Ảnh minh họa.
Thông tư số 05/2021/TT-TTCP nêu rõ những quy định về hướng xử lý đơn khiếu nại, tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết.
Trong đó, việc xử lý đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết được quy định tại Điều 8 Thông tư số 05/2021/TT-TTCP. Cụ thể, đơn khiếu nại không thuộc thẩm quyền giải quyết của người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị mình thì người xử lý đơn hướng dẫn người khiếu nại gửi đơn đến cơ quan, tổ chức, đơn vị, người có thẩm quyền giải quyết. Việc hướng dẫn chỉ thực hiện một lần theo Mẫu số 02 ban hành kèm theo Thông tư này.
Đơn khiếu nại do lãnh đạo Đảng, Nhà nước, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban và cơ quan khác của Quốc hội, các cơ quan thuộc Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội, Thành viên Chính phủ, Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân tối cao, Tổng Kiểm toán Nhà nước, Văn phòng Chủ tịch nước, Văn phòng Trung ương, Ủy ban Kiểm tra trung ương và các ban đảng Trung ương, cơ quan Trung ương của các tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp chuyển đến thì người xử lý đơn trình người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị và có văn bản phúc đáp.
Đơn khiếu nại do Ban tiếp công dân trung ương, các cơ quan của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng nhân dân, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội - nghề nghiệp ở cấp tỉnh, cấp huyện chuyển đến thì Ban tiếp công dân báo cáo Chủ tịch Ủy ban nhân dân cùng cấp để xin ý kiến chỉ đạo việc xử lý.
Đối với những vụ việc khiếu nại đông người, phức tạp, tồn đọng, kéo dài đã có quyết định giải quyết nhưng người khiếu nại có đơn gửi đến Thanh tra Chính phủ hoặc Trụ sở tiếp công dân trung ương thì Trưởng Ban tiếp công dân trung ương báo cáo Tổng Thanh tra Chính phủ giao cho các vụ, cục, đơn vị kiểm tra, báo cáo, đề xuất văn bản trả lời công dân hoặc trao đổi với Chủ tịch Ủy ban nhân dân cấp tỉnh về hướng xử lý.
Tại Điều 14 Thông tư số 05/2021/TT-TTCP cũng hướng xử lý đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết, theo đó, đơn tố cáo không thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị mình thì người xử lý đơn đề xuất với người đứng đầu chuyển đơn và các thông tin, tài liệu kèm theo (nếu có) đến cơ quan, tổ chức, đơn vị có thẩm quyền giải quyết theo quy định của pháp luật. Việc chuyển đơn tố cáo được thực hiện theo Mẫu số 03 ban hành kèm theo Thông tư này. Việc chuyển đơn đến cơ quan có thẩm quyền chỉ thực hiện một lần đối với đơn tố cáo có cùng nội dung.
Đơn tố cáo thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới trực tiếp nhưng quá thời hạn theo quy định của Luật Tố cáo mà chưa được giải quyết thì người xử lý đơn đề xuất người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị ra văn bản yêu cầu người đứng đầu cơ quan, tổ chức, đơn vị cấp dưới trực tiếp báo cáo về quá trình giải quyết tố cáo, lý do chậm giải quyết, xác định trách nhiệm giải quyết tố cáo và phải báo cáo kết quả giải quyết.
Thông tư này có hiệu lực thi hành kể từ ngày 15/11/2021. Thông tư số 07/2014/TT-TTCP ngày 31/10/2014 của Thanh tra Chính phủ quy định quy trình xử lý đơn khiếu nại, đơn tố cáo, đơn kiến nghị, đơn phản ánh hết hiệu lực kể từ ngày Thông tư này có hiệu lực pháp luật.
HỒNG HẠNH
Một số vấn đề về tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố
Pháp luật triều Nguyễn quy định như thế nào về chế tài của điều kiện kết hôn?
(LSVN) – Trong các trường hợp mà hai bên trai gái, hay đúng hơn là chủ hôn của hai bên nhà trai và nhà gái, đã vi phạm nghiêm trọng vào sự quy định của luật lệ, thì nhà làm luật sẽ không công nhận về sự hữu hiệu của các giá thú đã được cử hành. Đây là trường hợp các giá thú đã bị phân dị và bắt buộc phải tiêu hủy.
Ảnh minh họa.
Theo cổ luật Việt Nam quan niệm giá thú là sự phối hợp, được hai bên gia đình và pháp luật công nhận, giữa một người đàn ông và một người đàn bà với mục đích tạo lập gia đình, sinh con đẻ cái để nối dõi tông đường và thờ phụng tổ tiên. Xét về tính chất, giá thú là một hành vi dân sự , đồng thời vừa là một hành vi trọng thể. Về bản chất pháp lý, đứng ở góc độ tạo lập, giá thú là một khế ước, nhưng đứng ở góc độ hiệu lực, thì giá thú là một chế định.
Vì giá thú là một loại chứng thư đặc biệt quan trọng đối với vợ, chồng và con cái, cũng như đối với gia tộc và xã hội, nên nhà làm luật đã giới hạn về những trường hợp có thể xin tiêu hủy giá thú và phân biệt: các trường hợp cấm chỉ đơn thường không làm cho giá thú bị vô hiệu, các trường hợp bị chế tài về những sự xâm phạm vào các điều kiện thiết yếu của giá thú.
Do đó, các sự chế tài về điều kiện giá thú có thể được chia ra làm 2 bậc:
Thứ nhất, trường hợp cấm đoán không tiêu hủy giá thú:
Đây là các trường hợp cấm chi đơn thường, không dẫn đến sự tiêu hủy giá thú. Trong các trường hợp cấm chỉ đơn thường, Luật Gia Long chỉ phạt trượng hay phạt roi, tùy theo trường hợp nặng hay nhẹ, còn đối với giá thú thì cũng vẫn được công nhận.
Chẳng hạn như theo Điều 98 Luật Gia Long, đối với giá thú được cử hành trong khi cư tang ông bà hay thân thuộc, không phải là cha mẹ, thì chỉ bị phạt 80 trượng, và không bắt vợ chống phải ly dị.
Hay ở Điều 99 của Luật Gia Long quy định, trường hợp ông bà, cha mẹ phạm tội chết và đang bị giam ở trong tù mà con cháu làm giá thú thì bị phạt 80 trượng. Nếu là con trai lấy thiếp và con gái gả làm thiếp thì được cho giảm 2 bậc tội. Nhưng nêu ông bà cha mẹ đang ở trong tù mà ra lệnh cho phép việc gả cưới thì không bắt tội, nhưng trong khi cưới thì không được phép làm cỗ bàn linh đình, nếu làm trái thì sẽ bị phạt 80 trượng và luật không quy định là phải tiêu hủy giá thú.
Thứ hai, trường hợp cấm đoán buộc tiêu hủy giá thú:
Trong các trường hợp mà hai bên trai gái, hay đúng hơn là chủ hôn của hai bên nhà trai và nhà gái, đã vi phạm nghiêm trọng vào sự quy định của luật lệ, thì nhà làm luật sẽ không công nhận về sự hữu hiệu của các giá thú đã được cử hành. Đây là trường hợp các giá thú đã bị phân dị và bắt buộc phải tiêu hủy.
Chẳng hạn như Điều 96 Luật Gia Long quy định, "Nếu đã có vợ cả mà còn cưới vợ cả nữa thì phải phạt 90 trượng. Vợ cưới sau buộc phải ly dị và trả về cho tông tộc”.
Hoặc Điều 100 của Luật Gia Long quy định: “Phàm cưới người cùng dòng họ thì chủ hôn và hai bên trai gái, mỗi người bị phạt 60 trượng và bắt phải ly dị, đối với phụ nữ thì trả về cho tông tộc, và tiền cưới được đem sung công".
Hoặc ở Điều 104 Luật Gia Long, nhà làm luật quy định: "Phàm phụ nữ phạm tội bị phát giác ra ở quan rồi mà lại chạy trốn ra bên ngoài, lại có người cưới làm vợ cả hay vợ lẽ thì nếu là có biết chuyện chạy trốn mà vẫn cưới thì bị xử y tội của người phụ nữ ấy. Nhưng đối với người phụ nữ kia thì bắt phải tăng thêm 2 bậc tội do lỗi đã chạy trốn, còn người cưới thì không phải tăng tội. Nếu đến tội chết thì được cho giảm đi 1 bậc và bắt phải ly dị”.
Tuy nhiên, những sự tiêu hủy giá thú này chỉ có hiệu lực trong tương lai, và không mang tính chất hồi tố. Nhưng nếu ở pháp luật hiện đại, sự tiêu hủy về giá thú bất hợp pháp đã mang tính chất hiệu lực về hồi tố, tức là người ta xem như các giá thú ấy không hề có trong quá khứ lẫn trong tương lai, và do đó nó không thể phát xuất ra được một hiệu lực gì trong quá khứ lẫn trong tương lai, thì ở Luật Gia Long, người ta đã chấp nhận một giải pháp có tính sát hợp với thực tế hơn là bắt hai vợ chồng phải “phân dị", nghĩa là phải chia lìa nhau từ đây, cho nên nó chỉ có hiệu lực thuộc về tương lai mà thôi.
Nói chung, trong mọi trường hợp, đối với cổ luật, các hiệu lực của một giá thú bất hợp pháp vẫn được tồn tại và duy trì trong quá khứ. Sự phân dị chỉ phát sinh hiệu lực trong tương lai. Và như vậy, sự tiêu hủy giá thú trong cổ luật đã được đồng hóa với trường hợp ly hôn về phương diện hiệu lực. Và điều đó có ảnh hưởng nhân đạo đến số phận của những con cái do họ sinh ra trước ngày bị phân dị.
So với quy định của pháp luật hiện hành tại khoản 5, Điều 3 Luật Hôn nhân và gia đình nêu rõ: “Kết hôn là việc nam và nữ xác lập quan hệ vợ chồng với nhau theo quy định của Luật này về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn”. Vợ chồng đã ly hôn muốn xác lập lại quan hệ vợ chồng thì phải đăng ký kết hôn. Việc kết hôn phải được đăng ký và do cơ quan nhà nước có thẩm quyền thực hiện theo quy định của Luật này và pháp luật về hộ tịch. Việc kết hôn không được đăng ký theo quy định thì không có giá trị pháp lý. Người bị cưỡng ép kết hôn, bị lừa dối kết hôn, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền tự mình yêu cầu hoặc đề nghị cá nhân, tổ chức theo quy định yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định. Cụ thể, cá nhân, cơ quan, tổ chức sau đây, theo quy định của pháp luật về tố tụng dân sự, có quyền yêu cầu Tòa án hủy việc kết hôn trái pháp luật do việc kết hôn vi phạm quy định tại các điểm a, c và d khoản 1 Điều 8 của Luật này: - Vợ, chồng của người đang có vợ, có chồng mà kết hôn với người khác; cha, mẹ, con, người giám hộ hoặc người đại diện theo pháp luật khác của người kết hôn trái pháp luật; - Cơ quan quản lý nhà nước về gia đình; - Cơ quan quản lý nhà nước về trẻ em; - Hội liên hiệp phụ nữ. |
CẨM NGỌC
Quy định về nơi xử án và thời hạn xử án theo Bộ Luật Gia Long
Vi phạm hợp đồng và trách nhiệm hình sự hậu Covid-19
(LSVN) – Hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng không phải là tội phạm, người có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, dù là cá nhân hay pháp nhân thương mại sẽ chỉ chịu trách nhiệm dân sự đối với bên bị vi phạm. Tuy nhiên, với từng trường hợp cụ thể, nếu bên vi phạm hợp đồng là cá nhân, cố ý trốn tránh nhằm chiếm đoạt tài sản của bên bị vi phạm thì cá nhân đó có thể bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ảnh minh họa.
Dịch bệnh Covid-19 đã và đang gây ra rất nhiều khó khăn cho nền kinh tế Việt Nam nói chung và các tỉnh thành bị ảnh hưởng trực tiếp bởi dịch bệnh này nói riêng. Nhiều biện pháp nhằm hạn chế lây lan dịch bệnh được triển khai, trong đó có biện pháp cách ly (giãn cách) xã hội theo Chỉ thị 16/CT-TTg ngày 31/3/2021 của Thủ tướng Chính phủ. Theo đó, các doanh nghiệp kinh doanh dịch vụ không thiết yếu phải tạm dừng hoạt động. Đối với các doanh nghiệp được phép hoạt động, phải đáp ứng các điều kiện phòng chống dịch và triển khai sản xuất, kinh doanh theo hình thức "3 tại chỗ" hoặc “1 cung đường 2 địa điểm", đồng thời phải đảm bảo thực hiện xét nghiệm định kỳ cho lực lượng lao động tại doanh nghiệp.
Tình trạng trên đã khiến không chỉ doanh nghiệp bị tạm dừng hoạt động mà cả doanh nghiệp được hoạt động cũng gặp nhiều khó khăn. Hệ quả là nhiều hợp đồng đã được ký kết nhưng một hoặc nhiều bên không thể đáp ứng các điều khoản đã thỏa thuận, dẫn đến vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, thậm chí “phá vỡ giao kèo” là điều có thể dự báo trong không ít giao dịch. Trước tình hình này, nhiều doanh nghiệp, cá nhân đã lo lắng rằng liệu các doanh nghiệp, cá nhân do dịch bệnh hoặc trở ngại khác dẫn đến vi phạm nghĩa vụ hợp đồng có phải gánh chịu trách nhiệm hình sự không, hay họ chỉ đơn thuần chịu trách nhiệm dân sự đối với bên bị vi phạm?
Trường hợp nào sẽ bị xử lý trách nhiệm hình sự khi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng?
Trách nhiệm hình sự là trách nhiệm của người phạm tội phải chịu sự tác động của các biện pháp cưỡng chế của Nhà nước, chịu các hình phạt do bộ luật hình sự quy định. Đây là trách nhiệm phải gánh chịu hậu quả pháp lý của hành vi phạm tội đối với Nhà nước chứ không phải đối với người, hay tổ chức mà quyền hoặc lợi ích hợp pháp của họ bị hành vi phạm tội trực tiếp xâm hại. Mục đích của việc buộc gánh chịu trách nhiệm hình sự là nhằm tước bỏ hoặc hạn chế ở người phạm tội một số quyền hoặc lợi ích hợp pháp, nhằm trừng trị, đồng thời giáo dục họ ý thức tuân theo pháp luật, không tái phạm, không phạm tội mới.
Theo Bộ luật Dân sự 2015 (BLDS 2015), Luật Thương mại 2005 (LTM 2005) bên có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng sẽ phải chịu trách nhiệm dân sự với bên bị vi phạm. Trên thực tế, nhiều trường hợp vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và phải gánh chịu trách nhiệm dân sự nhưng lại cố ý trốn tránh để không phải thực hiện trách nhiệm đối với bên bị vi phạm, từ đó bên vi phạm đã phải gánh chịu trách nhiệm hình sự trong hối tiếc muộn màng như trường hợp sau đây:
N.V.T., nguyên là Phó Chánh án một Tòa án nhân dân quận đã ký Hợp đồng tín dụng với một ngân hàng để vay 250 triệu đồng, thời hạn vay 36 tháng từ ngày 8/7/2014. T. đã thực hiện trả nợ đến ngày 25/12/2014. Sau đó, ngân hàng nhiều lần yêu cầu T. thanh toán và đến cả cơ quan của T. làm việc để thông báo nợ quá hạn. T. đã ký biên bản làm việc và giấy báo nợ quá hạn nhưng không thực hiện, bỏ trốn khỏi nơi cư trú. Đến ngày 06/4/2020, T. bị bắt theo lệnh truy nã. Sau quá trình điều tra, truy tố, xét xử, Hội đồng xét xử đã tuyên phạt T. 30 tháng tù về tội “Lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản”.
Có thể thấy với hành vi phạm nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng, T. lẽ ra chỉ phải chịu trách nhiệm về mặt dân sự với ngân hàng, nhưng vì T. đã cố ý bỏ trốn để không phải thực hiện trách nhiệm trả nợ và nhằm chiếm đoạt tiền của ngân hàng nên đã cấu thành tội phạm và bị truy cứu trách nhiệm hình sự.
Ví dụ nêu trên là trường hợp của cá nhân vi phạm nghĩa vụ hợp đồng và trách nhiệm pháp lý phải gánh chịu khi cố ý trốn tránh. Vậy các pháp nhân thương mại vi phạm hợp đồng thì trách nhiệm sẽ là gì, có khả năng bị truy cứu trách nhiệm hình sự không?
Theo của Bộ luật Hình sự 2015 (BLHS 2015), pháp nhân thương mại chỉ chịu trách nhiệm hình sự đối với một số tội danh nhất định như: tội "Buôn lậu"; tội "Vận chuyển trái phép hàng hóa, tiền tệ qua biên giới"; tội "Sản xuất, buôn bán hàng giả";… Ngoài phạm vi này, pháp nhân thương mại sẽ không bị buộc tội theo các tội danh khác. Do đó, nếu vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, sau đó cố ý trốn tránh thực hiện trách nhiệm dân sự, pháp nhân thương mại có thể sẽ bị cơ quan có thẩm quyền áp dụng các biện pháp theo quy định để buộc thực hiện trách nhiệm dân sự đối với bên bị vi phạm.
Tóm lại, hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng không phải là tội phạm, người có hành vi vi phạm nghĩa vụ hợp đồng, dù là cá nhân hay pháp nhân thương mại sẽ chỉ chịu trách nhiệm dân sự đối với bên bị vi phạm. Tuy nhiên, với từng trường hợp cụ thể, nếu bên vi phạm hợp đồng là cá nhân, cố ý trốn tránh nhằm chiếm đoạt tài sản của bên bị vi phạm thì cá nhân đó có thể bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Vì lý do dịch bệnh Covid-19 mà vi phạm nghĩa vụ hợp đồng thì có chịu trách nhiệm hình sự không?
Theo quy định của BLDS 2015, bên có nghĩa vụ mà vi phạm nghĩa vụ thì phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có quyền. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp bên vi phạm đều phải gánh chịu trách nhiệm dân sự với bên bị vi phạm. Chẳng hạn, nếu bên vi phạm không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng hoặc do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng thì bên vi phạm không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác theo quy định của BLDS 2015 và LTM 2005.
Vận dụng các quy định về miễn trách nêu trên vào trường hợp đã ký kết hợp đồng nhưng một bên không thể thực hiện nghĩa vụ trong bối cảnh dịch bệnh Covid-19 bùng phát có thể sẽ xảy ra các khả năng: (i) các bên đã không thể lường trước được dịch bệnh sẽ bùng phát, khi dịch bệnh xảy ra khiến một bên dù tìm mọi cách nhưng không thể thực hiện nghĩa vụ của mình, (ii) không phải trực tiếp từ dịch bệnh mà do quyết định về việc thực hiện giãn cách xã hội của cơ quan có thẩm quyền mà một bên buộc phải vi phạm nghĩa vụ dù đã tìm mọi cách nhưng không thể khắc phục, không thể thực hiện nghĩa vụ của mình. Tùy từng trường hợp, dịch bệnh Covid-19 hay quyết định của cơ quan có thẩm quyền sẽ trở thành sự kiện bất khả kháng, giúp bên vi phạm có thể được miễn trừ trách nhiệm dân sự đối với bên bị vi phạm. Trong trường hợp này, bên vi phạm cũng không bị truy cứu trách nhiệm hình sự vì chỉ vi phạm nghĩa vụ dân sự do sự kiện bất khả kháng, không cố ý chiếm đoạt tài sản của bên bị vi phạm. Tuy nhiên, cần lưu ý rằng bên vi phạm không nên tuỳ tiện viện dẫn dịch bệnh Covid-19 hay quyết định của cơ quan có thẩm quyền như một sự kiện bất khả kháng để được miễn thực hiện nghĩa vụ, miễn trách nhiệm dân sự. Bởi lẽ, nếu bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ theo hợp đồng mà các điều kiện về sự kiện bất khả kháng (khách quan, không lường trước, không thể khắc phục) không được đảm bảo thì bên vi phạm có khả năng sẽ phải gánh chịu hậu quả pháp lý.
Ngoài ra, nếu sự kiện bất khả kháng không còn, nghĩa là tình hình dịch bệnh có chuyển biến tốt hơn hoặc quyết định của cơ quan có thẩm quyền về giãn cách xã hội được bãi bỏ, bên vi phạm không còn bị cản trở bởi sự kiện bất khả kháng thì phải có nghĩa vụ tiếp tục thực hiện hợp đồng (trừ trường hợp các bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng). Khi đó, nếu bên vi phạm không thực hiện nghĩa vụ, cố ý trốn tránh nhằm chiếm đoạt tài sản của bên bị vi phạm thì khả năng bên vi phạm sẽ bị xem xét truy cứu trách nhiệm hình sự.
Giải pháp để các bên bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình
Hiện nay, giãn cách xã hội đã được nới lỏng, tuy nhiên các biện pháp kiểm soát dịch bệnh vẫn được tăng cường. Các doanh nghiệp dần hoạt động trở lại nhưng cũng chưa thể phục hồi ngay trong “điều kiện bình thường mới”. Chính vì vậy, những vi phạm đã xảy ra và hậu quả của nó sẽ khó được xử lý ổn thỏa và kịp thời. Để có thể duy trì quan hệ đối tác nhưng vẫn bảo vệ quyền lợi của mình một cách hợp pháp nhằm tồn tại và phát triển trong “điều kiện bình thường mới” và “sống chung với dịch bệnh”, các doanh nghiệp và các cá nhân đã ký kết hợp đồng cần làm gì?
Đối với bên bị vi phạm: nếu không thể cùng nhau thương lượng, tùy từng chủ thể đã giao kết hợp đồng mà bên bị vi phạm có thể chọn cách giải quyết phù hợp như sau:
- Nếu chủ thể giao kết hợp đồng với mình là pháp nhân thương mại hoặc các tổ chức khác, hai bên có thể đề nghị một đơn vị hòa giải trung gian hoặc cơ quan tài phán có thẩm quyền giải quyết tranh chấp.
- Nếu chủ thể giao kết hợp đồng với mình là cá nhân, bên vi phạm cũng có thể lựa chọn cách thức giải quyết như trên. Tuy nhiên, khi nhận thấy các cá nhân vi phạm cố ý chiếm đoạt tài sản của mình, bên bị vi phạm có thể đề nghị cơ quan có thẩm xem xét xử lý trách nhiệm hình sự của người vi phạm, đồng thời yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Đối với bên vi phạm: không được trốn tránh thực hiện nghĩa vụ mà cần chủ động đề xuất các giải pháp khả thi để các bên cùng cân nhắc, đi đến thống nhất. Bên cạnh đó, cần bình tĩnh trước những lời hăm dọa hình sự hóa tranh chấp dân sự vì đó có thể chỉ là những cáo buộc thiếu căn cứ nhằm gây áp lực cho bên vi phạm.
Đồng thời, bên vi phạm có thể liên hệ với các tổ chức hành nghề luật sư để được tư vấn, hỗ trợ thương lượng với bên bị vi phạm cũng như tránh các rủi ro tiềm ẩn và hạn chế tối đa nguy cơ cấu thành tội phạm.
Luật sư HOÀNG THỊ HOÀI THU - Trợ lý Luật sư NGUYỄN CÔNG DUY THÔNG
Công ty Luật TNHH Global VietNam Lawyers
Quy định về miễn trách nhiệm hình sự: Lý luận và thực tiễn áp dụng
Giảm diện tích đất trồng lúa, tăng diện tích đất phi nông nghiệp: Xu hướng tất yếu để sử dụng hiệu quả đất đai
(LSVN) – Với mục tiêu phát triển đất nước trở thành quốc gia công nghiệp thì việc chuyển mục đích sử dụng đất từ loại đất nông nghiệp và các loại đất khác sang loại đất phi nông nghiệp, đất kinh doanh, đất ở đô thị là xu hướng tất yếu để sử dụng hiệu quả đất đai.
Ảnh minh họa.
Trước đó, chiều ngày 13/10, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho ý kiến về quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025) cấp quốc gia. Trong đó, Chính phủ dự kiến quy hoạch diện tích đất lúa đến năm 2030 giảm 348,77 nghìn ha, tập trung giảm tại vùng Đồng bằng Sông Hồng (101,8 nghìn ha), vùng Đồng bằng Sông Cửu Long (88,56 nghìn ha),… và nhiều diện tích sẽ được chuyển sang đất phi nông nghiệp.
Đất nông nghiệp giảm, diện tích đất phi nông nghiệp đến năm 2030 là 4,9 triệu ha, tăng 965.370 ha so với năm 2020. Quy hoạch cũng đặt ra đến năm 2030 có 45 khu kinh tế với 1,65 triệu ha, tăng 15.400 ha; đất khu công nghệ cao có 6 khu với 4,14 triệu ha; đất đô thị tăng lên 2,95 triệu ha, thêm 925.780 ha, đáp ứng yêu cầu tỷ lệ đô thị hóa đạt 50%.
Cần rà soát kỹ lưỡng việc sử dụng đất lúa để làm các khu công nghiệp
Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường Trần Hồng Hà cho rằng việc lập quy hoạch sử dụng đất quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021 - 2025) phải gắn với mục tiêu của Chiến lược Phát triển kinh tế - xã hội của đất nước nhanh, bền vững, tính liên kết liên vùng, liên tỉnh, gắn kết hữu cơ giữa đô thị và nông thôn và thống nhất, đồng bộ giữ các địa phương.
Thẩm tra báo cáo của Chính phủ, Ủy ban Kinh tế của Quốc hội đề nghị Chính phủ tiếp tục rà soát, bảo đảm sự thống nhất, đồng bộ giữa quy hoạch sử dụng đất thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kế hoạch sử dụng đất 5 năm (2021-2025) cấp quốc gia với các quy hoạch có liên quan, hạn chế tối đa những chồng chéo, mâu thuẫn.
Đề cập đến đất trồng lúa, theo Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh, đây là loại đất đặc biệt có đặc trưng riêng về thành phần lý hóa tính, cùng với hệ thống thủy lợi được đầu tư rất lớn, trong thời gian dài. Đất khu công nghiệp thời gian tới sẽ được chuyển đổi từ đất lúa tương đối lớn (48,4 nghìn ha). “Khi đã chuyển đổi sang đất khu công nghiệp thì không thể khôi phục diện tích đất lúa đó, do đó, cần rà soát kỹ lưỡng, hạn chế việc sử dụng đất lúa để làm các khu công nghiệp”, ông Thanh nói.
Triển khai đồng bộ các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý đất đai
Liên quan đến Tờ trình 375/TTr-CP của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2021-2025), trao đổi với Tạp chí Luật sư Việt Nam, Luật sư Đặng Văn Cường, Đoàn Luật sư TP. Hà Nội cho biết việc lập quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất phải có tầm nhìn dài hạn, hài hòa lợi ích tổng thể, linh hoạt trong từng thời kỳ và gắn với thực hiện các mục tiêu, chiến lược phát triển kinh tế xã hội của đất nước, đảm bảo đồng bộ thống nhất từ trung ương đến địa phương, đáp ứng nguyên tắc phát triển bền vững. Việc lập quy hoạch phải căn cứ vào cơ sở chính trị, pháp lý và cơ sở thực tiễn (thành tựu đạt được, tồn tại hạn chế, kết quả điều tra thu thập thông tin,…) cũng như dự báo được bối cảnh, tình hình.
Theo quy định tại khoản 2, khoản 3 Điều 3 Luật Đất đai 2013, quy hoạch sử dụng đất là việc phân bổ và khoanh vùng đất đai theo không gian sử dụng cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, bảo vệ môi trường và thích ứng biến đổi khí hậu trên cơ sở tiềm năng đất đai và nhu cầu sử dụng đất của các ngành, lĩnh vực đối với từng vùng kinh tế - xã hội và đơn vị hành chính trong một khoảng thời gian xác định.
“Theo tôi, về cơ bản thì Tờ trình 375/TTr-CP của Chính phủ về Quy hoạch sử dụng đất quốc gia giai đoạn 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2045 và kế hoạch sử dụng đất 05 năm (2021-2025) đã xác định được mục tiêu, tầm nhìn đến năm 2045, xác định được định hướng phân bổ không gian và chỉ tiêu sử dụng các nhóm đất lớn, từ đó tạo ra được quỹ đất để phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng an ninh; đưa ra được các giải pháp về chính sách, khoa học công nghệ, nguồn lực, ứng phó biến đổi khí hậu,... thực hiện quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất. Có thể nói, quy hoạch sử dụng đất như trên là phù hợp với định hướng phát triển nông nghiệp và định hướng phát triển kinh tế xã hội theo chính sách của Nhà nước giai đoạn tới. Với mục tiêu phát triển đất nước trở thành quốc gia công nghiệp thì việc chuyển mục đích sử dụng đất từ loại đất nông nghiệp và các loại đất khác sang loại đất phi nông nghiệp, đất kinh doanh, đất ở đô thị là xu hướng tất yếu để sử dụng hiệu quả đất đai”, Luật sư Cường đánh giá.
Hiện nay diện tích đất trồng lúa giảm tập trung chủ yếu tại hai vựa lúa lớn nhất của cả nước là đồng bằng Sông Hồng giảm để phát triển hạ tầng, giao thông, đô thị, khu công nghiệp, dịch vụ; Đồng bằng sông Cửu Long giảm chủ yếu để phát triển hạ tầng, đô thị, khu công nghiệp, chuyển mục đích sang trồng cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản để thích ứng với biến đổi khí hậu. Việc giảm diện tích đất trồng lúa cũng phải tính toán đến lộ trình và vấn đề đảm bảo an ninh lương thực trên quy mô dân số, nhu cầu về lương thực và dự trữ quốc gia, xuất khẩu, chăn nuôi, chế biến, dự phòng thiên tai, mất mùa, biến đổi khí hậu,… sao cho phát huy tối đa các nguồn lực, sử dụng có hiệu quả đất đai.
Việc chuyển mục đích sử dụng các loại đất sang đất phi nông nghiệp cũng là nhằm phục vụ mục tiêu và yêu cầu phát triển kinh tế xã hội. Thực tế trong 10 năm qua thì diện tích đất phi nông nghiệp đã tăng nhiều do nhu cầu phát triển kinh tế xã hội, phát triển công nghiệp, thương mại dịch vụ, đô thị, đảm bảo an ninh quốc phòng, hoàn thiện hệ thống kết cấu hạ tầng đồng bộ, then chốt. Việc tăng diện tích đất phi nông nghiệp được tính toán dựa trên tốc độ tăng trường GDP, chỉ số phát triển kinh tế xã hội, hệ số sử dụng đất cũng như kịch bản tổng thể của nền kinh tế, khả năng thu hút đầu tư, đánh giá tác động kinh tế-xã hội.
Thời gian tới làn sóng chuyển dịch đầu tư vào Việt Nam và hệ thống giao thông được hoàn thiện cùng với chuyển dịch cơ cấu lao động và quá trình đô thị hóa thì việc tăng chỉ tiêu sử dụng đất khu công nghiệp trong quy hoạch sử dụng đất quốc gia là tất yếu. Bên cạnh đó với chính sách phát triển kinh tế ven biển và kinh tế cửa khẩu thì diện tích đất khu kinh tế sẽ tăng. Việc hình thành các khu công nghệ cao cũng dẫn đến chỉ tiêu đất khu công nghệ cao tăng lên.
Cùng với nhu cầu và mục tiêu phát triển kinh tế thì việc hoàn thiện kết cấu hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội, hệ tầng giao thông là vô cùng quan trọng, đáp ứng nhu cầu trong nước cũng như tạo không gian phát triển, thúc đẩy đầu tư. Khi nền kinh tế đã phát triển, tốc độ đô thị hóa tăng cao thì nhu cầu về phát triển, thụ hưởng văn hóa; nâng cao chất lượng cuộc sống; chăm sóc y tế; giáo dục đào tạo; thể dục, thể thao, vui chơi, giải trí,. cũng vì thế mà tăng cao. Quỹ đất để phục vụ xây dựng hệ thống hạ tầng đáp ứng các nhu cầu này cũng tất yếu tăng theo.
Diện tích đất quy hoạch cho khu vực xử lý, tái chế chất thải cũng phải được nghiên cứu bổ sung nhằm đáp ứng sự phát triển của kinh tế cũng như tốc độ đô thị hóa.
Như vậy, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được tính toán, phân bổ dựa trên kế hoạch phát triển kinh tế xã hội, các kịch bản tăng trưởng kinh tế trong thời gian tới của nước ta, nhu cầu sử dụng đất, cũng như dự báo các tác động về dịch bệnh, thiên tai, biến đổi khí hậu,… Để thực hiện quy hoạch sử dụng đất thì thời gian tới nước ta cần triển khai đồng bộ các giải pháp đã đưa ra và tận dụng triệt để những thuận lợi của khoa học công nghệ từ cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 vào việc quản lý đất đai nhằm nâng cao hiệu quả quản lý, đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế.
THANH THANH
Cho phép UBND tỉnh thực hiện chuyển đổi mục đích sử dụng đất: Cần thiết nhưng phải hết sức cẩn trọng