Điều 70 BLHS 2015 quy định: 1. Đương nhiên được xóa án tích được áp dụng đối với người bị kết án không phải về các tội xâm phạm an ninh quốc gia; tội phá hoại hòa bình, chống loài người và tội phạm chiến tranh của Bộ luật này khi họ đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án và đáp ứng các điều kiện quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều này. 2. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi chấp hành xong hình phạt chính hoặc hết thời gian thử thách án treo, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn sau đây: a) 01 năm trong trường hợp bị phạt cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam giữ, phạt tù nhưng được hưởng án treo; b) 02 năm trong trong trường hợp bị phạt tù đến 05 năm; c) 03 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 05 năm đến 15 năm; d) 05 năm trong trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án. Trường hợp người bị kết án đang chấp hành hình phạt bổ sung là quản chế, cấm cư trú, cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định, tước một số quyền công dân mà thời hạn phải chấp hành dài hơn thời hạn quy định tại các điểm a, b và c khoản này thì thời hạn đương nhiên được xóa án tích sẽ hết vào thời điểm người đó chấp hành xong hình phạt bổ sung. 3. Người bị kết án đương nhiên được xóa án tích, nếu từ khi hết thời hiệu thi hành bản án, người đó không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều này. 4. Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này. |
Án tích tác động và hạn chế việc thực hiện các quyền của người bị kết án như: Quyền được hành nghề, công việc nhất định, quyền ứng cử,... và ảnh hưởng đến việc tái hòa nhập cộng đồng của người bị kết án. Đồng thời, án tích ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người bị kết án vì trong một số trường hợp nếu người phạm tội đã bị kết án, thuộc trường hợp có án tích nhưng chưa được xóa là một trong những cơ sở để định tội, để xem xét tái phạm, tái phạm nguy hiểm là tình tiết định khung hình phạt trong một số tội phạm hoặc là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự.
So với quy định tại khoản 2 Điều 64 BLHS năm 1999, quy định tại khoản 1 Điều 70 BLHS năm 2015 là quy định mới có lợi cho người phạm tội được áp dụng kể từ ngày 01/7/2016. Theo đó, người bị kết án đương nhiên được xóa án tích nếu kể từ khi chấp hành xong hình phạt chính, người đó đã chấp hành xong hình phạt bổ sung, các quyết định khác của bản án và không thực hiện hành vi phạm tội mới trong thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 70 BLHS năm 2015. Tuy nhiên, điều kiện để người bị kết án đương nhiên được xóa án tích quy định tại Điều 70 BLHS năm 2015 không thay đổi so với Điều 64 BLHS năm 1999.
Thủ tục đương nhiên được xóa án tích
Khoản 4 Điều 70 BLHS 2015 quy định “Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp có trách nhiệm cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích, nếu có đủ điều kiện quy định tại khoản 2 hoặc khoản 3 Điều này”.
Theo đó, Trung tâm lý lịch tư pháp Quốc gia - Bộ Tư pháp sẽ hướng dẫn cho các Sở Tư pháp trực tiếp quy định các thủ tục chi tiết để xóa án tích cho các trường hợp được đương nhiên xóa án tích. Những người muốn làm thủ tục đương nhiên xóa án tích sẽ nộp đơn tới Sở Tư pháp của tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi mình thường trú.Theo quy định của luật lý lịch tư pháp thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp bao gồm Trung tâm lý lịch tư pháp và Sở tư pháp.
Sở Tư pháp quy định thủ tục đương nhiên xóa án tích như sau:
Thứ nhất, nộp hồ sơ xác minh điều kiện đương nhiên xóa án tích
Hồ sơ gồm có:
- Chứng minh thư và sổ hộ khẩu bản sao công chứng.
- Trích lục hoặc bản sao Bản án hình sự sơ thẩm đã có hiệu lực pháp luật, nếu đã xét xử tại cấp phúc thẩm thì cung cấp cả trích lục hoặc bản sao Bản án sơ thẩm và Bản án phúc thẩm.
- Căn cứ vào hình phạt chính tại Bản án, công dân phải nộp một trong các giấy tờ (bản chính) sau đây:
+ Giấy chứng nhận đặc xá do Trại giam nơi thi hành án cấp (trường hợp bị xử phạt tù giam nhưng được đặc xá).
+ Giấy chứng nhận đã chấp hành xong hình phạt tù do Trại giam nơi thi hành án cấp hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (trường hợp bị xử phạt tù giam và đã chấp hành xong hình phạt tù).
+ Giấy chứng nhận đã chấp hành xong thời gian thử thách án treo do Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận, huyện, thị xã hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (trường hợp bị xử phạt tù nhưng được hưởng án treo).
+ Giấy chứng nhận chấp hành xong án phạt cải tạo không giam giữ do Cơ quan thi hành án hình sự Công an quận, huyện, thị xã cấp hoặc giấy tờ có giá trị thay thế (trường hợp bị xử phạt cải tạo không giam giữ).
- Biên lai nộp tiền án phí, tiền phạt và các nghĩa vụ dân sự khác như: Bồi thường, truy thu,… trong bản án hình sự hoặc Giấy xác nhận kết quả thi hành do Cơ quan thi hành án dân sự cấp hoặc các giấy tờ khác có liên quan đến việc xác nhận đã nộp tiền án phí, tiền phạt và các nghĩa vụ dân sự khác.
Thứ hai, tờ khai yêu cầu cấp Phiếu lý lịch Tư pháp
Thứ ba, nộp lệ phí hồ sơ
Sau khi công dân nộp đầy đủ các giấy tờ nêu trên, Sở Tư pháp sẽ gửi văn bản yêu cầu xác minh cho UBND cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi người bị kết án cư trú, làm việc sau khi chấp hành xong bản án về việc người đó có bị khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử trong thời gian đang có án tích hay không.
UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức có trách nhiệm gửi văn bản thông báo kết quả xác minh (theo mẫu quy định) cho Sở Tư pháp trong thời hạn 10 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu xác minh.
Ngay sau khi nhận được văn bản thông báo kết quả xác minh của UBND cấp xã, cơ quan, tổ chức, Sở Tư pháp sẽ giải quyết việc xóa án tích cho công dân.
Khó khăn vướng mắc trong thực hiện chế định đương nhiên được xóa án tích
Đương nhiên được xóa án tích là một chế định quan trọng trong pháp luật hình sự Việt Nam nhưng qua thực tiễn triển khai thực hiện các quy định của pháp luật đã bộc lộ một số khó khăn, vướng mắc sau:
Thứ nhất, BLHS năm 2015 và Bộ luật Tố tụng hình sự (BLTTHS)năm 2015 đã giao thẩm quyền xác nhận các trường hợp đủ điều kiện đương nhiên được xóa án tích cho cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp nhưng Luật lý lịch tư pháp chưa quy định cụ thể trình tự, thủ tục, thời gian và cơ chế phối hợp xác minh các trường hợp đương nhiên xóa án tích.
Điểm mới của BLHS năm 2015 là quy định thời điểm để tính thời hạn xóa án tích sớm hơn so với BLHS năm 1999 theo hướng kể từ khi người bị kết án đã chấp hành xong hình phạt chính, thời gian thử thách án treo hoặc hết thời hiệu thi hành bản án; đồng thời, rút ngắn thời hạn để được xóa án tích theo hướng còn 2 năm (đối với trường hợp bị phạt tù đến 5 năm); 3 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 5 năm đến 15 năm) và 5 năm (đối với trường hợp bị phạt tù từ trên 15 năm, tù chung thân hoặc tử hình nhưng đã được giảm án, khoản 2, 3 Điều 70). Đặc biệt, BLHS năm 2015 đã bỏ quy định Tòa án cấp giấy chứng nhận đương nhiên được xóa án tích cho người bị kết án, mà giao trách nhiệm cho Cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cập nhật thông tin về tình hình án tích của người bị kết án và khi có yêu cầu thì cấp phiếu lý lịch tư pháp xác nhận không có án tích nếu có đủ điều kiện theo quy định của BLHS.
Khoản 1 Điều 369 BLTTHS năm 2015 quy định: “Trong thời hạn 05 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu của người đương nhiên được xóa án tích và xét thấy có đủ điều kiện quy định tại Điều 70 BLHS thì cơ quan quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp cấp Phiếu lý lịch tư pháp là họ không có án tích”.
Thứ hai, do hệ thống lý lịch tư pháp chưa đầy đủ, không thuận tiện cho việc tra cứu thông tin, xác nhận đương nhiên được xóa án tích nên khi người yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp có án tích, cơ quan Quản lý cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp phải phối hợp với Tòa án đề nghị cung cấp Bản án và phối hợp với các cơ quan liên quan xác minh việc chấp hành các nội dung về thi hành án dân sự, hình sự, các quyết định khác của Bản án và tình hình phạm tội mới tại các cơ quan có liên quan như Tòa án, Viện Kiểm sát, Công an,... trong thời hạn 10 ngày làm việc. Nhưng bản án đã được Tòa án tuyên khá lâu nên người bị kết án cũng như các cơ quan có liên quan không còn lưu giữ được các giấy tờ, tài liệu liên quan đến việc thi hành bản án cho nên các cơ quan liên quan trả lời kết quả xác minh không đúng thời gian như quy định nêu trên. Có nhiều trường hợp một người có nhiều án tích hoặc cư trú ở nhiều địa phương khác nhau nên Sở tư pháp phải xác minh đến rất nhiều cơ quan, trong thời gian dài nhưng vẫn chưa đủ căn cứ xác định rõ tình trạng án tích của công dân để cấp phiếu lý lịch tư pháp. Ngoài ra, cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp hiện nay không quản lý và lưu trữ các thông tin từ giai đoạn khởi tố mà chỉ lưu trữ, quản lý thông tin từ giai đoạn bản án có hiệu lực pháp luật.
Thứ ba, để xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích đòi hỏi nhiều thời gian, công sức, sự phối hợp chặt chẽ, trách nhiệm của các cơ quan có liên quan cũng như đòi hỏi cán bộ làm công tác này phải có trình độ nghiệp vụ chuyên sâu về pháp luật hình sự và pháp luật về lý lịch tư pháp. Trong khi đó, đội ngũ cán bộ làm công tác lý lịch tư pháp tại các Sở Tư pháp còn thiếu về số lượng, kiêm nhiệm nhiều nhiệm vụ.
Một số giải pháp, kiến nghị
Qua thực tế và những khó khăn đang gặp phải, tác giả có một số kiến nghị nhằm khắc phục những vướng mắc như sau:
Thứ nhất, đề nghị sửa đổi, bổ sung một số quy định của Luật Lý lịch tư pháp như: Trong trường hợp người yêu cầu cấp phiếu lý lịch tư pháp có án tích và đã đủ thời gian đương nhiên xóa án tích, sửa đổi theo hướng kéo dài thời gian xác minh đối với các trường hợp đương nhiên xóa án tích để các cơ quan đủ thời gian phối hợp xác minh và cung cấp thông tin về án tích.
Thứ hai, nghiên cứu và bổ sung quy định trường hợp những bản án được tuyên trước đây nhưng các cơ quan có thẩm quyền không còn lưu trữ được hồ sơ bản án, quá trình thi hành án nên không cung cấp được thông tin về án tích của người đã bị kết án. Trong trường hợp này, nên quy định theo hướng coi như người đó là người chưa có án tích.
Thứ ba, chủ động rà soát, cập nhật thông tin về điều kiện đương nhiên được xóa án tích của người đã bị kết án vào cơ sở dữ liệu lý lịch tư pháp. Xây dựng một hệ thống lý lịch tư pháp đầy đủ, hoàn thiện thuận tiện cho việc tra cứu, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin trong công tác lý lịch tư pháp, áp dụng các phương thức cấp phiếu lý lịch tư pháp qua dịch vụ bưu chính, cấp phiếu trực tuyến, đẩy mạnh cải cách hành chính, rút ngắn thời hạn cấp phiếu lý lịch tư pháp, tạo thuận lợi nhất cho cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Thứ tư, trang bị đầy đủ cơ sở vật chất, biên chế cùng với tăng cường công tác tập huấn, bồi dưỡng nghiệp vụ, chú trọng bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cấp phiếu lý lịch tư pháp, đặc biệt là xác minh điều kiện đương nhiên được xóa án tích.
Có thể thấy, chế định đương nhiên xóa án tích mang tính nhân đạo sâu sắc, tạo điều kiện cho người phạm tội không bị mặc cảm bởi sự phân biệt đối xử trong xã hội sau khi chấp hành án. Tuy nhiên, bản chất nhân đạo của chính sách này chỉ được thể hiện khi nó được gắn liền với việc cấp phiếu lý lịch tư pháp cho người đã được xóa án tích với việc ghi “không có án tích”. Vì vậy, với việc xác nhận của phiếu lý lịch tư pháp, người được xóa án tích mới “thực sự” được coi như chưa bị kết án và hòa nhập cộng đồng một cách dễ dàng hơn.
PHẠM LINH TRANG
Tòa án quân sự khu vực, Quân Khu 1