/ Phân tích - Nghiên cứu
/ Còn bất hợp lý khi áp dụng Điều 260 Bộ luật Hình sự

Còn bất hợp lý khi áp dụng Điều 260 Bộ luật Hình sự

05/01/2021 18:07 |

(LSO) - Khung hình phạt tại khoản 2 Điều 260 BLHS 2015 thấp nhất là 03 năm tù và cao nhất là 10 năm tù, với khoảng cách giữa mức thấp nhất và cao nhất của khung hình phạt đã được ấn định, hội đồng xét xử tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra từng trường hợp cụ thể để quyết định mức hình phạt tương xứng...

So sánh quy định tại Điều 202 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi, bổ sung năm 2009 (BLHS 1999) với quy định tại Điều 260 Bộ luật Hình sự năm 2015 sửa đổi, bổ sung năm 2017 (BLHS 2015), có thể thấy nhiều điểm khác biệt cần lưu ý.

Ảnh minh họa.

Một là, thay đổi tên điều luật từ “Tội vi phạm quy định về điều khiển phương tiện giao thông đường bộ” Điều 202 BLHS 1999 thành “Tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ” Điều 260 BLHS 2015. Việc thay đổi tên điều luật dẫn đến có sự thay đổi về chủ thể thực hiện tội phạm từ người điều khiển phương tiện giao thông đường bộ sang người tham gia giao thông đường bộ.

Cần phân biệt khái niệm người tham gia giao thông đường bộ (GTĐB) và người điều khiển phương tiện GTĐB. Theo quy định tại các khoản 22, 23 Điều 3 Luật Giao thông đường bộ năm 2008: “Người tham gia giao thông gồm người điều khiển, người sử dụng phương tiện tham gia giao thông đường bộ; người điều khiển, dẫn dắt súc vật; người đi bộ trên đường bộ”; “Người điều khiển phương tiện gồm người điều khiển xe cơ giới, xe thô sơ, xe máy chuyên dùng tham gia giao thông đường bộ”.

Như vậy, luật mới đã có sự thay đổi rõ rệt khi quy định rộng hơn về chủ thể của hành vi gồm tất cả những người tham gia giao thông, kể cả những người khi tham gia giao thông là người đi bộ.

Hai là, cụ thể hóa dấu hiệu hậu quả của hành vi phạm tội tại khoản 1, khoản 2 và khoản 3 của điều luật và bổ sung vào khoản 2 điều luật, “định lượng” cụ thể của hậu quả làm chết người; gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người hoặc nhiều người với tỷ lệ % tổn thương cơ thể cụ thể; gây thiệt hại về tài sản có giá trị cụ thể tại từng khoản. Nhà làm luật đã kế thừa chọn lọc những nội dung quy định có liên quan của Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT-BCA-BQP-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 28/8/2013 của Bộ Công an - Bộ Quốc phòng - Viện kiểm sát nhân dân tối cao - Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn áp dụng một số quy định tại Chương XIX của BLHS về các tội xâm phạm trật tự, an toàn giao thông (Thông tư liên tịch số 09/2013/TTLT) để quy định chi tiết các khoản của điều luật này.

Ba là, thay đổi khung hình phạt tiền là hình phạt chính tại khoản 1 “từ 05 triệu đồng đến 50 triệu đồng” thành “từ 30 triệu đồng đến 100 triệu đồng” và thay đổi mức phạt tù tối thiểu tại khoản 1 là từ “01 năm” lên “05 năm” so với Điều 202 BLHS 1999. Đồng thời, quy định phạt tiền (từ 10.000.000 đồng đến 50.000.000 đồng) là hình phạt chính đối với hành vi “vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ trong trường hợp có khả năng thực tế dẫn đến hậu quả quy định tại các điểm a, b, c khoản 3 Điều này nếu không được ngăn chặn kịp thời” tại khoản 4.

Bên cạnh những điểm mới có tính cụ thể, chi tiết hơn, dễ áp dụng hơn trong thực tiễn, qua nghiên cứu chúng tôi thấy rằng, còn nhiều trường hợp mà thực tiễn công tác điều tra, truy tố, xét xử  bị “vướng” khi áp dụng Điều 260 BLHS 2015.

Thứ nhất,hậu quả là dấu hiệu bắt buộc của cấu thành định khung của tội phạm này trong trường hợp cụ thể, nhưng thực tiễn cho thấy có bất cập về quy định, áp dụng pháp luật với trường hợp một người thực hiện hành vi phạm tội này gây ra hậu quả lớn hơn so với hậu quả do hành vi của người khác cũng phạm tội này gây ra, nhưng trách nhiệm hình sự của người đã gây ra hậu quả lớn hơn đó lại nhẹ hơn trách hình sự của người cũng vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ mà hậu quả họ gây ra lại nhỏ hơn. Cụ thể:

Trường hợp thứ nhất: Nguyễn Văn D điều khiển xe ô tô tải biển kiểm soát 62A-219.49 đi sai phần đường nên đâm trực diện vào xe mô tô biển kiểm soát 63F1-03491, do chị Trần Thị Nh điều khiển, phía sau có chở chị Lâm Thị Mỹ H. Hậu quả vụ tai nạn này làm chị Nh bị thương tật với tỷ lệ 71% sức khỏe; chị H là 69%. Tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của 02 người này là 140%. Do vậy, D bị truy tố và xét xử theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 260 BLHS 2015,bị phạt tù từ 03 năm đến 10 năm (trường hợp gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 02 người trở lên mà tổng tỷ lệ tổn thương cơ thể của những người này từ 122% đến 200%).

Trường hợp thứ hai: Quách L điều khiển xe ô tô biển kiểm soát 64H-1415 chở cát sỏi phục vụ Dự án cải tạo nâng cấp Quốc lộ 50. Do L không làm chủ tốc độ, xử lý kém khi phát hiện có chướng ngại vật trên đường nên xe ô tô do L lái đâm vào xe mô tô biển kiểm soát 64B1-766.67 chạy ngược chiều do anh Trần Hiếu M điều khiển chở vợ là chị Phạm Thị Minh H ngồi phía sau. Hậu quả vụ tai nạn làm chị H bị chấn thương sọ não nặng, vỡ xương chậu và tử vong sau đó; anh M bị tổn thương sức khỏe, tỷ lệ thương tật qua giám định là 86%.

Quách L bị truy tố và xét xử theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 1 Điều 260 BLHS 2015. Điểm a, b khoản 1 Điều luật này quy định: “Người nào tham gia giao thông đường bộ mà vi phạm quy định về an toàn giao thông đường bộ gây thiệt hại cho người khác thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 01 năm đến 05 năm:

a) Làm chết người;

b) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của 01 người mà tỷ lệ tổn thương có thể 61% trở lên”.

Qua hai trường hợp cụ thể trên cho thấy, hậu quả xảy ra ở trường hợp thứ nhất rõ ràng là nhẹ hơn (tỷ lệ thương tật chung của 02 người là 140%), nhưng bị truy tố và xét xử theo khoản 2 của điều luật, với mức hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm. Trong khi đó, với trường hợp thứ hai, hậu quả xảy ra là nặng hơn so với trường hợp thứ nhất (01 người chết; 01 người bị thương tật vĩnh viễn 86%), nhưng chỉ bị truy tố và xét xử theo khoản 1 của điều luật, có mức hình phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

Tương tự như vậy, nếu so sánh về mặt hậu quả do hành vi phạm tội này gây ra, còn có thể phát hiện thêm bất cập khác tại điểm đ khoản 2 với điểm b khoản 3 của Điều luật này. Cụ thể:

Trường hợp thứ ba: Dư Thị Ngọc D điều khiển xe ô tô từ cơ quan về nhà, khi cách giao lộ đường Hùng Vương - Nguyễn Tri Phương của thành phố X (tại đây có lắp tín hiệu giao thông đèn xanh đèn đỏ), do đạp nhầm chân ga nên xe ô tô của D phóng nhanh về phía trước, đâm thẳng vào 02 xe mô tô đang dừng rồi lao vào gốc cây cổ thụ ven đường cách đó chừng 15m, sau đó mới dừng lại hẳn. Cơ quan chức năng tiến hành đo nồng độ cồn có trong khí thở của chị D, kết quả là 75 miligam/1 lít khí thở. Hậu quả vụ tai nạn này làm anh Trần Văn Th bị tổn hại sức khỏe 62%; anh Vũ Huy Đ bị tổn hại sức khỏe 89% và ông Lâm Vĩnh Kh bị tổn hại sức khỏe 97%. Tổng tỷ lệ thương tật của 03 người bị hại trong vụ tai nạn này là 248%.

Ngày 12/12/2018, Dư Thị Ngọc D bị Tòa án nhân dân thành phố X phạt 08 năm 06 tháng tù về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS 2015.

Trường hợp thứ tư: Nguyễn Văn Poli điều khiển xe ô tô đi vào đường ngược chiều xảy ra va chạm với 02 xe mô tô đang lưu thông đúng với phần đường quy định. Hậu quả vụ tai nạn này làm em Văn Thị T và Trần Thị Th (học sinh Trường PTTH Hoàng Lam) bị tử vong trên đường đưa đi cấp cứu; ông Nguyễn Văn R bị tổn hại sức khỏe qua kết luật giám định là 91%.

Ngày 06/11/2018, Tòa án nhân dân thành phố M tuyên phạt Nguyễn Văn Poli 07 năm 06 tháng tù về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ theo điểm đ khoản 2 Điều 260 BLHS 2015.

Rõ ràng, hậu quả của trường hợp thứ tư là nghiêm trọng hơn (02 người chết, 01 người bị thương tỷ lệ thương tật 91%) so với hậu quả xảy ra ít nghiêm trọng hơn của trường hợp thứ ba (03 người bị thương, tổng tỷ lệ thương tật 248%), nhưng khung hình phạt áp dụng cho trường hợp thứ ba là nặng hơn (hình phạt tù từ 07 năm đến 15 năm) so với khung hình phạt quy định cho trường hợp thứ tư (hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm), do đó, mức hình phạt tòa án áp dụng cho trường hợp thứ ba (nếu như không có nhiều tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự) thì cũng nặng hơn so với trường hợp thứ tư. Đây là một bất cập cần được các nhà làm luật nghiên cứu khắc phục.

Thứ hai, nội dung tại Điều 260 BLHS hiện hành đang thiếu quy định chuyển từ khung hình phạt này sang khung hình phạt khác trong cùng điều luật áp dụng.

Phần lớn mọi người đều biết, nếu hậu quả vụ tai nạn giao thông đường bộ mà người điều khiển xe mô tô gây ra làm chết 01 người mà trong tình trạng say rượu bia (nồng độ cồn trong máu hoặc hơi thở vượt mức quy định), lỗi hoàn toàn thuộc về người điều khiển phương tiện, thì có thể bị xét xử về tội vi phạm quy định về tham gia giao thông đường bộ, theo khoản 2 Điều 260 BLHS 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), mức hình phạt tù mà người gây ra tai nạn phải đối mặt từ 03 năm đến 10 năm. Đây là điều khẳng định.

Tuy nhiên, khi được hỏi dựa trên căn cứ pháp lý nào để khẳng định như vậy, thì thực tế hiện nay vẫn có không ít người không thể chỉ ra được quy phạm nào điều chỉnh vấn đề này, hay nói cách khác, nội dung quy phạm tại Điều 260 BLHS hiện hành đang thiếu tính minh bạch với trường hợp chuyển khung (từ khung 1 sang khung 2, từ khung 2 sang khung 3). Trường hợp vừa nêu trên thực chất là việc các cơ quan tiến hành tố tụng có quyền chuyển khung (chuyển từ khoản 1 sang khoản 2) của điều luật đang áp dụng, dù hậu quả xảy ra chỉ ở khoản 1 (làm chết 01 người) nhưng do có tình tiết định khung phạm tội trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định tại điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS, do vậy, việc điều tra, truy tố, xét xử trường hợp trên là hoàn toàn chính xác.

Tương tự như vậy, các tình tiết tăng nặng định khung hình phạt quy định tại các điểm a, b, c, d của khoản 2 Điều 260 BLHS: không có giấy phép lái xe theo quy định; trong tình trạng có sử dụng rượu, bia mà trong máu hoặc hơi thở có nồng độ cồn vượt quá mức quy định, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích mạnh khác; bỏ chạy để trốn tránh trách nhiệm hoặc cố ý không cứu giúp người bị nạn; không chấp hành hiệu lệnh của người điều khiển hoặc hướng dẫn giao thông, chưa được quy định là tình tiết tăng nặng định khung tại khoản 3 của điều luật này.

Thực tế này đã gây ra nhiều lúng túng và không bảo đảm sự công bằng của pháp luật khi áp dụng nhằm đấu tranh phòng ngừa, xử lý nghiêm minh loại tội phạm này. Chẳng hạn, A điều khiển xe mô tô tham gia giao thông gây tai nạn cho phương tiện khác trong tình trạng có sử dụng rượu mà nồng độ cồn đo được 85 miligam/100 mililít máu, hậu quả làm chết 01 người, lỗi hoàn toàn thuộc về A. Trong trường hợp này, mặc dù hậu quả xảy ra thuộc điểm a khoản 1, nhưng do khi A thực hiện hành vi phạm tội trong tình trạng nồng độ cồn có trong máu vượt mức quy định nên A bị điều tra, truy tố, xét xử theo điểm b khoản 2 Điều 260 BLHS, có khung hình phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.

Nhưng với trường hợp trên, nếu hậu quả xảy ra làm chết 02 người thì A cũng chỉ bị truy tố, xét xử theo điểm b, điểm đ khoản 2 Điều 260 BLHS mà thôi.

Đây rõ ràng là một sự bất tương xứng, dù biết rằng khung hình phạt tại khoản 2 Điều 260 BLHS 2015 thấp nhất là 03 năm tù và cao nhất là 10 năm tù, với khoảng cách giữa mức thấp nhất và cao nhất của khung hình phạt đã được ấn định, hội đồng xét xử tùy theo tính chất, mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội và hậu quả xảy ra từng trường hợp cụ thể để quyết định mức hình phạt tương xứng. Nhưng qua nghiên cứu từ thực tiễn xét xử loại tội phạm này từ khi BLHS 2015 có hiệu lực thi hành đến nay cho thấy, do nhà làm luật chưa quy định các tình tiết từ điểm a đến điểm d khoản 2 là tình tiết định khung tăng nặng tại khoản 3 của điều luật này, nên hiệu quả trong công tác đấu tranh phòng ngừa, răn đe tình trạng vi phạm pháp luật hình sự đối với loại tội phạm này mặt nào đó còn rất hạn chế, nhất là trong tình hình hiện nay, tình trạng lái xe say rượu bia, có sử dụng chất ma túy hoặc chất kích thích thần kinh mạnh khác mà gây tai nạn giao thông với hậu quả làm chết từ 03 người trở lên; làm bị thương cũng từ 03 người trở lên đang gây bức xúc trong dư luận, điển hình như:

+Vụ xe tải đâm vào đoàn người viếng nghĩa trang ở Hải Dương, xảy ra ngày 21/01/2019, tài xế Lương Văn Tâm điều khiển xe ô tô tải đã đâm vào đoàn cán bộ xã Kim Lương, huyện Kim Thành, tỉnh Hải Dương trên đường đi viếng nghĩa trang liệt sĩ về. Hậu quả làm 09 người tử vong và 08 người khác bị thương. Kết quả xét nghiệm, tài xế Lương Văn Tâm dương tính với ma túy.

+ Vụ xe container đâm 20 xe máy khi dừng đèn đỏ xảy ra ngày 02/01/2019 tại ngã tư Bình Nhựt, huyện Bến Lức, tỉnh Long An do lái xe Phạm Thành Hiếu điều khiển. Hậu quả vụ tai nạn làm 04 người tử vong, 18 người khác bị thương, hư hỏng hơn 20 xe máy. Kết quả xét nghiệm Phạm Thành Hiếu dương tính với ma túy.

+ Khoảng 13h ngày 11/4/2019, tài xế Nguyễn Đức Huyện điều khiển xe ô tô biển số kiểm soát 49X-6666 trong tình trạng nồng độ cồn đo được vượt quá mức quy định đã lao vào đám tang, hậu quả làm 04 người chết, 07 người khác bị thương. 

Ngoài ra, chúng tôi còn thấy rằng, theo quy định tại khoản 2 Điều 52 BLHS 2015 (các tình tiết đã được Bộ luật này quy định là dấu hiệu định tội hoặc định khung hình phạt thì không được coi là tình tiết tăng nặng), nếu người lái xe ô tô đang trong tình trạng có sử dụng chất ma túy, không chấp hành hiệu lệnh của lực lượng cảnh sát tuần tra giao thông, sử dụng giấy phép lái xe không do cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp mà gây hậu quả là chết 03 người, gây tổn hại cho sức khỏe của 03 người khác, tổng tỷ lệ thương tật qua giám định của những người này là 211% thì người vi phạm cũng chỉ bị điều tra, truy tố, xét xử theo quy định tại điểm a, điểm b khoản 3 Điều 260 BLHS, mà không thể coi các tình tiết có sử dụng chất ma túy, không chấp hành hiệu lệnh của lực lượng cảnh sát tuần tra giao thông, sử dụng giấy phép lái xe giả là tình tiết tăng nặng khi lượng hình, do các tình tiết này nhà làm luật đã quy định là tình tiết định khung hình phạt tại khoản 2 Điều 260 BLHS.

Tất nhiên, phần nhận định của bản án, hội đồng xét xử có thể đề cập đến nguyên nhân trực tiếp gây ra vụ tai nạn thảm khốc, làm cơ sở đi đến quyết định loại hình phạt, mức hình phạt cụ thể áp dụng, nhưng về mặt cơ sở pháp lý trong trường hợp này rõ ràng thiếu quy phạm làm cơ sở dẫn chiếu cụ thể để áp dụng các tình tiết nói trên khi lượng hình.

Nghiên cứu quy định tại điểm đ khoản 2 Điều 134 BLHS 2015, có thể thấy đây là quy định về bản chất là chuyển khung hình phạt áp dụng khi thuộc trường hợp vừa thỏa mãn cấu thành cơ bản của tội phạm này, vừa xuất hiện thêm một trong những tình tiết định khung cơ bản quy định tại các điểm từ điểm a đến điểm k khoản 1 Điều 134 Bộ luật này, thì phải bị truy cứu TNHS theo khoản 2 Điều 134 BLHS.

Tương tự như vậy, tại điểm đ khoản 3 và điểm d khoản 4 của Điều 134 BLHS 2015 cũng có quy định theo hướng chuyển khung hình phạt. Với cách mô tả, xây dựng quy phạm pháp luật như Điều 134 BLHS rất dễ hiểu và dễ áp dụng, bởi nhà làm luật đã xây dựng cơ sở pháp lý rõ ràng và minh bạch.

Từ đó, chúng tôi kiến nghị cơ quan có thẩm quyền xem xét sửa đổi, bổ sung BLHS 2015 theo hướng quy định các tình tiết từ điểm a đến điểm d khoản 2 với một trong các tình tiết định khung quy định tại khoản 3 thành khoản mới. Theo đó, khoản mới của Điều 260 BLHS (sau khi được sửa đổi, bổ sung) như sau: “Phạm tội thuộc một trong các trường hợp quy định từ điểm a đến điểm c khoản 3 Điều này mà còn có thêm một trong những tình tiết quy định từ điểm a đến điểm d khoản 2, thì bị phạt tù từ … năm đến … năm”.

Thạc sĩ, Luật sư LÊ VĂN SUA

/doi-dieu-tam-su-ve-nghe-luat-su-trong-tranh-tung-hinh-su.html