Ảnh minh họa.
Đơn xin giảm hình phạt của các cơ quan tổ chức nếu không phải là người bị hại thì không phải là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự theo quy định của pháp luật, tuy nhiên cũng là căn cứ để đánh giá yếu tố nhân thân của người phạm tội và là một trong các căn cứ để quyết định hình phạt.
Khi giải quyết vụ án hình sự thì có hai vấn đề lớn mà Hội đồng xét xử sẽ phải giải quyết đó là vấn đề tội danh và hình phạt. Bị cáo có phạm tội hay không, phạm tội gì, áp dụng khung khoản điều luật nào để giải quyết là vấn đề quan trọng đầu tiên, là yêu cầu nhiệm vụ của Hội đồng xét xử trong việc giải quyết vụ án hình sự. Vấn đề tiếp theo là trong trường hợp bị cáo có tội rồi thì áp dụng loại hình phạt nào, mức hình phạt ra sao cho phù hợp vừa thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật, vừa thể hiện sự khoan hồng nhân đạo, có tính chất giáo dục đối với bị cáo cũng như để phòng ngừa chung cho xã hội.
Chính sách xét xử hình sự đối với tội phạm về tham nhũng và chức vụ hiện nay thể hiện là kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố khoan hồng và nghiêm trị. Theo đó, sẽ khoan hồng đối với người phạm tội biết ăn năn hối cải, vai trò thứ yếu giúp sức trong đồng phạm, không được hưởng lợi hoặc hưởng lợi không đáng kể. Sẽ khoan hồng với người phạm tội với lỗi vô ý, phạm tội theo sự chỉ đạo, ép buộc của cấp trên... Đồng thời, cũng sẽ nghiêm trị đối với đối tượng chủ mưu, cầm đầu, thực hành tích cực, ngoan cố chống đối, không nhận thức được sai lầm của mình...
Điều 3, Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về nguyên tắc xử lý như sau: 1. Đối với người phạm tội: a) Mọi hành vi phạm tội do người thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; b) Mọi người phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt giới tính, dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo, thành phần, địa vị xã hội; c) Nghiêm trị người chủ mưu, cầm đầu, chỉ huy, ngoan cố chống đối, côn đồ, tái phạm nguy hiểm, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để phạm tội; d) Nghiêm trị người phạm tội dùng thủ đoạn xảo quyệt, có tổ chức, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng. Khoan hồng đối với người tự thú, đầu thú, thành khẩn khai báo, tố giác đồng phạm, lập công chuộc tội, ăn năn, hối cải, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra; đ) Đối với người lần đầu phạm tội ít nghiêm trọng, thì có thể áp dụng hình phạt nhẹ hơn hình phạt tù, giao họ cho cơ quan, tổ chức hoặc gia đình giám sát, giáo dục; e) Đối với người bị phạt tù thì buộc họ phải chấp hành hình phạt tại các cơ sở giam giữ, phải lao động, học tập để trở thành người có ích cho xã hội; nếu họ có đủ điều kiện do Bộ luật này quy định, thì có thể được xét giảm thời hạn chấp hành hình phạt, tha tù trước thời hạn có điều kiện; g) Người đã chấp hành xong hình phạt được tạo điều kiện làm ăn, sinh sống lương thiện, hòa nhập với cộng đồng, khi có đủ điều kiện do luật định thì được xóa án tích. 2. Đối với pháp nhân thương mại phạm tội: a) Mọi hành vi phạm tội do pháp nhân thương mại thực hiện phải được phát hiện kịp thời, xử lý nhanh chóng, công minh theo đúng pháp luật; b) Mọi pháp nhân thương mại phạm tội đều bình đẳng trước pháp luật, không phân biệt hình thức sở hữu và thành phần kinh tế; c) Nghiêm trị pháp nhân thương mại phạm tội dùng thủ đoạn tinh vi, có tính chất chuyên nghiệp, cố ý gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng; d) Khoan hồng đối với pháp nhân thương mại tích cực hợp tác với cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án, tự nguyện sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại gây ra, chủ động ngăn chặn hoặc khắc phục hậu quả xảy ra. |
Chính sách xét xử hình sự hiện nay là phải kết hợp hài hòa giữa hai yếu tố khoan hồng và nghiêm trị để thể hiện tính nhân đạo của chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, đồng thời thể hiện sự nghiêm minh của pháp luật, bản chất của hình phạt là hướng đến cải tạo giáo dục người phạm tội để họ nhận thức được sai lầm của mình, có cơ hội sửa chữa sai lầm để trở thành người tốt, sống có ích cho xã hội. Hình phạt cũng phải đảm bảo tính nghiêm minh của pháp luật, là cái giá phải trả cho hành vi nguy hiểm cho xã hội, là biểu hiện của sự răn đe giáo dục đối với người phạm tội và để phòng ngừa chung cho xã hội.
Về nguyên tắc thì khi kết tội bị cáo Tòa án phải quyết định hình phạt trong khung hình phạt mà điều luật đã quy định. Tòa án chỉ được xét xử trong khung dao động mà điều luật đã dự liệu, được lựa chọn loại hình phạt và mức hình phạt trong khung đó, không thấp hơn và cũng không cao hơn khung đã giới hạn. Tuy nhiên, Bộ luật Hình sự cũng quy định có những trường hợp Tòa án có thể áp dụng hình phạt dưới khung hình phạt mà điều luật có quy định.
Theo đó, tại Bộ luật Hình sự quy định, trong trường hợp người phạm tội có từ 02 tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự trở lên (các tình tiết giảm nhẹ đây là một trong các tình tiết được quy định tại Điều 51, Bộ luật Hình sự) thì Tòa án có thể xét xử dưới mức thấp nhất của khung hình phạt hoặc chuyển sang khung hình phạt liền kề nhẹ hơn.
Điều 54. Quyết định hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng 1. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật khi người phạm tội có ít nhất hai tình tiết giảm nhẹ quy định tại khoản 1 Điều 51 của Bộ luật này. 2. Tòa án có thể quyết định một hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt được áp dụng nhưng không bắt buộc phải trong khung hình phạt liền kề nhẹ hơn của điều luật đối với người phạm tội lần đầu là người giúp sức trong vụ án đồng phạm nhưng có vai trò không đáng kể. 3. Trong trường hợp có đủ các điều kiện quy định tại khoản 1 hoặc khoản 2 Điều này nhưng điều luật chỉ có một khung hình phạt hoặc khung hình phạt đó là khung hình phạt nhẹ nhất, thì Tòa án có thể quyết định chuyển sang một hình phạt khác thuộc loại nhẹ hơn. Lý do của việc giảm nhẹ phải được ghi rõ trong bản án. |
Ngoài quy định của Bộ luật Hình sự về loại hình phạt, mức hình phạt trong khung, quy định về chuyển khung hình phạt thì Bộ luật Hình sự cũng quy định căn cứ quyết định hình phạt còn căn cứ vào nhân thân người phạm tội và các tình tiết tăng nặng, tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự.
Đối với bị cáo có nhân thân tốt, phạm tội lần đầu, trước khi phạm tội bị cáo luôn chấp hành tốt pháp luật, có nhiều thành tích trong học tập công tác, gia đình có công với cách mạng thì đây cũng là những tình tiết giảm nhẹ đáng kể khi Tòa án xem xét quyết định hình phạt đối với bị cáo. Đối với những người từng là "quan chức" phạm tội thì khi xét xử Tòa án sẽ làm rõ yếu tố nhân thân và yếu tố hành vi, cân đối giữa công và tội để có mức hình phạt phù hợp.
Ngoài ra, trong quá trình tranh luận tại phiên tòa thì đại diện VKSND, bị cáo và các Luật sư bào chữa đều có quyền đưa ra quan điểm lập luận của mình, có quyền đề nghị mức hình phạt để Hội đồng xét xử xem xét. Tuy nhiên, quyết định cuối cùng về việc bị cáo có phạm tội hay không, phạm tội gì và hình phạt ra sao sẽ do Hội đồng xét xử quyết định theo đa số sau khi nghị án, các ý kiến quan điểm đưa ra không có căn cứ, không phù hợp với quy định pháp luật thì Hội đồng xét xử có thể sẽ không chấp nhận.
Tiến sĩ, Luật sư ĐẶNG VĂN CƯỜNG
Đoàn Luật sư TP. Hà Nội