/ Góc nhìn
/ Hành vi đăng, chia sẻ ảnh của các cháu bé dự khai giảng trên mạng xã hội có vi phạm pháp luật?

Hành vi đăng, chia sẻ ảnh của các cháu bé dự khai giảng trên mạng xã hội có vi phạm pháp luật?

05/01/2021 18:10 |

(LSO) - Tại Điều 6, Luật Trẻ em 2016 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, nếu con dưới 7 tuổi thì việc bố mẹ đăng thông tin thuộc nhóm bí mật đời sống riêng tư của con lên mạng xã hội sẽ không vi phạm pháp luật. Nhưng nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên, việc đưa cái thông tin trên lên mạng cần phải được con đồng ý. Nếu con không đồng ý nhưng vẫn đăng thì đây được coi là hành vi vi phạm pháp luật.

Hành vi đăng, chia sẻ ảnh của các cháu bé dự khai giảng trên mạng xã hội có vi phạm pháp luật không?

Ngày 05/9 vừa qua, gần 23 triệu học sinh khai giảng năm học 2020-2021. Cùng với đó, rất nhiều hình ảnh của các bạn học sinh tại buổi lễ khai giảng được đăng trên mạng xã hội. Nhiều hình ảnh với các biểu cảm của các bạn học sinh đã được cộng đồng mạng chia sẻ rộng rãi.

Từ ngày 01/6/2017, quyền riêng tư bí mật của trẻ em lần đầu được quy định trong Luật Trẻ em 2016 chính thức có hiệu lực. Theo đó, nếu đăng tải, công bố thông tin về trẻ em trên 7 tuổi trên mạng xã hội mà gây ảnh hưởng tới cuộc sống của các em thì có thể bị xử lý theo quy định của pháp luật, tùy theo từng mức độ. Vậy việc sử dụng hình ảnh của các cháu bé dự khai giảng năm học đăng, chia sẻ lan truyền trên mạng xã hội có là hành vi vi phạm pháp luật hay không? Hành vi này có thể bị xử lý như thế nào?

Tại Điều 6, Luật Trẻ em 2016 quy định về các hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, nếu con dưới 7 tuổi thì việc bố mẹ đăng thông tin thuộc nhóm bí mật đời sống riêng tư của con lên mạng xã hội sẽ không phạm luật. Nhưng nếu con từ đủ 7 tuổi trở lên, việc đưa cái thông tin trên lên mạng cần phải được con đồng ý. Nếu con không đồng ý nhưng vẫn đăng thì đây được coi là hành vi vi phạm pháp luật.

Tại Điều 29 của Luật An ninh mạng quy định, trẻ em có quyền được giữ bí mật đời sống riêng tư và các quyền khác khi tham gia trên không gian mạng.

Những thông tin thuộc bí mật đời sống riêng tư của trẻ được quy định tại Điều 33, Nghị định 56 năm 2017 của Chính phủ hướng dẫn thi hành Luật Trẻ em năm 2016, cụ thể gồm: tên, tuổi; đặc điểm nhận dạng cá nhân; thông tin về tình trạng sức khỏe và đời tư được ghi trong bệnh án; hình ảnh cá nhân; thông tin về các thành viên trong gia đình, người chăm sóc trẻ em; tài sản cá nhân; số điện thoại; địa chỉ thư tín cá nhân; địa chỉ, thông tin về nơi ở, quê quán. Ngoài ra, còn có địa chỉ, thông tin về trường, lớp, kết quả học tập và các mối quan hệ bạn bè của trẻ em; thông tin về dịch vụ cung cấp cho cá nhân trẻ em.

Hành vi tự ý đăng, chia sẻ ảnh của các cháu bé dự khai giảng trên mạng xã hội mà không được sự đồng ý là hành vi vi phạm pháp luật. Tùy thuộc và mức độ vi phạm cũng như hậu quả xảy ra mà đối tượng thực hiện hành vi này bị xử phạt hành chính hoặc phải chịu trách nhiệm dân sự, nặng hơn có thể là bị truy cứu trách nhiệm hình sự.

Về xử phạt hành chính: Tại điểm e khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP của Chính phủ quy định: Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà không được sự đồng ý hoặc sai mục đích theo quy định của pháp luật thì sẽ bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng.

Tại Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định quyền của cá nhân đối với hình ảnh. Theo đó, cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình. Việc sử dụng hình ảnh của người khác phải được cá nhân đó đồng ý. Việc sử dụng hình ảnh người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh, trừ các bên có thỏa thuận khác.

Việc sử dụng hình ảnh trong 2 nhóm trường hợp sau đây không cần có sự đồng ý của người có hình ảnh hoặc người đại diện theo pháp luật của họ. Thứ nhất, hình ảnh được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng. Thứ hai, hình ảnh được sử dụng từ các hoạt động công cộng, bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh.

Việc sử dụng hình ảnh mà vi phạm quy định tại Điều này thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu Tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh, bồi thường thiệt hại và áp dụng các biện pháp xử lý khác theo quy định của pháp luật.

Về trách nhiệm dân sự: Theo Điều 32, Điều 34 và Điều 38 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định về quyền của cá nhân đối với hình ảnh, quyền được bảo vệ danh dự, nhân phẩm, uy tín và quyền về đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình. Theo đó, trong mọi trường hợp việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Nhà nước nghiêm cấm việc sử dụng hình ảnh của người khác mà xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người có hình ảnh. Người nào xâm phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại theo quy định Bộ luật Dân sự.

Người bị hại có quyền yêu cầu bù đắp tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, mức yêu cầu này do các bên thỏa thuận nhưng không quá 10 tháng lương cơ sở do Nhà nước quy định theo Điều 592 Bộ luật Dân sự năm 2015.

Thiệt hại do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm bao gồm:

- Chi phí hợp lý để hạn chế, khắc phục thiệt hại;

- Thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút;

- Thiệt hại khác do luật quy định.

Người chịu trách nhiệm bồi thường trong trường hợp danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác bị xâm phạm phải bồi thường thiệt hại theo quy định tại khoản 1 Điều này và một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh thần mà người đó gánh chịu. Mức bồi thường bù đắp tổn thất về tinh thần do các bên thỏa thuận; nếu không thỏa thuận được thì mức tối đa cho một người có danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm không quá mười lần mức lương cơ sở do Nhà nước quy định.

THANH THANH

/hanh-vi-dan-dung-hinh-anh-video-dua-len-mxh-boi-xau-nguoi-khac-bi-xu-ly-nhu-the-nao.html