yêu cầu quốc gia thành viên xây dựng cơ chế tài phán hiệu quả, minh bạch và công bằng.
Cơ chế tài phán SHTT được đặt trong mối quan hệ mật thiết với chính sách đổi mới sáng tạo quốc gia. Việc xây dựng cơ chế giải quyết tranh chấp SHTT hiệu quả không chỉ nhằm xử lý hành vi vi phạm, mà còn góp phần khuyến khích đầu tư vào nghiên cứu, bảo vệ kết quả R&D và thúc đẩy phát triển kinh tế tư nhân, phù hợp với định hướng của Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) và Nghị quyết 68-NQ/TW (2025).
2.3 Vai trò của tài phán sở hữu trí tuệ trong việc bảo vệ đổi mới sáng tạo
Tài phán sở hữu trí tuệ (SHTT) có ý nghĩa nền tảng trong việc hình thành và duy trì một môi trường pháp lý ổn định, minh bạch, tạo động lực thúc đẩy đổi mới sáng tạo.
Trước hết, cơ chế tài phán đóng vai trò bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể sáng tạo, bảo đảm rằng những nỗ lực đầu tư vào nghiên cứu và phát triển (R&D) vào sáng chế, tác phẩm hay nhãn hiệu được pháp luật công nhận và bảo hộ hiệu quả. Sự bảo vệ kịp thời, công bằng của cơ quan tài phán là yếu tố quyết định để nhà sáng tạo và doanh nghiệp an tâm đầu tư dài hạn, qua đó gia tăng sản phẩm trí tuệ chất lượng cao phục vụ phát triển kinh tế xã hội.
Thứ hai, tài phán SHTT góp phần thiết lập trật tự và kỷ cương trong hoạt động kinh doanh, thương mại, chống lại tình trạng sao chép, làm giả, xâm phạm quyền ngày càng tinh vi. Khi hệ thống tài phán vận hành hiệu quả, quyền lợi của chủ thể sáng tạo được bảo đảm, còn hành vi vi phạm bị xử lý nghiêm minh, từ đó tạo ra một môi trường cạnh tranh lành mạnh, khuyến khích doanh nghiệp tập trung vào sáng tạo thay vì dựa vào hành vi gian lận.
Thứ ba, cơ chế tài phán SHTT còn có vai trò thúc đẩy hội nhập và nâng cao vị thế quốc gia. Việt Nam tham gia nhiều hiệp định thương mại tự do thế hệ mới (CPTPP, EVFTA, RCEP), trong đó bảo vệ quyền SHTT là nghĩa vụ cốt lõi. Một cơ chế tài phán chuyên nghiệp, công bằng, phù hợp chuẩn mực quốc tế không chỉ giúp thực thi cam kết quốc tế, mà còn tăng niềm tin của nhà đầu tư nước ngoài, góp phần mở rộng hợp tác khoa học công nghệ.
Thứ tư, tài phán SHTT còn mang ý nghĩa tạo lập văn hóa tôn trọng đổi mới sáng tạo, nâng cao nhận thức xã hội về giá trị của tài sản trí tuệ. Khi các vụ việc được giải quyết công khai, minh bạch với phán quyết nghiêm minh, cơ chế tài phán trở thành thông điệp mạnh mẽ khẳng định Nhà nước bảo hộ quyền sáng tạo, từ đó thúc đẩy một hệ sinh thái đổi mới sáng tạo phát triển bền vững.
Như vậy, cơ chế tài phán SHTT không chỉ là công cụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể sáng tạo, mà còn giữ vai trò thiết yếu trong việc định hình môi trường cạnh tranh lành mạnh, thúc đẩy hội nhập quốc tế và lan tỏa văn hóa tôn trọng trí tuệ. Tuy nhiên, để cơ chế này phát huy trọn vẹn vai trò, cần nhìn nhận thẳng thắn những hạn chế, bất cập còn tồn tại trong thực tiễn.
3. Thực trạng cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
3.1. Cơ chế tài phán bằng Tòa án
Trong hệ thống pháp luật Việt Nam, Tòa án nhân dân giữ vai trò trung tâm trong việc giải quyết tranh chấp về SHTT. Đây là cơ chế tài phán mang tính quyết định, bởi phán quyết của Tòa án có giá trị ràng buộc pháp lý cao, đồng thời tạo ra các án lệ, định hướng áp dụng thống nhất pháp luật trong thực tiễn.
Từ trước đến nay, các vụ việc liên quan đến SHTT chủ yếu được giải quyết sơ thẩm tại các Tòa án nhân cấp huyện và Tòa kinh tế thuộc Tòa án nhân dân cấp tỉnh. Tuy nhiên, do không có tòa chuyên trách về SHTT, Thẩm phán thường kiêm nhiệm nhiều lĩnh vực, dẫn đến hạn chế trong việc tiếp cận và xử lý các vụ việc có yếu tố kỹ thuật công nghệ phức tạp. Điều này gây nên tình trạng:
Thứ nhất, thiếu tính chuyên môn hóa, chưa hoàn toàn bảo đảm tính nhất quán trong đường lối xét xử. Điển hình là 02 vụ án xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ nhưng lại được xử lý khác nhau[1]: Vụ án hình sự về tội "xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp" theo Điều 226 Bộ luật Hình sự đối với Công ty Cở phần tập đoàn Bia Sài Gòn Việt Nam với hành vi sản xuất sản phẩm bia mang nhãn hiệu “Bia SAIGON VIETNAM” giống và tương tự “BIA SAIGON” của Sabeco, các sản phẩm bia lon, lon đựng bia và thùng carton đựng bia của Bia SAIGON VIETNAM là hàng hóa giả mạo nhãn hiệu theo khoản 2 Điều 213 Luật Sở hữu trí tuệ.
Thứ hai, thời gian giải quyết kéo dài theo quy trình tố tụng dân sự: Điển hình vụ tranh chấp quyền tác giả bộ truyện tranh “Thần đồng đất Việt” giữa ông Lê Phong Linh (hoạ sĩ Lê Linh) và bà Phan Thị Mỹ Hạnh (giám đốc công ty Phan Thị) kéo dài 13 năm mới kết thúc.[2] Vụ án tranh chấp nhãn hiệu "Mì Hảo Hảo" với "Mì Hảo Hạng" giữa Công ty cổ phần Acecook Việt Nam (Acecook) với Công ty Asia Foods về hành vi xâm phạm sở hữu công nghiệp đối với nhãn hiệu “Hảo Hảo, mì tôm chua cay, hình” của Acecook, vụ kiện kéo dài 02 năm qua 02 cấp xét xử với phán quyết khác nhau. Điều này cho thấy quá trình tố tụng của Tòa án là quá trình mất nhiều thời gian, nhiều gian đoạn, nhiều cấp xét xử nên ảnh hưởng rất lớn đến doanh nghiệp.
Thứ ba, số lượng án xét xử về hành vi phạm phạm quyền sở hữu trí tuệ chênh lệch khá lớn so với vi phạm thực tế bị xử lý bằng biện pháp khác. Theo số liệu thống kê của Cục Sở hữu trí tuệ, có tới 95% các vụ việc xâm phạm quyền SHTT được xử lý bằng biện pháp xử phạt vi phạm hành chính. Chỉ riêng các vụ vi phạm về hàng giả, hàng nhái, trong năm 2024, lực lượng Quản lý thị trường đã phát hiện và xử lý 47.135 vụ vi phạm. Tổng số tiền thu nộp ngân sách đạt hơn 541 tỷ đồng, tăng 8% so với cùng kỳ năm 2023. Trong khi đó, theo số liệu thống kê thụ lý và giải quyết các vụ án về quyền SHTT của Tòa án nhân dân tối cao từ năm 2022 đến tháng 5/2025, Toà án Việt Nam đã thụ lý tổng cộng 201 vụ án kinh doanh thương mại sơ thẩm và giải quyết được 125 vụ án. Số lượng vụ án dân sự sơ thẩm về SHTT được thụ lý tổng cộng là 17 vụ án, trong đó số vụ án đã giải quyết là 5 vụ. Về việc giải quyết các vụ án hình sự sơ thẩm xâm phạm quyền SHTT, trong giai đoạn từ năm 2022 đến tháng 5/2025, Toà án Việt Nam đã thụ lý và giải quyết tổng cộng 92 vụ án, trong đó có 04 vụ về tội xâm phạm quyền tác giả, quyền liên quan và 88 vụ về tội xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp.[3]
Thứ tư, lần đầu tiên Việt Nam quy định về Tòa Sở hữu trí tuệ thuộc Tòa án nhân dân cấp khu vực (Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 (sửa đổi, bổ sung 2025, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2025)). Đây là lần đầu tiên nước ta có một thiết chế tài phán chuyên trách về SHTT, đánh dấu bước tiến quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp. Việc thành lập Tòa Sở hữu trí tuệ nhằm bảo đảm tính chuyên môn, thống nhất trong xét xử, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế và thực thi các cam kết trong CPTPP, EVFTA và TRIPS. Mặc dù Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Bộ luật Tố tụng dân sự (sửa đổi, bổ sung) có hiệu lực từ ngày 01/7/2025 nhưng Tòa Sở hữu trí tuệ vẫn chưa được chính thức thành lập và đi vào hoạt động. Nghị quyết 81/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 27/6/2025 quy định những vụ việc dân sự, kinh doanh, thương mại, vụ án hành chính về sở hữu trí tuệ, chuyển giao công nghệ thuộc thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án khu vực 1 – Thành phố Hồ Chí Minh và Tòa án khu vực 2 - Hà Nội[4]. Tuy nhiên, hiện vẫn chưa có một cơ chế cụ thể để triển khai thực hiện trên thực tế. Để Tòa Sở hữu trí tuệ đi vào hoạt động hiệu quả vẫn còn những thách thức đặt ra: Bảo đảm nguồn nhân lực Thẩm phán có kiến thức sâu về SHTT, xây dựng hệ thống án lệ, hoàn thiện quy trình tố tụng chuyên biệt và nâng cao khả năng phối hợp với các cơ quan quản lý nhà nước trong việc bảo vệ quyền SHTT trong đó có bảo vệ đổi mới sáng tạo.
3.2. Cơ chế tài phán bằng trọng tài thương mại và hòa giải thương mại
Bên cạnh Tòa án và cơ quan hành chính, pháp luật Việt Nam cũng ghi nhận trọng tài thương mại và hòa giải thương mại là những phương thức giải quyết tranh chấp SHTT có giá trị pháp lý. Cơ sở pháp lý chủ yếu gồm Luật Trọng tài thương mại năm 2010 và Nghị định 22/2017/NĐ-CP về hòa giải thương mại, cho phép các bên thỏa thuận đưa tranh chấp quyền SHTT ra trọng tài hoặc hòa giải thay vì Tòa án.
Việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại và hòa giải thương mại mang ý nghĩa quan trọng: Thủ tục trọng tài và hòa giải nhanh gọn, linh hoạt, bảo đảm bí mật kinh doanh của các bên. Đây là yếu tố rất quan trọng trong các tranh chấp liên quan sáng chế, bí mật công nghệ, phù hợp với thông lệ quốc tế, đặc biệt khi Việt Nam tham gia nhiều hiệp định FTA thế hệ mới, trong đó khuyến khích áp dụng ADR (Alternative Dispute Resolution), giảm tải cho Tòa án và góp phần nâng cao hiệu quả bảo vệ quyền SHTT, đổi mới sáng tạo.
Mặc dù được khuyến khích và phù hợp với xu hướng quốc tế, thực tế cho thấy số lượng vụ tranh chấp SHTT giải quyết bằng trọng tài và hòa giải ở Việt Nam còn rất hạn chế. Báo cáo của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC) cho thấy, những năm gần đây mỗi năm trung tâm chỉ tiếp nhận dưới 5 vụ tranh chấp có yếu tố liên quan đến quyền SHTT, chủ yếu gắn với hợp đồng chuyển giao công nghệ, nhượng quyền thương mại hoặc hợp đồng li-xăng nhãn hiệu.[5] Tranh chấp về sáng chế, bí mật kinh doanh hay bản quyền phần mềm gần như chưa được đưa ra Trọng tài thương mại. Bên cạnh đó, đối với hòa giải thương mại, theo số liệu của Bộ Tư pháp, đến năm 2023 mới có khoảng 40 Hòa giải viên thương mại được đăng ký trên toàn quốc và hầu như chưa có vụ việc nào về SHTT được giải quyết theo cơ chế này.
Nguyên nhân hạn chế: Doanh nghiệp và chủ thể sáng tạo thiếu niềm tin vào cơ chế trọng tài, hòa giải, đặc biệt lo ngại về hiệu lực thi hành phán quyết và quyết định công nhận kết quả hòa giải thành. Trọng tài viên và hòa giải viên có chuyên môn sâu về SHTT còn ít, trong khi đặc thù tranh chấp SHTT thường liên quan kiến thức kỹ thuật công nghệ phức tạp. Thói quen của các bên tranh chấp vẫn ưu tiên con đường hành chính hoặc Tòa án do tính quen thuộc và chi phí thấp hơn. Thiếu các vụ việc điển hình, án lệ hay phán quyết được công bố rộng rãi để tạo tiền lệ và nâng cao niềm tin xã hội.
Như vậy, cơ chế trọng tài và hòa giải thương mại cho tranh chấp SHTT ở Việt Nam mới ở giai đoạn khởi đầu, chưa phát huy hiệu quả thực tiễn. Trong bối cảnh hội nhập, việc xây dựng đội ngũ trọng tài viên, hòa giải viên có chuyên môn sâu về SHTT và tăng cường niềm tin của doanh nghiệp là yêu cầu cấp thiết. Nếu được khai thác đúng mức, cơ chế này có thể trở thành một trụ cột bổ trợ hữu hiệu bên cạnh Tòa án và cơ quan hành chính trong việc bảo vệ đổi mới sáng tạo.
3.3 Khó khăn trong chứng minh và định lượng thiệt hại
Theo quy định hiện hành, bồi thường thiệt hại trong lĩnh vực SHTT bao gồm hai loại chính: Bồi thường thiệt hại vật chất và bồi thường thiệt hại tinh thần. Thiệt hại vật chất là các tổn thất tài chính trực tiếp mà chủ sở hữu quyền phải chịu do hành vi vi phạm, bao gồm: Mất mát doanh thu hoặc lợi nhuận do hàng hóa hoặc dịch vụ xâm phạm chiếm thị phần của sản phẩm chính hãng; tổn thất về tài sản hoặc chi phí sản xuất, bao gồm cả chi phí pháp lý để ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm, các khoản chi phí hợp lý khác mà chủ sở hữu quyền phải bỏ ra để khắc phục hậu quả. Trong trường hợp không thể xác định chính xác mức thiệt hại vật chất, pháp luật cho phép tòa án xác định mức bồi thường dựa trên mức lợi nhuận mà người vi phạm thu được từ hành vi xâm phạm hoặc một khoản tiền bồi thường cố định do tòa án quyết định. Thiệt hại tinh thần: Đối với các quyền tác giả, quyền liên quan, thiệt hại tinh thần thường xảy ra khi hành vi vi phạm ảnh hưởng đến danh dự, uy tín hoặc gây tổn thất cho quyền tác giả. Các trường hợp vi phạm có thể bao gồm việc sao chép hoặc công khai tác phẩm mà không được sự cho phép của chủ sở hữu. Mức bồi thường thiệt hại tinh thần thường do tòa án xác định, với giới hạn từ 5 triệu đến 50 triệu đồng hoặc cao hơn, tùy vào mức độ tổn hại. Ngoài ra, pháp luật cũng quy định về việc buộc người vi phạm chấm dứt hành vi xâm phạm và bồi thường thiệt hại dựa trên các chi phí liên quan đến việc ngăn chặn và xử lý hành vi vi phạm.[6]
Tuy nhiên, quy trình xác định thiệt hại chưa rõ ràng, thiếu cơ chế thu thập chứng cứ và giám định nhanh chóng, khiến khả năng bồi thường hạn chế. Thiệt hại về xâm phạm SHTT là thiệt hại rất khó chứng minh bằng con số định lượng vật chất cụ thể. Việc xác định mức bồi thường đôi khi không đồng nhất giữa các vụ việc và phụ thuộc nhiều vào cách đánh giá của Tòa án. Điều này dẫn đến tình trạng mức bồi thường có thể chưa phản ánh đúng thiệt hại thực tế mà chủ sở hữu phải gánh chịu.
4. Kiến nghị hoàn thiện cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ ở Việt Nam
Xuất phát từ thực trạng và những bất cập đã phân tích, để cơ chế tài phán SHTT thực sự trở thành công cụ hữu hiệu trong bảo vệ đổi mới sáng tạo, cần có các giải pháp đồng bộ trên cả phương diện pháp luật, tổ chức bộ máy và cơ chế hỗ trợ thực thi.
Thứ nhất, sớm xây dựng cơ cấu tổ chức và vận hành hoạt động của Tòa Sở hữu trí tuệ tại Tòa án cấp khu vực: Tòa Sở hữu trí tuệ đã được quy định trong cơ cấu tổ chức của Tòa án nhân dân cấp khu vực nhưng thực tế vẫn chưa được thành lập nên Tòa án nhân dân tối cao cần sớm thành lập và quy định cụ thể về cơ cấu tổ chức, quy trình giải quyết tranh chấp SHTT, đảm bảo tuyển chọn và đào tạo đội ngũ Thẩm phán có kiến thức sâu về SHTT, công nghệ, kinh tế số; xây dựng cơ chế tham vấn chuyên gia trong các vụ việc phức tạp. Hội đồng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao cần sớm ban hành nghị quyết hoặc án lệ về vấn đề xác định và chứng minh thiệt hại, áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, trách nhiệm bồi thường. Đây là công cụ bảo đảm tính thống nhất trong xét xử.
Thứ hai, hoàn thiện khung pháp lý về trọng tài, hòa giải SHTT: Bổ sung một chương riêng trong Luật Trọng tài thương mại về tranh chấp SHTT, quy định rõ hiệu lực thi hành phán quyết và công nhận kết quả hòa giải thành.
Thứ ba, tiếp thu chuẩn mực quốc tế: Nội luật hóa các cam kết từ TRIPS, CPTPP, EVFTA… về minh bạch hóa thủ tục tố tụng, bảo đảm tiếp cận công lý công bằng và tăng cường hợp tác quốc tế trong thực thi quyền SHTT. Học tập mô hình Tòa Sở hữu trí tuệ của các nước nhằm thúc đẩy hợp tác song phương và đa phương trong chia sẻ kinh nghiệm, dữ liệu và cơ chế hỗ trợ giám định, xét xử.
Thứ tư, khuyến khích áp dụng giải quyết tranh chấp SHTT bằng trọng tài , hòa giải: Áp dụng cơ chế ưu đãi phí, rút gọn thủ tục công nhận phán quyết trọng tài, khuyến khích doanh nghiệp lựa chọn trọng tài và hòa giải để bảo mật thông tin và giảm tải cho Tòa án.
Từ những phân tích và kiến nghị nêu trên có thể thấy rằng, việc hoàn thiện cơ chế tài phán SHTT ở Việt Nam là một yêu cầu tất yếu nhằm bảo đảm hiệu quả bảo vệ quyền SHTT trong bối cảnh đổi mới sáng tạo và hội nhập quốc tế. Không chỉ dừng lại ở việc thành lập và vận hành Tòa Sở hữu trí tuệ chuyên trách, mà còn cần đồng bộ hóa khung pháp lý về trọng tài, hòa giải, cùng với việc tiếp thu các chuẩn mực quốc tế và xây dựng cơ chế hợp tác xuyên biên giới. Sự phối hợp hài hòa giữa Tòa án, Trọng tài, Hòa giải viên và các cơ quan hỗ trợ thực thi sẽ góp phần tạo nên một hệ thống tài phán SHTT vừa chuyên sâu, vừa linh hoạt, đáp ứng nhu cầu bảo vệ lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền, đồng thời thúc đẩy môi trường sáng tạo, đầu tư và phát triển kinh tế tri thức ở Việt Nam.
5. Kết luận
Cơ chế tài phán sở hữu trí tuệ giữ vai trò then chốt trong việc bảo đảm môi trường pháp lý công bằng, minh bạch, tạo động lực khuyến khích đổi mới sáng tạo yếu tố được xem là nền tảng của tăng trưởng bền vững trong kỷ nguyên kinh tế tri thức. Việc thành lập Tòa SHTT cấp khu vực từ ngày 01/7/2025 thể hiện bước ngoặt quan trọng trong tiến trình cải cách tư pháp, phù hợp với tinh thần Nghị quyết 57-NQ/TW (2024) về đột phá khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số, cũng như Nghị quyết 68-NQ/TW (2025) về phát triển kinh tế tư nhân trở thành động lực quan trọng của nền kinh tế.
Tuy nhiên, để cơ chế này phát huy hiệu quả thực sự, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện pháp luật, củng cố tổ chức bộ máy, nâng cao năng lực nguồn nhân lực và tăng cường các cơ chế hỗ trợ thực thi. Một cơ chế tài phán SHTT hiện đại, hội nhập và chuyên nghiệp sẽ không chỉ bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của các chủ thể sáng tạo, mà còn góp phần nâng cao năng lực cạnh tranh quốc gia, khẳng định vị thế Việt Nam trong chuỗi giá trị toàn cầu.
[1] Nguyễn Thái Cường, Hai vụ án tương đồng về xâm phạm sở hữu trí tuệ, tòa lại xử khác nhau, Hai vụ án tương đồng về xâm phạm sở hữu trí tuệ, tòa lại xử khác nhau, Thanh niên online, truy cập 20h00 ngày 04/9/2025.
[2] Vụ kiện ‘Thần đồng Đất Việt’: Ông Lê Linh thắng kiện sau 13 năm tranh chấp, Vụ kiện ‘Thần đồng Đất Việt’: Ông Lê Linh thắng kiện sau 13 năm tranh chấp, truy cập lúc 20 giờ 20 ngày 04/9/2025.
[3] Nâng cao nghiệp vụ sở hữu trí tuệ cho Thẩm phán Việt Nam, Nâng cao nghiệp vụ sở hữu trí tuệ cho Thẩm phán Việt Nam, truy cập lúc 20 giờ 30 ngày 04/9/2025.
[4] Điều 4 Nghị quyết 81/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 27/6/2025 về Thành lập Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực; quy định phạm vi thẩm quyền theo lãnh thổ của Tòa án nhân dân cấp tỉnh, Tòa án nhân dân khu vực.
[5] Báo cáo thường niên năm 2022, năm 2023, năm 2024 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).[6] Điều 205 Luật Luật Sở hữu trí tuệ 2005, sửa đổi bổ sung các năm 2009 và 2019
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Hiến pháp năm 2013.
2. Bộ luật Dân sự năm 2015.
3. Luật Sở hữu trí tuệ 2005 (sửa đổi, bổ sung 2019, 2022).
4. Luật Khoa học và Công nghệ năm 2013.
5. Luật Khoa học, Công nghệ và Đổi mới sáng tạo năm 2015.
6. Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2024 (sửa đổi, bổ sung 2025).
7. Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng dân sự, Luật Tố tụng hành chính, Luật Tư pháp người chưa thành niên, Luật Phá sản và Luật Hòa giải, đối thoại tại Tòa án năm 2025.
8. Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển khoa học, công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số quốc gia năm 2024.
9. Nghị quyết số 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân năm 2025.
10. Nghị quyết số 81/2025/UBTVQH15 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội ngày 26/7/2025.
11. Báo cáo 1380/BC-BKHCN ngày 26/4/2024 của Bộ Khoa học và Công nghệ về tình hình thực hiện chương trình phối hợp hành động phòng chống xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ giai đoạn III (năm 219-2023) năm 2023.
12. Báo cáo thường niên năm 2024 của Cục Sở hữu trí tuệ - Bộ Khoa học và Công nghệ.
13. Báo cáo thường niên năm 2022 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
14. Báo cáo thường niên năm 2023 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
15. Báo cáo thường niên năm năm 2024 của Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC).
16. Nguyễn Thái Cường, Hai vụ án tương đồng về xâm phạm sở hữu trí tuệ, tòa lại xử khác nhau, Hai vụ án tương đồng về xâm phạm sở hữu trí tuệ, tòa lại xử khác nhau, Thanh niên online, truy cập 20h00 ngày 04/9/2025.
17. Vụ kiện ‘Thần đồng Đất Việt’: Ông Lê Linh thắng kiện sau 13 năm tranh chấp, Vụ kiện ‘Thần đồng Đất Việt’: Ông Lê Linh thắng kiện sau 13 năm tranh chấp, truy cập lúc 20 giờ 20 ngày 04/9/2025.
18. Nâng cao nghiệp vụ sở hữu trí tuệ cho Thẩm phán Việt Nam, Nâng cao nghiệp vụ sở hữu trí tuệ cho Thẩm phán Việt Nam, truy cập lúc 20 giờ 30 ngày 04/9/2025.
19. Bản án số 53/2025/KDTM-PT ngày 15/5/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
20. Bản án số 56/2025/KDTM-PT ngày 21/5/2025 của Tòa án nhân dân cấp cao tại TP. Hồ Chí Minh.
21. Bản án số 38/2018/KDTM-ST ngày 19/10/2018 của Tòa án nhân dân Thành phố Hà Nội.
Thạc sĩ NGUYỄN THỊ QUỲNH NGA
Trường ĐH Kinh tế - Kỹ thuật Bình Dương

