/ Kinh nghiệm - Thực tiễn
/ Đào tạo cử nhân luật trong bối cảnh phát triển công nghệ số

Đào tạo cử nhân luật trong bối cảnh phát triển công nghệ số

07/10/2025 18:11 |

(LSVN) - Trong bối cảnh Cách mạng Công nghiệp 4.0 và xu thế chuyển đổi số toàn cầu, hoạt động đào tạo cử nhân luật tại Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức và đứng trước yêu cầu điều chỉnh toàn diện để thích nghi với những thay đổi không ngừng của thời đại. Sự phát triển công nghệ số đã mang lại những tác động, bao gồm cả tích cực lẫn tiêu cực, tới hoạt động đào tạo luật ở Việt Nam. Bên cạnh đó, thực tiễn đào tạo cử nhân luật tại Việt Nam cho thấy những hạn chế trong việc cập nhật và ứng dụng công nghệ số vào các chương trình đào tạo cũng như việc đổi mới phương pháp, hình thức đào tạo.

1. Đặt vấn đề

Kỷ nguyên cách mạng Công nghiệp 4.0 đã mở ra một thời kỳ mới cho mọi hoạt động, nơi mà công nghệ số không chỉ là một xu hướng mà đã dần trở thành một trong những yếu tố cốt lõi định hình sự vận động của mọi khía cạnh từ kinh tế, chính trị, cho đến xã hội, giáo dục. Chuyển đổi số, với rất nhiều nền tảng công nghệ cơ bản như trí tuệ nhân tạo (AI), dữ liệu lớn (big data), chuỗi khối (blockchain),… đã điều hướng cách tiếp cận, giao lưu và học hỏi của con người. Trong lĩnh vực giáo dục đối với ngành luật, một trong những lĩnh vực vừa mang tính chính trị vừa thể hiện tính bao quát xã hội, sự thay đổi cách thức giáo dục khi có sự du nhập của công nghệ số là hoạt động cần thiết và cấp thiết, bởi các thế hệ cử nhân luật tương lai không chỉ đứng trước nhiều cơ hội mới mở ra, mà còn phải đối mặt với không ít thách thức phức tạp mà công nghệ số mang lại.

Xuất phát từ định hướng và chính sách chung của đất nước trong bối cảnh hội nhập kinh tế sâu rộng và phát triển công nghệ số, với Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03/6/2020 của Thủ tướng Chính phủ thúc đẩy Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng 2030, việc đào tạo luật đứng trước những yêu cầu cải cách để ứng dụng công nghệ số vào đào tạo, không chỉ thay đổi chương trình và phương pháp, hình thức giảng dạy, mà còn phải thay đổi cả chất lượng đào tạo cử nhân luật, đáp ứng sự kỳ vọng của thị trường lao động. Vấn đề được đặt ra là liệu việc đào tạo cử nhân luật tại Việt Nam hiện nay đang chịu những tác động nào từ bối cảnh công nghệ số? Liệu rằng hệ thống đào tạo luật tại Việt Nam đã sẵn sàng cho sự thay đổi với ứng dụng công nghệ số hay chưa? Hoạt động đào tạo luật tại Việt Nam cần phải thay đổi như thế nào để đáp ứng với những yêu cầu của sự phát triển công nghệ số? Bài viết này sẽ làm rõ những tác động tích cực và hạn chế của sự phát triển công nghệ số đối với hoạt động đào tạo luật, đánh giá thực trạng đào tạo luật hiện nay của Việt Nam, đồng thời học hỏi kinh nghiệm từ các quốc gia tiên tiến là Hoa Kỳ và Singapore để từ đó đề xuất những giải pháp cụ thể nhằm thúc đẩy việc ứng dụng và đưa các nội dung pháp lý liên quan tới công nghệ số vào các chương trình đào tạo luật tại Việt Nam.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

Ảnh minh họa. Nguồn: Internet.

2. Tác động của sự phát triển công nghệ số đến hoạt động đào tạo cử nhân luật

2.1. Tác động tích cực

Không thể phủ nhận rằng sự phát triển nhanh chóng của công nghệ số đã có nhiều tác động tích cực đến lĩnh vực giáo dục nói chung và hoạt động đào tạo cử nhân luật nói riêng. Quá trình số hóa giáo dục tại các nước, bao gồm cả Việt Nam, được thúc đẩy nhanh hơn, diễn ra mạnh mẽ hơn cả trong và sau khi đại dịch Covid-19 xảy ra, với những tác động tích cực như:

Thứ nhất, đa dạng hơn các phương pháp và hình thức đào tạo. Công nghệ số cho phép các nền tảng học trực tuyến như Zoom, Microsoft Teams, Google Meet,… đến gần với mọi người hơn. Từ thực tiễn buộc phải “hạn chế tiếp xúc để ngăn ngừa dịch bệnh” trong đại dịch đã chuyển thành xu hướng làm tại nhà (work from home), học tại nhà (learn from home) sau đại dịch, từ đó mang lại nhiều cơ hội tiếp cận tri thức nói chung và kiến thức pháp luật nói riêng một cách chủ động và linh hoạt trên cơ sở tiết kiệm các nguồn lực. Thay vì phải di chuyển quá nhiều, các khóa học trực tuyến về luật, chương trình đào tạo luật có kết hợp trực tiếp – trực tuyến (hybrid legal education) mở ra cơ hội lớn hơn để truyền tải và tiếp cận kiến thức vượt ra ngoài giới hạn địa lý. Hơn nữa, các công nghệ mới như blockchain, thực tế ảo (VR), phiên toà giả định thông qua nền tảng số (tech-moot court)… ngày càng phổ biến cũng góp phần nâng cấp và làm phong phú phương pháp đào tạo luật, tạo cơ hội cho sinh viên tương tác trực quan và trải nghiệm hơn với các hoạt động nghề nghiệp đặc thù trong tương lai mà không tốn nhiều chi phí và thời gian di chuyển.

Thứ hai, mở rộng và làm phong phú hơn các nội dung đào tạo. Công nghệ số đã thúc đẩy việc mở rộng phạm vi nội dung đào tạo luật với sự xuất hiện của các lĩnh vực mới như pháp luật về công nghệ, hợp đồng thông minh, dữ liệu, AI, kinh tế số v.v, bên cạnh các môn học truyền thống vốn có của ngành luật. Hơn thế nữa, hoạt động đào tạo mang tính chất liên ngành (luật và kinh tế, luật và công nghệ, luật và quản lý nhà nước v.v…) đã và đang được triển khai tại nhiều cơ sở đào tạo luật. Thay vì chỉ đào tạo kiến thức đơn ngành như trước đây, kiến thức liên ngành không chỉ giúp sinh viên luật nâng cao tri thức, đa dạng cách tiếp cận vấn đề mà còn hỗ trợ họ một nền tảng kiến thức cơ bản của những ngành liên quan để ứng dụng pháp luật tối ưu hơn. Ngoài ra, phạm vi đào tạo được mở rộng, phù hợp với xu hướng phát triển của thế giới không chỉ là việc bổ sung thêm hoặc thay đổi cấu trúc các môn học trong chương trình đào tạo, mà còn tạo ra sự kết nối và liên thông giữa các chương trình đào tạo luật của Việt Nam và các nước, tạo điều kiện cho sinh viên luật tham gia học các chương trình tiên tiến quốc tế, các chương trình liên kết với các cơ sở đào tạo luật ở nước ngoài. Rõ ràng, ngoài các yếu tố như học phí, đội ngũ giảng viên, cơ sở vật chất, môi trường học tập v.v, thì việc mở rộng và phát triển các chương trình đào tạo tiên tiến, có chất lượng, có sự khác biệt, có tính cạnh tranh và được cập nhật thường xuyên cũng là một trong những yếu tố thu hút sự quan tâm của các bậc phụ huynh và người học khi lựa chọn cơ sở đào tạo luật để theo học. Sự điều chỉnh này là một nhu cầu cấp bách trong bối cảnh nguồn thu chủ yếu của các cơ sở đào tạo luật hiện nay ở Việt Nam đến từ học phí, và việc thu hút người học đã trở thành mục tiêu sống còn.

Thứ ba, tăng cường khả năng tiếp cận tri thức. Công nghệ số ngoài xoá bỏ rào cản địa lý, còn giảm thiểu các rào cản tài chính trong việc tiếp cận tri thức pháp lý, đặc biệt tại nơi có sự chênh lệnh phát triển vùng miền như Việt Nam, mở ra khả năng tiếp cận nguồn tài liệu phong phú phục vụ cho giảng dạy và học tập. Chưa bao giờ việc tiếp cận với những cơ sở dữ liệu pháp lý trực tuyến, hệ thống số hóa bản án, án lệ v.v của Việt Nam và quốc tế lại trở nên thuận tiện đến thế.

Thứ tư, mở ra nhiều cơ hội phát triển kỹ năng mới. Công nghệ số không chỉ hỗ trợ học tập mà còn tạo điều kiện và là động lực thúc đẩy sinh viên luật phát triển các kỹ năng mới, nhằm đáp ứng yêu cầu của thị trường lao động hiện đại. Sự phát triển của công nghệ số đã đặt ra những yêu cầu cấp bách cho những người hành nghề luật tương lai phải tự trang bị cho mình những kiến thức và kỹ năng mới trong việc sử dụng thành thạo các công cụ công nghệ, khả năng phân tích tệp dữ liệu pháp lý lớn, lập trình mã hóa cơ bản cho luật, quản lý số... Nếu một luật sư không thể cung cấp một dịch vụ tư vấn pháp lý chất lượng hơn những gì mà AI có thể làm, điều mà AI đang làm miễn phí hiện nay, thì họ sẽ thua đối thủ công nghệ trên chính sân chơi sở trường của mình. Việc sử dụng hiệu quả các công cụ công nghệ, tất nhiên, phần lớn đến từ nỗ lực tự thân của người học. Tuy nhiên, nếu có sự định hướng và hỗ trợ tích cực của các cơ sở đào tạo luật thì những cơ hội phát triển kỹ năng mới này của cử nhân luật trong thời đại công nghệ số sẽ được thúc đẩy nhanh hơn và hiệu quả hơn.

2.2. Tác động hạn chế

Sự phát triển của công nghệ số, bên cạnh nhiều mặt tích cực, cũng đem đến không ít những tác động hạn chế đối với hoạt động đào tạo cử nhân luật, cụ thể:

Thứ nhất, tình trạng phụ thuộc quá mức vào công nghệ số. Việc sử dụng các nền tảng trực tuyến có thể làm giảm đi tính tương tác thực tế trong hoạt động đào tạo, cũng đồng thời là một yếu tố quan trọng trong đào tạo luật. Các buổi học qua nền tảng trực tuyến thường nhận được những phản hồi về tính kém tương tác hoặc thậm chí giao lưu “một chiều” chỉ từ giảng viên đến sinh viên. Sự tiện lợi của công nghệ đi kèm với sự thiếu hoặc mất kết nối của giảng viên với sinh viên và giữa các sinh viên với nhau cũng là điều khó tránh khỏi khi ứng dụng những công nghệ dạy học trực tuyến này. Ngoài ra, sự lệ thuộc vào AI trong đào tạo và nghiên cứu dẫn đến tình trạng “lười tư duy” trong một bộ phận không nhỏ sinh viên luật, điều mà sẽ khiến các “bác sĩ pháp lý” tương lai dần mất đi khả năng tương tác trực tiếp và thấu hiểu sâu sắc nhu cầu của khách hàng, nắm bắt tâm lý, đặt câu hỏi đúng trọng tâm, chuẩn đoán chính xác, lựa chọn và “cá nhân hóa” phương thuốc cũng như lộ trình điều trị phù hợp nhất cho từng khách hàng riêng biệt. Theo một nghiên cứu mới của MIT Media Lab trên cơ sở theo dõi và phân tích hoạt động điện não của sinh viên khi sử dụng ChatGPT để viết luận đã cho thấy việc sinh viên sử dụng quá nhiều ChatGPT, một chatbot phổ biến hiện nay, có thể ảnh hưởng nghiêm trọng đến khả năng ghi nhớ, tư duy và tương tác (Natalyia Kosmyna et al, 2025). Bên cạnh đó, vụ việc gần đây của Luật sư Richard Bednar bị Toà phúc thẩm Utah xử phạt sau khi hồ sơ kháng cáo cho thân chủ được phát hiện có viện dẫn một án lệ không tồn tại do AI tạo ra khi sử dụng ChatGPT là một minh chứng rõ ràng cho việc sử dụng AI mà không có kiểm soát, ngay cả khi hồ sơ đó được chuẩn bị bởi một luật sư tập sự (Betsy Reed, 2025).  Không những thế, theo Lê Quang Minh (2025), việc sử dụng AI còn đặt ra những vấn đề về đạo đức cũng như sự thiên vị và công bằng, các mối quan tâm về quyền riêng tư và tính minh bạch. Việc tích hợp AI trong giáo dục có thể làm tình trạng đạo văn dễ dàng hơn và tình trạng gian lận trở nên phổ biến hơn khi AI có thể làm thay các nhiệm vụ của người học như trả lời câu hỏi, làm báo cáo, bài tập, bài kiểm tra, khóa luận tốt nghiệp... Rõ ràng, những vi phạm về đạo đức và liêm chính học thuật trong việc sử dụng AI thực sự đáng báo động, và tất nhiên, kéo theo đó là sự hạn chế trong phát triển tư duy pháp lý của các sinh viên luật.

Thứ hai, những thách thức trong việc chuẩn hóa chương trình đào tạo và nguy cơ mất cân bằng giữa lý thuyết truyền thống và thực hành công nghệ ứng dụng trong ngành luật. Sự thay đổi của bối cảnh và môi trường đào tạo ngành luật hiện nay đặt ra những thách thức không nhỏ đối với việc đổi mới các chương trình đào tạo luật. Việc tích hợp công nghệ số chủ yếu mới chỉ dừng lại ở các hoạt động giảng dạy, học tập, mà chưa thực sự được các cơ sở đào tạo luật chủ động tích hợp ngay vào chương trình đào tạo cũng như mở rộng các môn học kết hợp giữa luật và ứng dụng công nghệ số hay các môn luật điều chỉnh các quan hệ mới phát sinh từ công nghệ số... Tất nhiên, sẽ là sai lầm nếu quá tuyệt đối hóa “công nghệ số”, coi công nghệ số là trên hết. Bởi suy cho cùng, bản chất công nghệ số là công cụ để ứng dụng thực hành luật trong thực tế và không thể thay thế cho lý thuyết và kiến thức cơ bản trong những lĩnh pháp luật truyền thống. Nếu quá chú trọng công nghệ thì đội ngũ cử nhân luật sau tốt nghiệp lại chỉ giỏi công nghệ mà không nắm chắc các vấn đề về lý luận và phương pháp luận ngành luật, dẫn đến sự mất cân bằng và những khoảng trống trong nhận thức và thực hành nghề nghiệp.

Thứ ba, hạn chế đến từ khung pháp lý chưa hoàn thiện và chưa theo kịp sự phát triển của công nghệ. Khung pháp lý của Việt Nam hiện hành vẫn chưa hoàn thiện và toàn diện để điều chỉnh những công nghệ đã du nhập vào Việt Nam, chẳng hạn AI, blockchain, hợp đồng thông minh (smart contracts)…. Điều này gây ra nhiều khó khăn cho việc cập nhật nội dung đào tạo, xây dựng đề cương cũng như triển khai việc giảng dạy, học tập các môn học pháp luật liên quan tới công nghệ số.

Thứ tư, khoảng cách trong ứng dụng công nghệ số giữa các vùng miền và các cơ sở đào tạo luật là một trong những hạn chế lớn. Mặc dù ứng dụng công nghệ số vào giáo dục tạo ra nhiều cơ hội học tập và tiếp cận tri thức hơn cho các vùng sâu, vùng xa, khu vực nông thôn, tuy nhiên, sự khác biệt về tiềm lực kinh tế đã dẫn đến mức độ đầu tư về cơ sở hạ tầng, mạng lưới viễn thông, điện, internet giữa các khu vực, các tỉnh, thành trong cả nước, từ đó dẫn đến mức độ tiếp cận công nghệ số cũng hình thành khoảng cách. Ở phạm vi hẹp hơn, khoảng cách trong ứng dụng công nghệ số giữa các cơ sở đào tạo luật cũng có thể dẫn đến tình trạng chênh lệch cơ hội tiếp cận tri thức của các bạn sinh viên đang theo học tại các cơ sở đào tạo này. Một số cơ sở đào tạo luật đã đầu tư và đem đến cho sinh viên trải nghiệm công nghệ số trong học tập tốt hơn, với nhiều cơ hội tiếp cận và mở rộng tri thức hơn, trong khi đó, một số cơ sở khác lại chưa thực sự quan tâm tới hoạt động này. Chi phí đầu tư hạ tầng công nghệ cao thực sự là một thách thức và không phải là sự ưu tiên hàng đầu của nhiều cơ sở đào tạo.

Thứ năm, sự chưa đồng đều giữa giảng viên và sinh viên đối với việc ứng dụng công nghệ trong hoạt động đào tạo cũng dẫn đến những bất cập nhất định. Trong khi đa phần sinh viên thế hệ trẻ thường thành thạo công cụ số, thì một số giảng viên lại gặp những khó khăn nhất định trong việc thích nghi với những công nghệ này. Sinh viên thường sẽ mong đợi các bài giảng sinh động, tích hợp công nghệ hay các tình huống giả lập dựa trên AI, hoặc trực quan phiên toà ảo… để tăng sự tương tác và khả năng thực hành pháp lý ngay tại lớp học; ngược lại đội ngũ giảng viên phần lớn sử dụng hệ thống giảng dạy truyền thống. Cần hiểu rằng việc tích hợp công nghệ vào giảng dạy không hoàn toàn chỉ là việc trình chiếu bài giảng trên máy (trình chiếu slides). Điều này có thể dẫn đến tình trạng nhàm chán ở nhiều lớp học. Hơn nữa, nếu giảng viên không nắm được các công nghệ mới thì cũng khó định hướng và hướng dẫn sinh viên trong các hoạt động nghiên cứu hay đào tạo. Bởi lẽ, hiện nay sinh viên có thể tự tìm tài liệu và thu thập thông tin thông qua việc sử dụng công nghệ mà nếu không có sự định hướng kịp thời của giảng viên, sẽ dẫn đến tình trạng hiểu sai lệch về nội dung và sử dụng kiến thức không chuẩn. Một số sinh viên không có khả năng và thiếu cả kỹ năng để đánh giá những nội dung hỗ trợ của AI là chính xác hay không, bởi vậy, sản phẩm cuối cùng mà họ nộp cho giảng viên còn có những sai sót không đáng có như sử dụng văn bản hết hiệu lực, ghi sai năm ban hành, tạo ra các thông tin và án lệ không có thật...

Thứ sáu, hạn chế về nguồn nhân lực đào tạo liên ngành kết hợp luật – công nghệ số. Tại Việt Nam, đội ngũ giảng viên luật chủ yếu được đào tạo và tập trung giảng dạy trong những lĩnh vực luật truyền thống, mà chưa có nhiều người nghiên cứu chuyên sâu về pháp luật trong các lĩnh vực công nghệ mới như AI, blockchain hay phân tích dữ liệu pháp lý. Điều này dẫn đến những khó khăn trong việc triển khai các môn học mới có liên quan tới công nghệ số, ngay cả khi, các môn học đó đã được bổ sung vào chương trình đào tạo.

3. Kinh nghiệm quốc tế trong việc đổi mới chương trình đào tạo cử nhân luật đáp ứng các yêu cầu của sự phát triển công nghệ số

Sự bùng nổ của công nghệ số trên toàn cầu đã thúc đẩy nhiều quốc gia tiên tiến chọn tiên phong trong ứng dụng, tích hợp công nghệ số vào chương trình đào tạo cử nhân luật, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng nhu cầu của xã hội ngày càng số hóa. Kinh nghiệm từ Hoa Kỳ và Singapore có thể mang lại những bài học giá trị cho Việt Nam trong bước chuyển mình đổi mới hoạt động đào tạo cử nhân luật.

Hoa Kỳ được coi là một trong số những quốc gia có nghề luật phát triển trên thế giới. Các trường đại học hàng đầu như Harvard Law School, Standford Law School đã tiên phong trong ứng dụng AI và VR vào quá trình đào tạo, mô hình phiên toà giả định (moot court) cũng được nâng cấp với phiên bản công nghệ thực tế tăng cường (AR) và VR. Các chương trình đào tạo luật riêng về AI cũng được thiết kế và đưa vào hoạt động như Standford Artificial Intelligence & Law Society (SAILS), hướng đến mục tiêu nâng cao nhận thức về vấn đề pháp lý liên quan đến AI và học máy (machine learning), thúc đẩy sự phát triển hợp tác liên ngành. Bên cạnh đó, các chương trình giảng dạy thí điểm tích hợp công nghệ VR tại các trường đào tạo luật khác như Oklahoma và UNT Dallas, với kế hoạch tích hợp chi tiết được trình bày trong Hội nghị Hiệp hội Thư viện Luật Hoa Kỳ (AALL), trong đó công nghệ video và mô hình 3-D được ứng dụng để tăng cường khả năng học tập của sinh viên.  Hai ví dụ cụ thể mà Oklahoma và UNT Dallas đưa ra trình diễn tại hội nghị lần lượt là: (1) Oklahoma xây dựng một hiện trường vụ án mô phỏng để sinh viên điều tra, nhóm đã mô phỏng bằng chứng quan trọng như một khẩu súng ngắn và một chiếc tua vít, phần mềm thực tế ảo thông qua Oculus cho phép sinh viên điều tra ba chiều, chụp ảnh màn hình và chú thích tuỳ ý; (2) UNT Dallas cho thấy việc ứng dụng phần mềm mô phỏng bối cảnh phòng xử án, nơi sinh viên được trình bày phần lập luận của mình (cụ thể trong phiên toà xét xử Lizzie Borden), phần mềm sẽ chấm điểm sinh viên dựa trên giọng điệu, âm lượng, giao tiếp bằng mắt và thời gian thực hiện (Zach Warren, 2019).

Một ví dụ điển hình khác về việc áp dụng AI vào lớp học về pháp luật tại Trường Luật Sturm – Đại học Denver tại Hoa Kỳ, trong khóa học về luật tài sản (Property Course), giảng viên ứng dụng ChatGPT vào hoạt động thảo luận tại lớp và tiến hành một khảo sát đối với sinh viên tham gia lớp học, trong đó 70% sinh viên được khảo sát cho rằng AI hữu ích cho việc học tập của họ, 80% sinh viên cho rằng AI hữu ích cho những cuộc thảo luận ngắn tại lớp và 80% sinh viên cho rằng họ nên có kiến thức về việc sử dụng hệ thống AI. Họ cho rằng công cụ AI có thể hỗ trợ cho việc học tập pháp luật cho họ, mặc dù rằng có một số ít không đồng tình với quan điểm này, tuy vậy có thể thấy hầu hết sinh viên đều phát biểu ủng hộ việc tích hợp AI nhiều hơn vào quá trình học tập pháp luật (John Bliss, 2024).

Singapore cũng là quốc gia trong khu vực Đông Nam Á sớm ứng dụng công nghệ số vào đào tạo luật, như thiết lập công nghệ pháp lý (legaltech). Khoa Luật, Đại học quốc gia Singapore (NUS) cũng đã kết hợp luật và công nghệ thành môn học bắt buộc đưa vào chương trình đào tạo cử nhân luật trong năm học thứ ba (The National University of Singapore, Undergraduate Programmes (in Law), 2023). Bên cạnh đó, NUS cũng hình thành các khóa học luật tự chọn (Elective Law Course) có tích hợp liên ngành, trong đó ngoài những khóa học thông thường như Asian Legal Studies, Civil Law, Corporate & Financial Services Law, Martitime Law, Law & Society,… thì NUS xây dựng riêng chuyên ngành Luật Công nghệ và Sở hữu trí tuệ (Intellectual Property & Technology Law) với những môn học có ứng dụng công nghệ như “Trí tuệ nhân tạo, khoa học thông tin và Luật” (Artificial Intelligence, Information Science & Law), Công nghệ số và quyền con người (Digital Technologies and Human Rights), Luật dữ liệu cá nhân toàn cầu (Global Data Privacy Law), IT Law (Luật công nghệ thông tin), Luật, công nghệ tài chính và nền kinh tế nền tảng (Law, Fintech and the Platform Economy), Luật bảo vệ dữ liệu và quyền riêng tư (Privacy & Data Protection Law), Quy định về nền tảng kỹ thuật số (Regulations of Digital Platforms), nhằm gia tăng kiến thức kết hợp giữa luật và công nghệ cho người học (The National University of Singapore, Elective Law Course, 2023).

Những kinh nghiệm của các cơ sở đào tạo luật tại Hoa Kỳ và Singapore có thể là những thông tin tham khảo hữu ích cho các cơ sở đào tạo luật ở Việt Nam trong hoạt động ứng dụng công nghệ số vào chương trình đào tạo cử nhân luật, cải tiến chương trình đào tạo cử nhân luật, tích hợp kiến thức và thực hành nghề luật với công nghệ số.

4. Thực trạng đào tạo cử nhân luật tại Việt Nam hiện tại trong bối cảnh phát triển công nghệ số

Trong bối cảnh phát triển công nghệ số, việc đào tạo cử nhân luật tại Việt Nam đứng trước nhiều cơ hội và thách thức. Trước những biến đổi lớn với sự bùng nổ của công nghệ số, đào tạo ngành luật cần phải nhận diện chính xác vị trí hiện tại trên “bản đồ công nghệ” để có những định hướng mới, thực hiện các bước điều chuyển để cập nhật chương trình đào tạo phù hợp và thích ứng với bối cảnh mới của cơn bão công nghệ số và hàng loạt các quan hệ mới phát sinh từ công nghệ.

Thực trạng đào tạo cử nhân luật tại Việt Nam trong bối cảnh công nghệ số phản ánh những tiến bộ bước đầu trong ứng dụng nhưng vẫn còn nhiều hạn chế đáng kể, được xét đến trong hai khía cạnh về chương trình đào tạo và phương pháp, hình thức đào tạo. Ở góc độ chính sách, thông qua Quyết định mới nhất số 1056/QĐ-TTg ngày 13/9/2023 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt “Chương trình tăng cường kiểm soát và nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật giai đoạn 2023-2030”, Việt Nam đã đề ra mục tiêu và các nhiệm vụ cụ thể để nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, cải cách tư pháp và hội nhập quốc tế. Mục tiêu và các giải pháp cụ thể đặt ra không chỉ tập trung nâng cao chất lượng đào tạo thông qua nâng cao năng lực đội ngũ giảng viên ngành luật, tăng cường kết nối cơ sở đào tạo với đơn vị sử dụng lao động..., mà còn tăng cường đổi mới, cập nhật chương trình đào tạo theo hướng hội nhập quốc tế.

Về chương trình đào tạo, các cơ sở đào tạo luật trước hết phải tuân thủ chương trình khung của Bộ Giáo dục – Đào tạo với yêu cầu trang bị kiến thức toàn diện cho cử nhân luật trong các lĩnh vực pháp luật truyền thống như dân sự, hình sự, hành chính, tố tụng dân sự, tố tụng hình sự, doanh nghiệp, thương mại trong nước và thương mại quốc tế..... Ngoài ra, để tạo sự khác biệt, nâng cao chất lượng đào tạo và đáp ứng các yêu cầu đổi mới trong bối cảnh phát triển công nghệ số, một số cơ sở đào tạo luật đã đưa vào chương trình đào tạo các môn học kết hợp kiến thức luật và công nghệ, chẳng hạn như Trường Đại học Luật Hà Nội với học phần “Fintech Law” (02 tín chỉ) trong chương trình đào tạo cử nhân hệ chất lượng cao ngành Luật kinh tế năm học 2023-2024; Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh với học phần “Ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành luật” (02 tín chỉ bắt buộc) và “Pháp luật và nền kinh tế số” (02 tín chỉ tự chọn) trong chương trình đào tạo cử nhân ngành Luật kinh tế; Trường Đại học Kinh tế Tài chính với học phần “Nhập môn chuyển đổi số” (03 tín chỉ tự chọn) trong chương trình đào tạo cử nhân ngành Luật kinh tế năm 2024, v.v…. Có thể thấy, mức độ tích hợp kiến thức pháp luật về công nghệ vào chương trình đào tạo ở gần 100 cơ sở đào tạo luật hiện nay là chưa nhiều và chưa đồng bộ (Hồ Nhân Ái, 2022).

Về phương pháp và hình thức đào tạo, việc số hóa ở mức độ cơ bản đã được triển khai trong đào tạo cử nhân luật, chẳng hạn như việc ứng dụng giảng dạy thông qua ứng dụng Zoom, Microsoft Teams, Google Meet, Elearning, quản lý học tập thông qua hệ thống LMS (Learning Management System), sử dụng hệ thống tài liệu, dữ liệu thực tế được số hóa trong giảng dạy và học tập (thư viện số, bản án, án lệ hậu mã hóa…). Tuy vậy, mức độ ứng dụng chỉ tạm dừng ở việc chia sẻ bài giảng, đăng tải tài liệu, giao lưu thông qua không gian mạng, góp phần tiết kiệm thời gian di chuyển, chi phí in ấn tài liệu…, mà chưa khai thác triệt để giá trị ứng dụng của các công nghệ. Việc khai thác và ứng dụng các công nghệ tiên tiến khác như AI, blockchain cơ bản được trang bị ở cấp độ cơ sở nhưng không đồng bộ. Ví dụ như hoạt động ứng dụng AI và blockchain trong ngành luật mới được trang bị tại Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, phối hợp với Viện công nghệ Blockchain và Trí tuệ nhân tạo (ABAII), Hiệp hội Blockchain Việt Nam (VBA). Ngày 18/6/2024, các bên đã ký kết biên bản thoả thuận hợp tác với trọng tâm trong giai đoạn 2024-2025, hai đơn vị cùng phối hợp và tổ chức hoạt động liên quan đến công nghệ blockchain và AI như hợp tác về giảng dạy cho các giảng viên, sinh viên; đào tạo cấp chứng chỉ trong lĩnh vực công nghệ; cung cấp khóa học trực tuyến; nghiên cứu ứng dụng của blockchain và AI; xây dựng chủ đề nghiên cứu công nghệ. Một ví dụ khác là Trường Đại học Kinh tế - Luật (UEL) đã đề xuất đề án khoa học và công nghệ “Xây dựng cơ sở dữ liệu về việc sử dụng trí tuệ nhân tạo (AI) trong lĩnh vực pháp luật và ứng dụng AI trong đào tạo các ngành Luật” ban hành kèm theo Quyết định số 728/QĐ-ĐHQG ngày 26/06/2024 của Giám đốc Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh. Nhóm chuyên gia UEL đang nghiên cứu ứng dụng AI vào ngành luật thông qua việc xây dựng một bộ cơ sở dữ liệu. Trong đó, AI sẽ tham gia vào việc xử lý dữ liệu văn bản, phân tích dữ liệu từ các bộ luật, rà soát thuật ngữ giữa các bộ luật, nhằm tìm ra sự không thống nhất trong việc sử dụng các thuật ngữ này (Nguyễn Chính, 2025). Tuy nhiên, các hình thức khác như mô phỏng phiên tòa ảo, thực hành kỹ năng nghề luật qua tech-moot court, virtual reality chưa phát triển tại Việt Nam trong khi các nước đã triển khai ở mức độ chuyên sâu như Hoa Kỳ hay Singapore.

Như vậy, nhìn chung, việc ứng dụng công nghệ số trong phạm vi chương trình đào tạo và phương pháp, hình thức đào tạo ở Việt Nam đều còn hạn chế. Nguyên nhân của thực trạng này xuất phát từ: (1) khung pháp lý của Việt Nam chưa theo kịp sự phát triển của công nghệ, chưa có quy định pháp luật đầy đủ để điều chỉnh các vấn đề công nghệ mới như AI, blockchain v.v; (2) hạn chế về nguồn nhân lực giảng dạy kiến thức liên ngành luật và công nghệ, và (3) hạn chế trong đầu tư vào cơ sở hạ tầng số, các mô hình cơ sở hạ tầng mới như Legal Tech Labs, Library Tech,…. Những yếu tố này làm chậm quá trình chuyển đổi và ứng dụng công nghệ số trong đào tạo cử nhân luật ở Việt Nam, đòi hỏi phải có những giải pháp đồng bộ để khắc phục.

5. Một số kiến nghị nhằm đổi mới các hoạt động đào tạo cử nhân luật đáp ứng yêu cầu của sự phát triển công nghệ số

Trong dòng chảy của sự phát triển công nghệ số, việc đào tạo cử nhân luật không thể không bắt nhịp để chuyển mình. Do vậy, việc đào tạo cử nhân luật cần có những định hướng và thay đổi kịp thời nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển công nghệ số, cụ thể:

Thứ nhất, cần tiến hành đánh giá tổng thể các hoạt động đào tạo cử nhân luật trong bối cảnh phát triển công nghệ số và trong mối tương quan với các chuẩn chương trình đào tạo lĩnh vực pháp luật trình độ đại học để có những điều chỉnh phù hợp. Ngày 14/3/2025, Bộ trưởng Bộ Giáo dục – Đào tạo đã ký Quyết định số 678/QĐ-BGDĐT ban hành Chuẩn chương trình đào tạo lĩnh vực pháp luật trình độ đại học (Quyết định 678). Theo đó, chuẩn đầu ra về kỹ năng đối với người tốt nghiệp trình độ đại học tại các chương trình đào tạo trong lĩnh vực pháp luật tối thiểu phải “có năng lực ứng dụng hiệu quả công nghệ thông tin phục vụ công việc, tìm kiếm thông tin, tra cứu văn bản pháp luật trên môi trường internet và đáp ứng yêu cầu về năng lực số theo quy định hiện hành” (mục 2.2.2 Quyết định 678). Ngoài ra, các cơ sở đào tạo luật phải bảo đảm đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về cơ sở vật chất, công nghệ và học liệu để giúp người học đạt được chuẩn đầu ra của chương trình đào tạo, đồng thời đáp ứng các yêu cầu tối thiểu về hệ thống thư viện (bao gồm cả thư viện số), có hệ thống phần mềm đào tạo trực tuyến theo quy định về ứng dụng công nghệ thông tin trong đào tạo trực tuyến đối với giáo dục đại học của Bộ Giáo dục và Đào tạo, có hệ thống quản lý học tập bằng phần mềm cho phép kết nối giảng viên, người học và thực hiện việc cung cấp thông tin và tài nguyên học tập, đề cương của các môn học, các hoạt động học tập và tương tác, đảm bảo quyền truy cập và sử dụng các phần mềm cung cấp và cập nhật văn bản pháp luật Việt Nam cũng như kết nối ít nhất một cơ sở dữ liệu nghiên cứu pháp luật nước ngoài (mục 2.8 Quyết định 678). Thực tiễn đào tạo luật tại Việt Nam hiện nay cho thấy, khả năng đáp ứng các chuẩn chương trình đào tạo nói trên của mỗi cơ sở đào tạo luật là khác nhau, có sự chênh lệch nhất định. Vì vậy, hoạt động đánh giá này, dù được thực hiện bởi chính các cơ sở đào tạo hay bởi cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền đều rất cần thiết. Thông qua đánh giá, Việt Nam nhận diện được những hạn chế, đánh giá được khả năng, mức độ của sự không đồng đều trong tích hợp, ứng dụng công nghệ số trong chương trình đào tạo luật giữa các cơ sở đào tạo luật và vùng miền, từ đó xác định định hướng và tiêu chuẩn chung để cải tiến chương trình đào tạo. Mục tiêu là tối đa hóa việc ứng dụng công nghệ số, hiện thực hóa các tiêu chí về cơ sở vật chất, công nghệ và học liệu, nhằm nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật trong bối cảnh công nghệ số.

Thứ hai, rà soát và cập nhật các chương trình đào tạo theo hướng lồng ghép và mở rộng một cách hợp lý các nội dung giảng dạy pháp luật trong lĩnh vực công nghệ số. Theo quy định của Bộ Giáo dục – Đào tạo, về cấu trúc của chương trình đào tạo, ngoài kiến thức giáo dục đại cương, kiến thức bắt buộc của cơ sở ngành và kiến thức bắt buộc cốt lõi ngành đã được ấn định, thì khối kiến thức tự chọn cơ sở ngành và cốt lõi ngành là do cơ sở đào tạo thiết kế và quyết định phù hợp với định hướng phát triển, đặc thù và thế mạnh của họ. Các môn học liên quan tới công nghệ số có thể cân nhắc đưa vào nhóm kiến thức này với việc bổ sung các chuyên đề hoặc học phần có sự kết hợp giữa luật và công nghệ để bước đầu tích hợp kiến thức, kỹ năng về công nghệ vào đào tạo cử nhân luật, chẳng hạn như các học phần “Pháp luật và nền kinh tế số”, “Ứng dụng công nghệ thông tin trong ngành luật”, “Luật và công nghệ AI”, “Luật về bảo vệ dữ liệu cá nhân” hay các chuyên đề “Tranh tụng trong không gian số”, “Công nghệ blockchain trong quản lý pháp lý”, “Đạo đức nghề luật trong kỷ nguyên AI”,... Ngoài ra, đối với những học phần bắt buộc, các nội dung về công nghệ số hoàn toàn có thể lồng ghép ở những mức độ nhất định trong quá trình giảng dạy và học tập. Ví dụ: đối với học phần Luật hình sự, có thể dành thời lượng nhất định để giảng dạy nhóm tội phạm về công nghệ...

Thứ ba, xây dựng và vận hành các Legal Tech Labs (phòng thực nghiệm công nghệ pháp lý) nhằm tận dụng tối đa tiềm năng công nghệ số trong giáo dục và thực hành pháp lý, đặt ra các mục tiêu cụ thể như nghiên cứu và phát triển cơ sở dữ liệu pháp lý số quốc gia phục vụ đào tạo và tư pháp, thực hành nghề nghiệp, tư vấn pháp lý trực tuyến miễn phí phục vụ cộng đồng... Hoạt động phát triển mang tính chiến lược này cần sự chỉ đạo thống nhất từ Chính phủ, sự hỗ trợ kinh phí của Nhà nước và các đơn vị tư nhân để triển khai hiệu quả.

Thứ tư, nâng cao nhận thức trên cơ sở có sự kiểm soát hợp lý trong các hoạt động nghiên cứu và đào tạo luật. Việc sử dụng công nghệ số trong tra cứu và phục vụ học tập không nên bị cấm, đôi khi còn cần được khuyến khích. Tuy nhiên, nếu lạm dụng, gian lận hay vi phạm các quy tắc đạo đức và liêm chính học thuật thì cần phải có sự kiểm soát và xử lý kịp thời để đảm bảo các tiêu chí đánh giá công bằng, khách quan, đảm bảo chuẩn đầu ra và chất lượng đào tạo. Nhận thức là của từng cá nhân và gian lận là điều hoàn toàn có thể xảy ra. Vì vậy, ngoài việc tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức, xây dựng bộ quy tắc đạo đức, liêm chính học thuật, ban hành các quy định về việc sử dụng AI và sử dụng các phần mềm quét AI, thì các cơ sở đào tạo luật cũng cần có các giải pháp sử dụng kết hợp nhiều hình thức kiểm tra, đánh giá cũng như hoàn thiện bộ tiêu chí đánh giá sao cho sát với năng lực thực tế của người học. Gian lận và vi phạm trong việc sử dụng công nghệ số chủ yếu xảy ra ở các hình thức thi và dạng bài tập viết, bởi vậy, vấn đáp hay các hoạt động diễn án trong đào tạo luật có thể giúp giảng viên kiểm tra, đánh giá được năng lực cá nhân của người học...

Thứ năm, phát triển nguồn lực giảng dạy chuyên sâu trong lĩnh vực pháp luật và công nghệ số, thường xuyên cập nhật kiến thức và tăng cường khả năng ứng dụng công nghệ số cho đội ngũ giảng viên tại các cơ sở đào tạo luật. Việc đưa các môn học mới liên quan tới công nghệ số vào chương trình đào tạo cần phải được cân nhắc dựa trên nguồn lực giảng dạy thực tế của cơ sở đào tạo. Việc thiếu hụt nguồn lực có thể dẫn tới tình trạng “chắp vá” hoặc “treo đầu dê bán thịt chó”, tên môn học một đằng, nội dung giảng một nẻo. Cơ sở đào tạo luật cần xây dựng lộ trình phù hợp để xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên song song với việc cho ra đời những môn học mới có đặc tính chuyên môn sâu như lĩnh vực công nghệ số. Ngoài ra, để có thể định hướng, hướng dẫn và kiểm soát hiệu quả việc sử dụng công nghệ số của sinh viên thì trước hết đội ngũ giảng viên cũng có phải đủ sự hiểu biết và các kỹ năng cần thiết trong lĩnh vực này. Do đó, việc tổ chức các khóa đào tạo thường xuyên về công nghệ số cho giảng viên, ban hành tiêu chí đánh giá giảng viên về ứng dụng công nghệ số trong giảng dạy v.v, cũng cần được các cơ sở đào tạo luật chú trọng.

Thứ sáu, các cơ sở đào tạo luật cần tiếp tục đẩy mạnh hợp tác quốc tế và kết nối với doanh nghiệp, với định hướng có chọn lọc dựa trên mục tiêu ứng dụng tối đa công nghệ số vào đào tạo cử nhân luật. Việc hợp tác đồng thời được mở rộng không chỉ với các đơn vị hành nghệ luật, mà bao gồm các công ty, tập đoàn hoạt động trong lĩnh vực công nghệ nhằm tạo điều kiện cho giảng viên, sinh viên luật tiếp cận và được đào tạo kỹ năng ứng dụng công nghệ thực tiễn.

6. Kết luận

Trong bối cảnh công nghệ số đang ngày càng phát triển và thâm nhập sâu vào nhiều khía cạnh trong cuộc sống bao gồm cả hoạt động đào tạo, việc đào tạo cử nhân luật không thể đứng ngoài xu thế chuyển đổi để đáp ứng nhu cầu cấp thiết của một xã hội hiện đại và số hóa. Nghiên cứu đã chỉ ra rằng công nghệ số mang lại cả những tác động thúc đẩy và hạn chế đối với chương trình và phương pháp đào tạo cử nhân luật, đối với người dạy và người học, đối với cả tích luỹ kiến thức và thực hành kỹ năng. Những kinh nghiệm quốc tế từ các quốc gia tiên tiến như Hoa Kỳ và Singapore mang lại nhiều bài học quý giá cho việc đổi mới chương trình và phương pháp đào tạo cử nhân luật gắn liền với ứng dụng công nghệ số như việc thiết lập các Legal Tech Labs cấp khu vực, Library Tech cấp quốc gia, đào tạo liên ngành luật và công nghệ... Sự nhận thức đúng đắn, trách nhiệm và nỗ lực của các cơ sở đào tạo luật tại Việt Nam trong việc xây dựng các nội dung đào tạo về những chủ đề liên quan và tích cực ứng dụng công nghệ số trong hoạt động đào tạo luật sẽ góp phần tạo ra một nguồn nhân lực ngành luật chất lượng cao, hiện đại, đáp ứng các yêu cầu cấp bách trong kỷ nguyên mới, kỷ nguyên vươn mình của dân tộc./.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

Tiếng Việt

1.    Hồ Nhân Ái, Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo cử nhân luật ở Việt Nam, https://lsvn.vn/mot-so-giai-phap-nang-cao-chat-luong-dao-tao-cu-nhan-luat-o-viet-nam1665859199-a125232.html, truy cập ngày 01/08/2025.

2.    Bộ Giáo dục và Đào tạo, Quyết định số 678/QĐ-BGDĐT ngày 14 tháng 3 năm 2025 ban hành Chuẩn chương trình đào tạo lĩnh vực pháp luật trình độ đại học.

3.    Nguyễn Chính, Ứng dụng AI xây dựng cơ sở dữ liệu thuật ngữ chuyên ngành Luật, https://plo.vn/ung-dung-ai-xay-dung-co-so-du-lieu-thuat-ngu-chuyen-nganh-luat-post841190.html, truy cập ngày 01/08/2025.

4.    Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Chương trình đào tạo cử nhân ngành luật kinh tế, https://tuyensinh.ueh.edu.vn/bai-viet/luat-kinh-doanh-dai-hoc-chinh-quy-chuong-trinh-chuan/, truy cập ngày 01/08/2025.

5.    Lê Quang Minh, Vấn đề liêm chính khi sử dụng AI trong giáo dục và nghiên cứu khoa học, https://daotao.neu.edu.vn/Resources/Docs/SubDomain/daotao/CDR/2-TS-LeQuangMinh.pdf, truy cập ngày 01/08/2025.

6.    Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 749/QĐ-TTg ngày 03 tháng 6 năm 2020 phê duyệt Chương trình chuyển đổi số quốc gia đến năm 2025, định hướng đến năm 2030.

7.    Thủ tướng Chính phủ, Quyết định số 1056/QĐ-TTg ngày 13 tháng 9 năm 2023 phê duyệt Chương trình tăng cường kiểm soát và nâng cao chát lượng đào tạo cử nhân luật giai đoạn 2023 – 2030.

8.    Trường Đại học Kinh tế Tài chính, Chương trình đào tạo cử nhân ngành luật kinh tế, https://drive.google.com/file/d/1d-m_inBMOvdhjneFUbecIJet7_rbxvx_/view, truy cập ngày 01/08/2025.

9.    Trường Đại học Luật Hà Nội, Chương trình đào tạo cử nhân hệ chất lượng cao ngành luật kinh tế, https://dt.hlu.edu.vn/SubNews/Details/21709, truy cập ngày 01/08/2025.

10. Trường Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh, Toạ đàm “Ứng dụng AI & Blockchain trong ngành Luật – Siêu trợ lý học tập”, https://www.hcmulaw.edu.vn/vi/su-kien/toa-dam-ung-dung-ai-blockchain-trong-nganh-luat-sieu-tro-ly-hoc-tap, truy cập ngày 01/08/2025.

Tiếng Anh

11. Betsy Reed, US lawyer sanctioned after being caught using ChatGPT for court brief, https://www.theguardian.com/us-news/2025/may/31/utah-lawyer-chatgpt-ai-court-brief, truy cập ngày 01/08/2025.

12. John Bliss, Teaching Law in the Age of Generative AI, 64 Jurimetrics J.111-61, 2024.

13. Standford Law School. (n.d), Standford Artificial Intelligence & Law Society (SAILS), https://law.stanford.edu/stanford-artificial-intelligence-law-society-sails/, truy cập ngày 01/08/2025.

14. The National University of Singapore, Elective Law Course, https://law1a.nus.edu.sg/student_matters/course_listing/elective_subjects.html, truy cập ngày 01/08/2025.

15. The National University of Singapore, Undergraduate Programmes (in Law), https://law.nus.edu.sg/wp-content/uploads/2025/01/2025-NUS-Law-Undergraduate.pdf, truy cập ngày 01/08/2025.

16. Zach Warren, Curriculum Comes Alive: How two law school use virtual reality in the classroom, https://www.law.com/legaltechnews/2019/07/14/curriculum-comes-alive-how-two-law-schools-use-virtual-reality-in-the-classroom/?slreturn=20250320100741, truy cập ngày 01/08/2025.

Natalyia Kosmyna et al, Your brain on chatgpt: Accumulation of cognitive debt when using an ai assistant for essay writing task. arXiv preprint arXiv:2506.08872, 2025.

Tiến sĩ NGUYỄN THỊ THU HIỀN

NCS ĐỖ THỊ DIỆU LINH

Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh