Ảnh minh hoạ.
Kết án oan là do con người hay mô hình tố tụng khiếm khuyết?
Bộ luật Tố tụng Hình sự (BLTTHS) năm 2015 đã kế thừa những nguyên tắc tố tụng hình sự tiến bộ của BLTTHS năm 2003, đồng thời bổ sung một số nguyên tắc như: nguyên tắc suy đoán vô tội (Điều 13); nguyên tắc tuân thủ pháp luật trong hoạt động điều tra (Điều 19); nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm (Điều 26)… Xét về tổng thể, hệ thống các nguyên tắc củaBLTTHS năm 2015 đã thể chế hóa toàn diện chủ trương cải cách tư pháp của Đảng (Nghị quyết số 08-NQ/TW năm 2002, Nghị quyết số 49-NQ/TW năm 2005), cụ thể hóa Hiến pháp năm 2013 và kế thừa, phát triển các quy định còn phù hợp của BLTTHS năm 2003. Với 27 nguyên tắc hiện hành (tương ứng với 27 điều luật được quy định tại Chương II, BLTTHS năm 2015 đã tạo cơ sở cho việc hình thành những chuẩn mực pháp lý về ứng xử của các chủ thể trong quá trình giải quyết vụ án hình sự.
Về lý thuyết, nếu các chủ thể thực thi đúng, đủ và có trách nhiệm các nguyên tắc cơ bản nêu trên, việc bảo vệ quyền con người, quyền công dân, ngăn chặn hành vi buộc tội oan đối với người dân là hoàn toàn khả thi. Tuy nhiên, nói thì dễ nhưng thực tiễn thi hành lại là chuyện khác. Chính thực tiễn thi hành còn nhiều điểm khác biệt với quy định pháp luật nên đã dẫn đến một số vụ án, người tiến hành tố tụng đã kết tội oan cho người vô tội, còn hung thủ thật sự thì nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật. Hậu quả của những vụ án oan không chỉ ảnh hưởng đến quyền, lợi ích hợp pháp và sinh mạng chính trị của người dân mà còn làm cho niềm tin của xã hội vào pháp luật và nền tư pháp bị giảm sút. Đó cũng là lý do vì sao nhiều ý kiến cho rằng cần thiết nên xem xét thay đổi mô hình tố tụng hiện nay (tố tụng thẩm vấn pha trộn tranhtụng) sang hẳn mô hình tranh tụng như một số quốc gia.
Theo quan điểm của người viết, mô hình tố tụng thẩm vấn hay tố tụng tranh tụng đều có những ưu, nhược điểm riêng, không có mô hình nào là hoàn hảo. Hệ thống pháp luật dù có hoàn chỉnh đến đâu, nhưng nếu đặt những người không đủ tài, đức vào vận hành thì sự hoàn hảo đó cũng chỉ trên lý thuyết. Vì vậy, sự đồng bộ cả về hệ thống pháp luật và lựa chọn người đủ tài, đức, đủ bản lĩnh nghề nghiệp vào các cơ quan tiến hành tố tụng, trong đó trọng tâm là hệ thống tư pháp là đòi hỏi cấp thiết.
Thực thi nguyên tắc suy đoán vô tội, cần sự thay đổi về nhận thức của người tiến hành tố tụng
Nguyên tắc suy đoán vô tội được quy định tại khoản 1 Điều 31 Hiến pháp năm 2013 và được cụ thể hóa tại Điều 13 BLTTHS năm 2015, là một nguyên tắc hoàn toàn mới. Với nguyên tắc này, đòi hỏi người tiến hành tố tụng phải thay đổi triệt để về mặt nhận thức. Một người bị khởi tố, truy tố, xét xử thì không được mặc định họ có tội. Điều này là vô cùng khó trong bối cảnh hiện nay khi công tác đấu tranh phòng chống tội phạm vẫn còn nặng quan điểm về “tỷ lệ phá án thành công”. Khi một người bị khởi tố, hầu như mặc định là họ có tội và việc thu thập, điều tra, đánh giá chứng cứ cũng theo hướng buộc tội. Sự định kiến này đã ăn sâu vào nhận thức của không ít người trong xã hội chứ không riêng gì người tiến hành tố tụng. Nhận thức này đã cản trở việc áp dụng nguyên tắc suy đoán vô tội trong thực tiễn giải quyết án hình sự.
Nguyên tắc này cũng đòi hỏi bỏ ngay quan điểm “mặc dù có vi phạm tố tụng nhưng không làm thay đổi bản chất vụ án” mà không ít hội đồng xét xử đã ghi nhận trong bản án. Tinh thần cốt lõi của nguyên tắc suy đoán vô tội là: “Người bị buộc tội được coi là không có tội cho đến khi đượcchứng minh theo trình tự, thủ tục BLTTHS quy định và có bản án kết tội của tòa án đã có hiệu lực pháp luật. Khi không đủ và không làm sáng tỏ căn cứ để buộc tội, kết tội theo trình tự, thủ tục do BLTTHS quy định thì cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng phải kết luận người bị buộc tội không có tội”. Như vậy, khi việc thu thập tài liệu, vật chứng vụ án không tuân thủ trình tự, thủ tục quy định thì dù có vi phạm nghiêm trọng hay không nghiêm trọng thì đương nhiên không được dùng làm chứng cứ để buộc tội. Áp dụng triệt để tinh thần của nguyên tắc này vừa nhằm nâng cao trách nhiệm, năng lực của cơ quan, người tiến hành tố tụng, vừa bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của con người, công dân được Hiến pháp bảo vệ.
Cần chấm dứttình trạng “báo cáo án”, “họp liên ngành”
Điều 17 BLTTHS năm 1988 quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”. Nguyên tắc này được hoàn thiện và phát triển thêm một số nội dung mới, được ghi nhận tại khoản 2 Điều 103 Hiến pháp năm 2013: “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm”. Điều 23 BLTTHS năm 2015 cụ thể hóa: “Thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm. Cơ quan, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của thẩm phán, hội thẩm dưới bất kỳ hình thức nào thì tùy tính chất, mức độ vi phạm mà bị xử lý kỷ luật, xử phạt vi phạm hành chính hoặc bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo quy định của luật”. Khi xét xử, thẩm phán, hội thẩm nhân dân không bị phụ thuộc vào các tài liệu, quyết định tố tụng của cơ quan tiến hành tố tụng trướcđó, không phụ thuộc vào ý kiến của lãnh đạo trực tiếp hoặc của tòa án cấp trên hay các cơ quan khác. Thẩm phán và hội thẩm nhân dân độc lập từ việc nhận định vụ án, quyết định áp dụng pháp luật và thảo luận trong phòng nghị án; các cá nhân, cơ quan, tổ chức không được can thiệp, tác động tới quá trình tố tụng và ra quyết định của hội đồng xét xử. Mọi hành vi can thiệp vào hoạt động xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân đều bị coi là vi phạm pháp luật và ảnh hưởng tới tính khách quan của hoạt động xét xử.
Nguyên tắc này cùng với nguyên tắc “Tòa án xét xử tập thể và quyết định theo đa số” được quy định tại Điều 24 BLTTHS năm 2015, càng cho thấy vai trò, tầm quan trọng của hội thẩm nhân dân. Số lượng hội thẩm nhân dân trong các phiên tòa xét xử sơ thẩm đều nhiều hơn thẩm phán. Theo Điều 254 BLTTHSnăm 2015, hội đồng xét xử sơ thẩm gồm một thẩm phán và hai hội thẩm nhân dân. Trường hợp vụ án có tính chất nghiêm trọng, phức tạp thì hội đồng xét xử sơ thẩm có thể gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm. Đối với vụ án có bị cáo về tội mà Bộ luật Hình sự quy định mức cao nhất của khung hình phạt là tù chung thân, tử hình thì hội đồng xét xử sơ thẩm gồm hai thẩm phán và ba hội thẩm nhân dân.
Tuy nhiên, thực tiễn có tình trạng nguyên tắc này không được tuân thủ đầy đủ. Sự độc lập trong nội bộ hội đồng xét xử cũng là vấn đề cần bàn. Hầu hết hội thẩm nhân dân được lựa chọn thông qua giới thiệu của Mặt trận Tổ quốc và được hội đồng nhân dân cấp có thẩm quyền bầu theo tiêu chuẩn được quy định tại Luật Tổ chức tòa án nhân dân. Tuy nhiên, trình độ, năng lực và thời gian dành cho công tác xét xử của mỗi hội thẩm lại khác nhau, dẫnđến có trường hợp không nghiên cứu kỹ hồ sơ vụ án, mà thường “thống nhất quan điểm” với thẩm phán chủ tọa, dẫn đến tình trạng sự có mặt của hội thẩm nhân dân mang nặng tính hình thức. Không ít trường hợp, số phận bị cáo bị phó mặc cho sự "chuyên nghiệp" của hội thẩm nhân dân.
Mặt khác, sự độc lập của thẩm phán trong mối quan hệ với lãnh đạo tòa án nơi họ trực tiếp công tác hoặc với tòa án cấp trên vẫn còn nhiều điều để bàn. Thực tiễn hoạt động xét xử cho thấy, vẫn còn có sự can thiệp từ phía lãnh đạo tòa án, thậm chí can thiệp sâu vào công việc xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân, kể cả việc định hướng đường lối xét xử. Mặc dù Tòa án nhân dân tối cao đã có yêu cầu nghiêm cấm sự can thiệp vào hoạt động xét xử, nhưng ở các tòa án địa phương (tỉnh, huyện) vẫn tồn tại cơ chế này. Thẩm phán ít khi dám “cãi” lại cơ chế này vì nếu“cãi” thì khó tồn tại, nhất là đến kỳ tái bổ nhiệm. Cơ chế “báo cáo án”, “thỉnh thị án” đã phá vỡ nguyên tắc này, triệt tiêu tính độc lập của thẩm phán, làm giảm vai trò của hội thẩm nhân dân.
Thời gian qua, đã có ý kiến đề xuất nghiên cứu chế định bổ nhiệm thẩm phán suốt đời và thay đổi cơ chế hoạt động của hội thẩm nhân dân. Người viết cho rằng việc thay đổi này là cần thiết để tránh sự lệ thuộc của thẩm phán vào hoạt động chỉ đạo xét xử của lãnh đạo trực tiếp và sự tác động từ bên ngoài, đồng thời tránh tính hình thức trong hoạt động của hội thẩm nhân dân. Việc thay đổi này càng sớm càng tốt để thẩm phán thật sự độc lập, trở thành người “cầm cân nảy mực”, là “trọng tài”, cân phân giữa chứng cứ buộc tội và chứng cứ vô tội. Nguyên tắc này, cùng với nguyên tắc suy đoán vô tội sẽ giúp người tiến hành tố tụng, trọng tâmlà hội đồng xét xử mạnh dạn hơn trong việc giải quyết vụ án hình sự, không sợ bị chỉ đạo án hay bị sức ép từ việc tái bổ nhiệm. Thẩm phán phải thật sự độc lập và không bị lệ thuộc, bị tác động bởi bất cứ yếu tố nào thì mới hy vọng chấm dứt tình trạng buộc tội oan người vô tội.
Tạo sự đột phá trong hoạt động tranh tụng
Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm cần thực hiện nghiêm túc, đúng, đủ, thực chất theo các Nghị quyết của Đảng, Hiến pháp và BLTTHS năm 2015. Trước khi Ban Chấp hành Trung ương Đảng ban hành Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 về một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 về chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 thì khái niệm “tranh tụng” còn khá xa lạ với người tiến hành tố tụng và giới luật sư.
Điểm c mục 1 phần B của Nghị quyết số 08 nêu: “Khi xét xử, các tòa án phải bảo đảm cho mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, thực sự dân chủ, khách quan; thẩm phán và hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; việc phán quyết của tòa án phải căn cứ chủ yếu vào kết quả tranh tụng tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện các chứng cứ, ý kiến của kiểm sát viên, của người bào chữa, bị cáo, nhân chứng, nguyên đơn, bị đơn và những người có quyền, lợi ích hợp pháp để ra những bản án, quyết định đúng pháp luật, có sức thuyết phục và trong thời hạn quy định”. Quan điểm chỉ đạo sáng suốt này của Đảng đã phát huy tác dụng rất lớn trong hoạt động xét xử của tòa án nhân dân các cấp. Luật sư cũng được dành nhiều quyền hơn trong hoạt động tố tụng, nhất là tham gia bào chữa trong các vụ án hình sự.
Mới đây, Nghị quyết số 27-NQ/ TW ngày 09/11/2022 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Namtrong giai đoạn mới, đã kế thừa và phát triển quan điểm về xây dựng Nhà nước pháp quyền theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Tại mục 7 phần IV Nghị quyết nêu:
- Hoàn thiện chính sách, pháp luật liên quan đến tư pháp, bảo đảm tôn trọng và bảo vệ quyền con người, quyền công dân. Hoàn thiện cơ chế phòng ngừa, ngăn chặn, xử lý mọi hành vi can thiệp trái pháp luật vào hoạt động tư pháp; bảo đảm tính độc lập của tòa án theo thẩm quyền xét xử, thẩm phán, hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật.
- Xây dựng chế định tố tụng tư pháp lấy xét xử là trung tâm, tranh tụng là đột phá; bảo đảm tố tụng tư pháp dân chủ, công bằng, văn minh, pháp quyền, hiện đại, nghiêm minh, dễ tiếp cận, bảo đảm và bảo vệ quyền con người, quyền công dân...
- Hoàn thiện cơ chế để khắc phục tình trạng quan hệ giữa các cấp tòa án là quan hệ hành chính, bảo đảm độc lập giữa các cấp xét xử và độc lập của thẩm phán, hội thẩm khi xét xử. Phân định rõ nhiệm vụ xét xử sơ thẩm, xét xử phúc thẩm, xét lại bản án, quyết định theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm…
Để triển khai quan điểm này của Đảng vào văn bản pháp luật và thực tiễn xét xử, cần một quá trình để nghiên cứu, tổng kết, sửa đổi bổ sung. Hiện nay, Hiến pháp và BLTTHS đã ghi nhận nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”. Theo đó, trong quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử, điều tra viên, kiểm sát viên, người khác có thẩm quyền tiến hành tố tụng, người bị buộc tội, người bào chữa và người tham gia tố tụng khác đều có quyền bình đẳng trong việc đưa ra chứng cứ, đánh giá chứng cứ, đưa ra yêu cầu để làm rõ sự thật khách quan của vụ án. Mọi chứng cứ xác định có tội, chứng cứ xác định vô tội…; Bản án, quyết định của tòa án phải căn cứ vào kết quả kiểm tra, đánh giá chứng cứ và kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Điều 73 BLTTHS năm 2015 đã bổ trợ cho nguyên tắc này với những quy định cụ thể hơn quyền của người bào chữa trong việc thu thập, đưa ra chứng cứ, đồ vật; kiểm tra, đánh giá chứng cứ hoặc yêu cầu cơ quan, người có thẩm quyền thu thập, đánh giá chứng cứ… Khoản 2 và 3 Điều 88 BLTTHS năm 2015 quy định về trình tự, thủ tục thu thập chứng cứ của người bào chữa, người tham gia tố tụng khác nhưng không cụ thể như với cơ quan tiến hành tố tụng. Vì vậy, việc chấp nhận tài liệu do người bào chữa hoặc người tham gia tố tụng khác giao nộp trở thành chứng cứ hay không lại phụ thuộc rất nhiều vào quan điểm và ý chí cá nhân của người tiến hành tố tụng, trong khi Bộ luật chưa có một cơ chế ràng buộc chặt chẽ về trách nhiệm của người tiến hành tố tụng khi từ chối hoặc không chấp nhận tài liệu do người bào chữa cung cấp là chứng cứ vụ án. Về cơ bản, hiện nay người bào chữa đưa ra quan điểm bào chữa, bảo vệ quyền lợi cho người bị buộc tội trên nền tảng hồ sơ do cơ quan tiến hành tố tụng thu thập. Vì vậy, đã có sự bất cân bằng giữa người tiến hành tố tụng và người bào chữa ngay trong hoạt động thu thập, đánh giá chứng cứ.
Hơn nữa, quá trình nghiên cứu hồ sơ và diễn biến phiên tòa, nếu hội đồng xét xử thấy rằng việc thu thập chứng cứ còn chưa đủ, hoặc cần làm rõ thì ra quyết định trả hồ sơ điều tra bổ sung, trong đó nêu rõ những nội dung cần thu thập. Xét về lý thuyết, việc trả hồ sơ này có hai mặt, mặt tích cực là “chỉ” cho cơ quan điều tra, viện kiểm sát khắc phục những vi phạm tố tụnghoặc thu thập thêm những tài liệu, vật chứng cần thiết để củng cố căn cứ buộc tội; nhưng mặt không tích cực, quyết định trả hồ sơ của hội đồng xét xử là sự định hướng buộc tội. Do đó, khi điều tra bổ sung theo những gì hội đồng xét xử chỉ ra hoặc ít nhất là làm gần đủ yêu cầu thì việc người bị buộc tội bị xác định có tội là không thể tránh khỏi. Nguyên tắc “tranh tụng trong xét xử được bảo đảm”, đòi hỏi tranh tụng từ khi khởi tố, điều tra chứ không chỉ riêng tại phiên tòa.
Từ khi Nghị quyết số 08-NQ/TW của Đảng ra đời năm 2002, đến nay về cơ bản, hoạt động tranh tụng trong các vụ án hình sự đã được chú trọng hơn rất nhiều, về cả hai phía: cơ quan tiến hành tố tụng và người bào chữa. Rất nhiều vụ án, ý kiến của người bào chữa được các cơ quan tiến hành tố tụng chấp nhận; nhiều trường hợp người bị buộc tội được xác định vô tội hoặc giảm nhẹ trách nhiệm hình sự so với mức đề nghị trước đó của cơ quan tiến hành tố tụng. Mặt tích cực của hoạt động tranh tụng đã góp phần bảo vệ công lý, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các cá nhân, tổ chức. Tuy nhiên, thực tiễn hoạt động điều tra, truy tố, xét xử vẫn còn xảy ra tình trạng tranh tụng hình thức, không thực chất, xâm phạm nghiêm trọng đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Những vi phạm thường thấy đó là có sự “họp nội bộ” giữa các cơ quan tiến hành tố tụng trước khi xét xử.
So với trước đây, việc “họp nội bộ” này, hiện nay đã giảm đi rất nhiều, nhưng thỉnh thoảng vẫn xảy ra. Nhiều phiên tòa, kiểm sát viênkhông thực hiện đầy đủ nghĩa vụ đối đáp, tranh luận đến cùng với người bào chữa để làm rõ sự thật khách quan của vụ án, thậm chí né tránh bằng cách đối đáp “bảo lưu quan điểm luận tội”, dù quan điểm đó không phù hợp với hồ sơ vụ án và quy định pháp luật. Vì vậy, chất lượng và kết quả tranh tụng trong một chừng mực bị hạn chế. Một số phiên tòa, chủ tọa phiên tòa hạn chế quyền hỏi, tranh tụng của người bào chữa; chưa thực sự quan tâm đến tình tiết, chứng cứ mới của vụ án mà người bào chữa đưa ra. Trong một số trường hợp, tại phiên tòa, nội dung tranh tụng giữa bên buộc tội và bên gỡ tội phát sinh nhiều tình tiết mới nhưng không được ghi nhận trong bản án, làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của người bị buộc tội. Một số bản án, quyết định của tòa án chưa xuất phát từ kết quả tranh tụng tại phiên tòa.
Tóm lại, BLTTHS năm 2015 ít nhiều khắc phục khiếm khuyết của mô hình tố tụng thẩm vấn truyền thống, phiên tòa trở nên công bằng hơn, nhưng vẫn chưa thực sự làm thay đổi cách thức vận hành của cả hệ thống tố tụng. Vì vậy, để chấm dứt tình trạng buộc tội oan, cơ quan có thẩm quyền cần nghiên cứu, đổi mới mô hình tố tụng, tăng cường yếu tố tranh tụng, trong đó cần nghiên cứu cơ chế bồi thẩm đoàn hay áp dụng nguyên tắc loại trừ chứng cứ; hội đồng xét xử tuân thủ đầy đủ nguyên tắc suy đoán vô tội để tuyên vô tội đối với những trường hợp không đủ chứng cứ buộc tội.
Tài liệu tham khảo 1. Hiến pháp năm 2013. 2. Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 02/01/2002 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Một số nhiệm vụ trọng tâm công tác tư pháp trong thời gian tới. 3. Nghị quyết số 49-NQ/TW ngày 02/6/2005 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020. 4. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 1988. 5. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003. 6. Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015. |
Thạcsĩ, Luật sư NGUYỄN VĂN ĐỨC
Đoàn Luật sư TP. HCM
Một số ý kiến đóng góp đối với dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Đấu giá tài sản