Các đối tượng lừa đảo làm giả sổ đỏ, sau đó rao bán trên mạng, người có nhu cầu mua thì họ sẵn sàng dẫn đến địa điểm đất và nhà (bị giả mạo) để xem. Khi "ưng ý" thì các đối tượng thỏa thuận giá với người mua (chủ yếu là giá rẻ để lôi kéo người mua) và yêu cầu đặt cọc, sau đó các bên dẫn nhau đến tổ chức hành nghề công chứng để công chứng viên công chứng hợp đồng chuyển nhượng.
Khi ký xong hợp đồng chuyển nhượng thì người mua đưa tiền đủ cho đối tượng lừa đảo sau đó đi làm thủ tục sang tên, đổi chủ. Lúc này người mua mới "tá hỏa" khi biết mình bị lừa mua đất và nhà của người khác hoặc không có thật và đối tượng lừa đảo thì đã “cao chạy xa bay”.

Ảnh minh họa.
Để xác định sổ đỏ có bị giả mạo hay không thì người mua cần nắm rõ thông tin cụ thể về chủ sở hữu và các thông tin về đăng ký giao dịch bảo đảm tại Văn phòng đăng ký quyền sử dụng đất mới biết về tình trạng pháp lý của sổ đỏ. Không nên nhẹ dạ, cả tin để các đối tượng lợi dụng thực hiện hành vi lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản.
Theo quy định tại Điều 42 Luật Công chứng năm 2014 thì công chứng viên được công chứng hợp đồng, giao dịch về bất động sản trong phạm vi tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương nơi tổ chức hành nghề công chứng đặt trụ sở. Do phạm vi công chứng rộng, nhiều nơi công chứng viên nhiều việc không thể kiểm tra, thẩm định hết tình trạng phải lý của sổ đỏ, nên các đối tượng lừa đảo dễ dàng qua mặt công chứng viên. Nhiều vụ việc phát hiện sổ đỏ bị giả mạo là do Cơ quan Cảnh sát điều tra cung cấp thông tin thông qua các hoạt động điều tra, xác minh, khai thác đối tượng lừa đảo và thông qua các hoạt động giám định kỹ thuật hình sự mới có thể kết luận sổ đỏ bị giả mạo.
Bên cạnh đó, Điều 62 Luật Công chứng năm 2014 quy định: “Cơ sở dữ liệu công chứng bao gồm các thông tin về nguồn gốc tài sản, tình trạng giao dịch của tài sản và các thông tin về biện pháp ngăn chặn được áp dụng đối với tài sản có liên quan đến hợp đồng, giao dịch đã được công chứng”. Và điều luật này cũng giao cho Ủy ban nhân dân cấp tỉnh có trách nhiệm xây dựng cơ sở dữ liệu công chứng của địa phương và ban hành quy chế khai thác, sử dụng cơ sở dữ liệu công chứng.
Khi có Cơ sở dữ liệu công chứng, các tổ chức hành nghề công chứng và công chứng viên cập nhật để tra cứu thông tin khi thực hiện tác nghiệp nhằm hạn chế rủi ro pháp lý có thể xảy ra. Tuy nhiên, hiện nay việc xây dựng Cơ sở dữ liệu công chứng, nhất là các dữ liệu thông tin về hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản đã được công chứng, cơ sở dữ liệu chung về bất động sản…. tại các địa phương trên cả nước chưa được triển khai đồng bộ và đầy đủ. Do đó, những rủi ro pháp lý khi công chứng hợp đồng, giao dịch về bất đồng sản thường xuyên xảy ra, đã gây thiệt rất lớn cho tổ chức và cá nhân.
Chính vì lẽ đó, các cơ quan có thẩm quyền cần triển khai ngay việc xây dựng Cơ sở dữ liệu về công chứng để đảm bảo độ an toàn pháp lý cho các hợp đồng, giao dịch liên quan đến bất động sản. Đồng thời, chỉ đạo các địa phương thường xuyên cung cấp thông tin một cách công khai, minh bạch về tình trạng pháp lý của bất động sản với các nội dung như chủ sở hữu của bất động sản; bất động sản có tranh chấp hay không? bất động sản đang bị cầm cố, thế chấp hay không? Hoặc bất động sản có bị quy hoạch hay không?...để người mua có thể tự tìm hiểu và quyết định việc nhận chuyển nhượng của mình.
Ngoài ra, để ngăn chặn tình trạng lừa đảo chiếm đoạt tài sản, người mua bất động sản cần phải sáng suốt, không nên hám rẻ, không giao tiền cho người bán khi chưa biết rõ về tình trạng pháp lý của bất động sản. Nếu phát hiện có hành vi lừa đảo, giả mạo giấy tờ thì kịp thời trình báo với cơ quan chức năng để kịp thời xử lý theo quy định của pháp luật.